Mở
đầu
Căn
cứ vào chức năng thực hiện quyền lực nhà nước, bất cứ nhà nước nào cũng đều
chia các cơ quan nhà nước thành cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong
đó, lập pháp là chức năng ban hành pháp luật; hành pháp là thực thi pháp luật
còn tư pháp là xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cũng như xử lý các xung đột
của các cá nhân theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên với mỗi kiểu nhà nước
khác nhau, thì việc phân công cơ quan nắm 3 quyền này cũng như mối quan hệ giữa
các cơ quan này là khác nhau.
Ở nước ta, không có sự phân chia quyền
lực một cách tuyệt đối.Theo đó, Hiến pháp 2013 quy định: “quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Các
cơ quan luôn có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Việc kiểm soát lẫn nhau không phải
để chế ước mà là để cùng nhau thực hiện quyền lực nhà nước một cách thống nhất,
vì mục tiêu chung là phục vụ Nhân dân.
Đây
là cơ cấu tổ chức bộ máy ở trung ương, còn ở địa phương thì cũng tương tự, theo
đó HĐND là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, UBND là cơ quan tư pháp và Toà án
(địa phương) là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
Phần thứ nhất
VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG CỦA QH, HĐND
VÀ ĐẠI BIỂU QH, ĐẠI BIỂU HĐND
1. Các khóa Quốc hội
Ngày 23/5/2021 tới đây, cử tri cả nước sẽ tưng bừng
đi bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm
kỳ 2021-2026. Tính đến nay, Quốc hội đã trải qua 14 khoá với nhiệm kỳ từng khoá
cụ thể như sau:
- Quốc hội khoá I, nhiệm kỳ 14 năm, từ
1946-1960;
Đây là Quốc hội có nhiệm kỳ kéo dài nhất
trong lịch sử Quốc hội. Lý do hoàn cảnh khi đó chúng ta mới giành được độc lập,
phải đối mặt với vô vàn khó khăn thách thức, đất nước bị chia cắt bị chia cắt bởi
chiến tranh, do đó không thể tổ chức được
một cuộc bầu cử trên cả nước để bầu Quốc hội khoá mới.
- Quốc hội khoá II, nhiệm kỳ 4 năm, từ
1960-1964;
- Quốc hội khoá III, nhiệm kỳ 7 năm, từ
1964-1971;
Đây là giai đoạn, Miền Bắc
phải ưu tiên nhiệm vụ chiến đấu, chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ tại
miền Bắc, bên cạnh nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam.
- Quốc hội khoá IV, nhiệm kỳ 4
năm, từ 1971-1975;
- Quốc hội khoá V, nhiệm kỳ 1 năm, từ
1975-1976;
Quốc hội khoá 5 được bầu vào ngày
06/4/1975, khi đó nước ta chưa hoàn toàn thống nhất. Sau chiến thắng 30/4 lịch
sử, nước nhà hoàn toàn thống nhất, đất nước sạch bóng quân xâm lược, Quốc
hội đã quyết định rút ngắn nhiệm kỳ để tiến hành cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội
chung của đất nước thống nhất.
- Quốc hội khoá VI, nhiệm kỳ 5
năm, từ 1976-1981;
-
Quốc hội khoá VII, nhiệm kỳ 6 năm, từ 1981-1987;
Quốc
hội khoá VII hoạt động trong bối cảnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của
nhân dân ta chuyển sang giai đoạn cách mạng mới- giai đoạn “tiền đổi mới”. Đảng
ta đã ban hành Nghị quyết về đổi mới mạnh mẽ chính sách giá- lương- tiền và cơ
chế quản lý kinh tế, dứt khoát xoá bỏ quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang hạch
toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Để có thời gian cụ thể hoá Nghị
quyết trên của Đảng, tháng 12/1985, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về việc kéo
dài nhiệm kỳ của Quốc hội khoá VII thêm 1 năm.
-
Quốc hội khoá VIII, nhiệm kỳ 5 năm, từ 1987-1992;
-
Quốc hội khoá IX, nhiệm kỳ 5 năm, từ 1992-1997;
-
Quốc hội khoá X, nhiệm kỳ 5 năm, từ 1997-2002;
-
Quốc hội khoá XI, nhiệm kỳ 5 năm, từ 2002-2007;
-
Quốc hội khoá XII, nhiệm kỳ 4 năm, từ 2007-2011;
Tại
kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá XII (8/2007), Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về
rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII từ 5 năm xuống còn 4 năm, đồng thời kéo dài
nhiệm kỳ HĐND các cấp từ 2009 đến 2011 nhằm thống nhất ngày bầu cử đại biểu QH
và đại biểu HĐND cũng như đảm bảo nhiệm kỳ của QH, HĐND trùng với nhiệm kỳ Đại
hội Đảng, tạo thuận lợi trong việc thực hiện hiệu quả kế hoạch 5 năm.
-
Quốc hội khoá XIII, nhiệm kỳ 5 năm, từ 2011-2016;
-
Quốc hội khóa XIV, nhiệm kỳ 5 năm, từ 2016-2021;
2. Vị trí, chức năng của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
2.1. Vị trí, chức năng của Quốc hội
2.1.1. Vị trí của
Quốc hội
Vị trí của
Quốc hội được quy định tại khoản 1 Điều 69 Hiến pháp
2013:
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”.
Vị trí, tính chất đại biểu cao nhất của
Nhân dân được thể hiện trên các phương diện sau:
- Cách thức thành lập: Quốc hội là cơ quan duy nhất được
Nhân dân cả nước trực tiếp bầu ra. Khác với các cơ quan khác, được hình thành
dựa trên cơ sở các quyết định thành lập, với con người thông qua bầu, phê
chuẩn, hoặc bổ nhiệm. Quốc hội với đại biểu Quốc hội là do cử tri cả nước bầu
ra, được Nhân dân uỷ quyền, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân.
-
Về thành phần đại biểu:
Đại biểu Quốc hội gồm những đại biểu ưu tú nhất đại diện cho mọi tầng lớp, dân
tộc, tôn giáo, độ tuổi, giới tính, các vùng lãnh thổ trong cả nước…
Vị trí là cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện:
- Quốc hội là cơ
quan quyền lực Nhà nước duy nhất nhận
được quyền lực nhà nước trực tiếp từ Nhân dân. Khác với các cơ quan khác,
quyền lực Nhà nước của các cơ quan này cũng là quyền lực của Nhân dân nhưng
không phải do Nhân dân trực tiếp trao cho mà là do Quốc hội uỷ quyền lại thông
qua việc bầu hay phê chuẩn các chức danh quan trọng trong bộ máy Nhà nước hoặc
có được chức năng, nhiệm vụ thông qua quy định của văn bản quy phạm pháp luật
do Quốc hội ban hành, như: nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ được quy định
trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ- là các văn bản do Quốc hội ban hành.
- Quốc hội nắm trong tay quyền lập Hiến
và lập Pháp- quyền năng quan trọng nhất mà không cơ quan nào trong bộ máy nhà
nước có được. Đây là quyền năng quan trọng nhất bởi vì, Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội vì sự tồn tại và
phát triển của xã hội, đồng thời vì lợi ích của giai cấp thống trị- thể hiện ý
chí của giai cấp thống trị.
- Ngoài ra, tính chất quyền lực cao
nhất còn thể hiện thông qua chức năng giám sát tối cao của Quốc hội đối với các
cơ quan thực hiện quyền hành pháp và tư pháp.
2.1.2.
Chức
năng của Quốc hội
- Quốc hội có chức năng “ thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp;
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt
động của Nhà nước.”
*
Quyền lập hiến, quyền lập pháp:
Ban hành Hiến pháp và Luật; sửa đổi Hiến pháp và Luật, là hai văn bản pháp luật
có hiệu lực cao nhất trong hệ thống pháp luật của nước ta, trong đó Hiến pháp
là đạo luật cơ bản, quan trọng nhất. Các văn bản pháp luật khác đều phải phù
hợp với Hiến pháp và Luật như: Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của UBTVQH,
Nghị định của Chính phủ, Thông tư, Thông tư liên tịch của các bộ, liên bộ; Nghị
quyết của HĐTP TANDTC… Ngoài ra, Quốc hội còn có quyền Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
*
Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước gồm:
- Quyết định các vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội gồm:
+ Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu,
chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hằng năm của đất
nước; chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng
quốc gia.
+ Quyết định chính sách cơ bản về tài
chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định
phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách
địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công,
nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung
ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.
+
Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách cơ bản về đối
ngoại của Nhà nước.
- Bầu, phê
chuẩn, miễn nhiệm, bãi nhiệm, phê chuẩn đề nghị miễn
nhiệm, cách chức các chức danh trong BMNN như: bầu Chủ tịch, Chủ tịch, các Phó
Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội; Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước; Chủ tịch Hội đồng dân
tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội;
Thủ tướng Chính phủ;
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao... Phê chuẩn các Phó Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao; thành viên Hội
đồng quốc phòng và an ninh;
thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia.
Miễn nhiệm, bãi nhiệm, phê chuẩn đề nghị miễn
nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
- Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm;
- Quyết định thành lập, bãi bỏ cơ quan; thành lập, giải thể, nhập, chia,
điều chỉnh địa giới hành chính;
- Bãi bỏ văn bản trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
- Quyết định đại xá;
- Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình;
- Phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc
tế;
- Trưng cầu ý dân;
- Xem xét báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị và việc giải quyết kiến nghị
của cử tri cả nước.
* Quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của
Nhà nước được thể hiện: giám sát tối cao
việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.giám sát tối cao hoạt
động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán
nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập.
(Nội
dung trên được quy định tại khoản 2 Điều 69 Hiến pháp 2013, và khoản 2 Điều 1
Luật Tổ chức Quốc hội)
2.2. Vị trí, vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của đại biểu
Quốc hội
2.2.1. Vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội
- Là người đại diện cho ý chí, nguyện
vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước; là người thay
mặt Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước trong Quốc hội: Bởi vì đại biểu Quốc hội là người do Nhân dân bầu
ra, thay mặt Nhân dân trong việc thực hiện quyền lực của Nhân dân thông qua hoạt
động của mình.
- Đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm
trước cử tri và trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu
của mình: Theo đó, nếu đại biểu nào không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của
Nhân dân sẽ bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm.
- Đại biểu Quốc
hội bình đẳng trong thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền
hạn của Quốc hội: Khi quyết định các vấn đề của Quốc hội, ý kiến của các đại
biểu là như nhau, không phân biệt đại biểu giữ chức vụ trong cơ quan Nhà nước
lớn hay nhỏ, đều được tính là 01 phiếu.
(Nội dung trên được quy dịnh tại Điều 21 Luật tổ chức Quốc hội)
2.2.2. Trách nhiệm của đại biểu Quốc hội
Theo đó, đại biểu
Quốc hội có trách nhiệm:
- Tham gia các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội như:
+/Tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên họp toàn thể của Quốc hội; tham gia các
hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội; thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.
+/ Tham dự các
phiên họp, tham gia các hoạt động khác của Hội đồng, Ủy ban; thảo luận và biểu
quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc, Ủy ban mà mình
là thành viên.
+/ Đại biểu Quốc
hội hoạt động chuyên trách có trách nhiệm tham gia hội nghị đại biểu Quốc hội
hoạt động chuyên trách và các hội nghị khác do Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu
tập. Đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách có quyền đăng ký tham dự
hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách để thảo luận về những nội
dung mà đại biểu quan tâm.
- Trách nhiệm với cử tri: Liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự
giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện
vọng của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri
với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; phổ biến và vận động Nhân dân thực
hiện Hiến pháp và pháp luật. Tiếp xúc cử tri theo chương trình tiếp xúc cử tri
của Đoàn đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri ở nơi cư trú, nơi
làm việc; tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, lĩnh vực, đối tượng, địa bàn mà đại
biểu quan tâm. Trong quá trình tiếp xúc cử tri, đại biểu Quốc hội có trách
nhiệm báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và Quốc hội; cử tri hoặc đại
diện cử tri có thể góp ý kiến với đại biểu Quốc hội tại hội nghị cử tri do Đoàn
đại biểu Quốc hội phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và chính quyền địa
phương tổ chức trong trường hợp cần thiết.
- Trách nhiệm tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị của công dân: Khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, đại biểu Quốc hội
có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết
và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị biết; đôn đốc, theo dõi và
giám sát việc giải quyết. Người có thẩm quyền giải quyết phải thông báo cho đại
biểu Quốc hội về kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân
trong thời hạn theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp
xét thấy việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không đúng pháp luật, đại
biểu Quốc hội có quyền gặp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan để
tìm hiểu, yêu cầu xem xét lại; khi cần thiết, đại biểu Quốc hội yêu cầu người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đơn
vị đó giải quyết.
(Nội dung trên được
quy định từ Điều 26-Điều 28 Luật tổ chức Quốc hội 2014, sửa đổi bổ sung năm
2020).
2.2.3. Quyền hạn của đại biểu Quốc hội
- Trình dự án luật, pháp lệnh và kiến nghị về luật, pháp lệnh
- Tham gia làm thành viên và tham gia hoạt động
của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội
- Ứng cử, giới thiệu người ứng
cử vào các chức danh do Quốc hội bầu.
- Chất vấn đối với Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm
toán nhà nước.
- Kiến nghị Quốc hội làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, trưng cầu ý dân, thành lập Ủy
ban lâm thời của Quốc hội, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc
hội bầu hoặc phê chuẩn, tổ chức phiên họp bất thường, phiên họp kín của Quốc
hội và kiến nghị về những vấn đề khác mà đại biểu Quốc hội thấy cần thiết. Kiến
nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân áp dụng biện pháp cần thiết để thực hiện
Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời
chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật khi
phát hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Yêu cầu cung cấp thông tin: Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông
tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Người
đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà
đại biểu Quốc hội yêu cầu theo quy định của pháp luật.
- Tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân các cấp nơi mình thực hiện nhiệm vụ đại biểu, có quyền tham gia ý kiến vào
các vấn đề quản lý nhà nước, vấn đề liên quan đến đời sống của Nhân dân và các
vấn đề khác mà đại biểu quan tâm.
- Miễn trừ của đại biểu Quốc hội: Không được bắt, giam, giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội, khám xét nơi ở và nơi
làm việc của đại biểu Quốc hội nếu không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc trong
thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Việc đề nghị bắt, giam, giữ, khởi tố, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại
biểu Quốc hội thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trường hợp đại
biểu Quốc hội bị tạm giữ vì phạm tội quả tang thì cơ quan tạm giữ phải lập tức
báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Đại biểu Quốc hội
không thể bị cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi đại biểu công tác bãi nhiệm, cách
chức, buộc thôi việc, sa thải nếu không được Ủy ban thường vụ Quốc hội đồng ý.
(Nội dung trên được quy định từ điều 29 đến điều 37 Luật tổ chức Quốc hội
2014, sửa đổi bổ sung năm 2020)
2.3. Vị
trí và nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
2.3.1. Vị trí của HĐND
- Hội đồng nhân dân
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ
quan nhà nước cấp trên. (khoản 1 Điều 113 Hiến pháp và khoản 1 Điều 6 Luật Tổ chức chính quyền địa
phương)
- Như vậy cũng giống như Quốc hội, HĐND
được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân nhưng chỉ trong
phạm vi địa phương (tỉnh, huyện hoặc xã) và phải chịu trách nhiệm trước cơ quan
nhà nước cấp trên.
2.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
- Quyết định các vấn đề của địa phương
do luật định (như: ban hành nghị quyết- là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu
lực pháp lý cao nhất ở địa phương; quyết định kế hoạch phát triển kinh tế- xã
hội trung hạn và hằng năm của địa phương quyết định biện pháp thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh; phân cấp cho chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước cấp
dưới trong việc thực hiện nhiệm vụ…);
- Giám sát việc tuân
theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của Hội
đồng nhân dân như: Giám sát hoạt động
của Thường trực Hội đồng nhân dân
và các cơ quan hành pháp, tư pháp cùng cấp (Ủy
ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp), Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; Giám sát văn bản
quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân
dân cùng cấp và văn bản của Hội
đồng nhân dân cấp dưới. (khoản 2 Điều 113 Hiến pháp 2013).
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND các cấp
được quy định tại các Điều 19 (HĐND tỉnh), Điều 26 (HĐND huyện) và Điều 33
(HĐND xã) Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
2.4. Vị trí và nhiệm vụ, quyền hạn của
đại biểu HĐND
2.4.1.
Vị trí của đại biểu HĐND
- Là người đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương;
- Chịu trách nhiệm
trước cử tri địa phương và trước HĐND về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình.
(khoản
2 Điều 6 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015)
2.4.2.
Nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND
- Có trách nhiệm liên hệ chặt chẽ với
cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo
với cử tri về hoạt động của mình và của HĐND, trả lời những yêu cầu, kiến nghị
của cử tri;
- Xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo;
- Đại biểu HĐND có nhiệm vụ vận động
Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết
của Hội đồng nhân dân, động viên Nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
- Bình đẳng trong
thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân
dân
- Chất vấn Chủ tịch UBND, các thành
viên khác của UBND, Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND và Thủ trưởng cơ quan
thuộc UBND. Người bị chất vấn phải trả lời trước HĐND.
- Kiến nghị với các cơ quan nhà nước,
tổ chức, đơn vị ở địa phương. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị này có
trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu. (Quy định tại Điều 115 Hiến pháp 2013)
Phần
thứ hai
CÁC
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
VÀ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND đã được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ
9 thông qua ngày 25/6/2015, có hiệu lực từ ngày 01/9/2015 là cơ sở pháp lý để tổ
chức thắng lợi, đảm bảo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu HĐND
các cấp diễn ra được dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật.
I.
Bố cục của
Luật bầu cử đại biểu QH và đại biểu HĐND
Luật bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND gồm 10
chương, 98 điều. Điều chỉnh 10 vấn đề sau: Những quy định
chung; Dự kiến cơ cầu, thành phần và phân bổ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND;
đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu; Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ
trách bầu cử ở địa phương; Danh sách cử tri; Ứng cử và hiệp thương, giới thiệu
người ứng cử đại biểu quốc hội, đại biểu HĐND; Tuyên truyền vận động bầu cử; Nguyên
tắc và trình tự bỏ phiếu; Kết quả bầu cử; Bầu cử bổ sung đại biểu; Xử lý vi
phạm pháp luật về bầu cử và điều khoản thi hành.
II. Các quy định của Luật Bầu cử
1.
Bầu cử
1.1. Khái niệm bầu cử
Bầu cử là quá trình các cử
tri của cả nước đưa ra quyết định của họ theo các cách thức mà pháp luật quy định
để chọn ra các đại biểu đại diện cho mình nắm giữ các chức vụ trong cơ quan dân
cử của chính quyền ở trung ương và địa phương trong phạm vi lãnh thổ của đất nước.
Từ đó có thể thấy, bầu
cử gồm các nội dung như sau:
- Bầu cử là một khâu thiết yếu để thành
lập các cơ quan quyền lực nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Thông qua bầu
cử để bầu ra đại biểu quốc hội, đại biểu quốc hội sẽ bầu ra Chủ tịch nước, Chủ
tịch, Phó Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TANDTC và Viện trưởng
VKSND tối cao… Và tương tự, đại biểu HĐND bầu ra các chức danh quan trọng ở địa
phương.
- Bầu cử là phương thức để Nhân dân thực
hiện quyền lực của mình. Thông qua bầu cử, Nhân dân bầu ra đại biểu đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
- Bầu cử là cách thức Nhân dân trao
quyền cho Nhà nước. Bằng bầu cử, nhân dân
lựa chọn thành lập ra cơ quan đại diện và ủy thác quyền lực cho họ.
1.2. Nguyên tắc bầu cử
“Việc bầu cử Quốc hội và đại biểu HĐND được
tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”.
-
Nguyên tắc phổ thông: Đây
là một trong những nguyên tắc cơ bản của bầu cử và cũng được coi là một trong
những quyền cơ bản nhất của công dân và được Hiến pháp của hầu hết các nước quy
định.
Theo đó, mọi công dân đáp ứng điều kiện
về quốc tịch, độ tuổi và không thuộc trường hợp không được ghi tên vào danh
sách cử tri như bị Toà án tước quyền bầu cử, bị phạt tù giam, tử hình, mất năng
lực hành vi dân sự thì đều có quyền bầu cử.
Nguyên tắc này thể hiện tính công khai,
dân chủ rộng rãi, đòi hỏi sự bảo đảm để công dân thực hiện quyền bầu cử, ứng
cử.
Trên
thực tế, pháp luật của một số nước vẫn có sự hạn chế nhất định, gạt ra khỏi đời
sống chính trị một số lượng lớn người dân. Như các nhà tu hành Thái Lan hay
công dân theo đạo hồi ở Iran không có quyền bầu cử.
- Nguyên tắc bình đẳng:
+
Mọi công dân đều có cơ hội ngang nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân
biệt dưới bất cứ hình thức nào.
+
Với số lượng dân như nhau thì được bầu số đại biểu bằng nhau. Mỗi cử tri chỉ
được ghi tên vào một danh sách cử tri, chỉ được bỏ một lá phiếu bầu.
+
Phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu thành phần, số lượng đại biểu để bảo đảm tiến
nói đại diện của các vùng, miền, địa phương, tầng lớp xã hội.
Trên
thực tế hiện nay, sự bất bình đẳng vẫn còn tồn tại ở một số nước. Như ở New
zeland qui định những người có tài sản dưới 1 ngàn bảng Anh có 1 lá phiếu, từ 1
ngàn đến dưới 2 ngàn có 2 lá phiếu, trên 3 ngàn có 3 lá phiếu.
-
Nguyên tắc trực tiếp: Là
việc công dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình qua lá phiếu, trực tiếp bầu ra
đại biểu của mình chứ không phải thông qua đại diện cử tri.
+ Nguyên tắc này đòi hỏi cử tri phải
trực tiếp viết phiếu, bỏ phiếu vào thùng phiếu, không được nhờ người khác trừ
một số trường hợp theo quy định của pháp luật như người già yếu, không biết
chữ…
+ Trên Thế giới, đa
số các nước tiến hành bầu cử theo nguyên tắc này, tuy nhiên, vẫn có một số nước
thực hiện theo nguyên tắc bầu cử gián tiếp, tức là không phải công dân trực
tiếp bầu ra đại biểu của mình mà thông qua các tuyển cử đoàn hoặc đại cử tri
thực hiện. Như ở Trung Quốc, nhân dân chỉ trực tiếp bầu ra đại biểu HĐND cấp phường xã. Các đại biểu
cấp xã này bầu ra đại biểu HĐND cấp quận huyện. Các đại biểu cấp
quận huyện bầu ra đại biểu HĐND tỉnh. Sau đó, đại biểu Quốc hội
Trung Quốc do đại biểu HĐND các tỉnh bầu ra.
-
Nguyên tắc bỏ phiếu kín: Nguyên tắc
này bảo đảm cho cử tri tự do chọn lựa người mình tín nhiệm mà không bị tác động
bởi những điều kiện và yếu tố bên ngoài. Cử tri bầu ai, không bầu ai đều được đảm
bảo bí mật.
+ Khi cử tri viết phiếu bầu không
ai được đến xem, kể cả cán bộ, nhân viên các tổ chức phụ trách bầu cử; không ai
được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri. Cử tri viết phiếu bầu
trong phòng kín và bỏ phiếu vào hòm phiếu.
(
Nội dung trên được quy định tại Điều 7 Hiến pháp 2013 và Điều 1 Luật bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND)
Ngoài 4 nguyên tắc trên, bầu cử còn có nguyên tắc tự do (hoặc
bắt buộc).
2. Cử tri
2.1. Điều kiện của cử tri
Cử tri là người có quyền bầu cử.
Để
được bầu cử, công dân phải thoả mãn các điều kiện sau:
-
Phải là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tức là phải có quốc tịch
Việt Nam;
- Đủ
18 tuổi trở lên tính đến ngày bầu cử được công bố;
-
Đang cư trú ở trong nước. Đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài thì phải trở về
Việt Nam ít nhất 24 giờ trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu;
-
Được ghi tên trong danh sách cử tri (không thuộc các trường hợp không được ghi
tên vào danh sách cử tri theo quy định của pháp luật).
(Điều 3, khoản 4 Điều 29, khoản 1 Điều 30 Luật
bầu cử)
2.2. Các trường hợp không được ghi tên
vào danh sách cử tri
Những trường hợp sau không được ghi tên vào danh
sách cử tri:
- Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật: Chú ý ở đây là bản án, quyết định của
Toà án đối với người đó đã có hiệu lực pháp luật. Còn nếu chưa thì họ vẫn được
bầu cử. Ví dụ…..
-
Người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án;
-
Người đang chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo;
-
Người mất năng lực hành vi dân sự, tức là những người bị bệnh tâm thần hoặc các
bệnh khác mà không có khả năng nhận thức.
(khoản 1 Điều 30 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu HĐND)
2.3. Nguyên tắc lập danh sách cử tri
- Mọi công dân có quyền bầu cử đều được
ghi tên vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri, trừ các trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 30 của Luật bầu cử
(tức là trừ các trường hợp không được ghi
tên vào danh sách cử tri). Qui định
này chính là nội dung của nguyên tắc phổ thông trong bầu cử.
- Mỗi công dân chỉ được ghi tên vào một
danh sách cử tri ở nơi mình thường trú hoặc tạm trú (Trường hợp tạm trú chưa đủ
12 tháng thì vẫn được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi tạm trú). Qui định này nhằm đảm bảo một công dân chỉ
được một phiếu bầu, đây chính là điều kiện để nguyên tắc bình đẳng được đảm bảo
và thực hiện nghiêm.
- Cử tri là quân nhân ở các đơn vị vũ
trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi đóng quân.
- Công dân Việt Nam ở nước ngoài trở về
Việt Nam trong khoảng thời gian từ
sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu
24 giờ, thì đến UBND cấp xã xuất
trình Hộ chiếu có ghi quốc tịch Việt Nam để được ghi tên vào danh sách cử tri
và nhận thẻ cử tri.
- Cử tri là người đang bị tạm giam, tạm
giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi người đó đang bị tạm
giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
(Theo
Điều 29 Luật bầu cử đại biểu QH và đại biểu HĐND)
Tuy
nhiên, ở đây có một vấn đề chúng ta cần chú ý là:
Đối với trường hợp:
- Cử tri có thời gian tạm trú chưa đủ
12 tháng mà ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi tạm trú;
- Cử tri là quân nhân ghi tên vào danh
sách cử tri ở nơi đóng quân;
- Cử tri là công dân Việt Nam ở nước
ngoài trở về Việt Nam trong khoảng thời
gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết đến trước thời
điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ, nếu xuất trình Hộ chiếu có ghi quốc tịch Việt Nam
tại UBND cấp xã nơi tạm trú
Thì:
Chỉ tiến hành bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện mà không
bầu đại biểu HĐND cấp xã, phường.
- Đối với cử tri là người đang bị tạm
giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
cơ sở cai nghiện bắt buộc thì chỉ được bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND
cấp tỉnh ở nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc (không bầu đại biểu HĐND cấp huyện, cấp xã).
2.4. Bổ sung, xoá tên trong danh sách
cử tri
Việc bổ sung, xoá tên trong danh sách
cử tri được quy định như sau:
-
Đối với người thuộc trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri (tức là
người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật, người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án,
người đang chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo, người mất năng
lực hành vi dân sự) nếu đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ được khôi
phục lại quyền bầu cử, được trả lại tự do hoặc được cơ quan có thẩm quyền xác
nhận không còn trong tình trạng
mất năng lực hành vi dân sự thì được bổ sung vào danh sách cử tri và được phát
thẻ cử tri;
-
Trong thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết đến trước thời
điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ, những người thay đổi nơi cư trú (thường trú và
tạm trú) ra ngoài đơn vị hành chính cấp xã nơi đã được ghi tên vào danh sách cử
tri thì được xóa tên trong danh sách cử tri ở nơi cư trú cũ và bổ sung vào danh
sách cử tri tại nơi cư trú mới.
- Cử tri là người đang bị tạm giam, tạm
giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc, nếu đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ mà được trả tự
do hoặc đã hết thời gian giáo dục bắt buộc, cai nghiện bắt buộc thì được xóa
tên trong danh sách cử tri ở nơi có trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ
sở cai nghiện bắt buộc, được bổ sung vào danh sách cử tri tại nơi cư trú.
- Người đã có tên trong danh sách cử tri mà đến thời điểm
bắt đầu bỏ phiếu bị Tòa án tước quyền bầu cử, phải chấp hành hình phạt tù hoặc
mất năng lực hành vi dân sự thì UBND
cấp xã xóa tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi thẻ cử tri. Lấy ví dụ
mimh họa (Khoản 2, 3, 4, 5 Điều 30 Luật
bầu cử)
2.5. Thẩm
quyền lập danh sách cử tri
-
Danh sách cử tri do UBND cấp xã lập theo từng khu vực bỏ phiếu.
Đối với huyện không có đơn vị hành
chính xã, thị trấn thì Ủy ban nhân
dân huyện có trách nhiệm lập danh sách cử tri theo từng khu vực bỏ phiếu.
- Danh sách cử tri trong đơn vị vũ trang nhân dân do chỉ
huy đơn vị lập theo đơn vị vũ
trang nhân dân để đưa vào danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu nơi đơn vị đóng
quân.
Quân nhân có hộ khẩu thường trú ở địa
phương gần khu vực đóng quân có thể được chỉ huy đơn vị cấp giấy chứng nhận để
được ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu ở nơi thường trú. Khi
cấp giấy chứng nhận, chỉ huy đơn vị phải
ghi ngay vào danh sách cử tri tại đơn vị vũ trang nhân dân bên cạnh tên người
đó cụm từ “Bỏ phiếu ở nơi cư trú”. (Điều
31 Luật bầu cử)
2.6. Niêm yết danh sách cử tri
Chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử,
cơ quan lập danh sách cử tri phải niêm yết danh sách cử tri tại trụ sở UBND cấp
xã và tại những địa điểm công cộng của khu vực bỏ phiếu, đồng thời thông báo
rộng rãi danh sách cử tri và việc niêm yết để nhân dân kiểm tra. (Điều 32 Luật Bầu cử).
3.
Người ứng cử
Người ứng cử gồm có:
-
Người được giới thiệu ứng cử: Là những người được tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước
giới thiệu ứng cử;
-
Người tự ứng cử: Người tự mình ứng cử để cử tri bầu.
3.1. Điều kiện của người ứng cử
-
Là công dân Việt Nam;
-
Tính đến ngày bầu cử được công bố, đủ hai mươi mốt tuổi trở lên;
-
Đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội qui định tại Luật Tổ chức QH (đối
với người ứng cử đại biểu QH); các tiêu chuẩn của đại biểu HĐND (qui định tại
Luật tổ chức chính quyền địa phương);
-
Không thuộc các trường hợp không được ứng cử đại biểu.
3.2. Tiêu chuẩn của đại biểu QH, đại biểu
HĐND
- Có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam.
- Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân
và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và
các hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Có trình độ văn hóa, chuyên môn, có đủ năng lực, sức
khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu.
- Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của
Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm.
- Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội
(HĐND).
(Điều 22 Luật tổ
chức Quốc hội 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2020 và Điều 7 Luật tổ chức chính
quyền địa phương 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019)
3.3. Trường hợp không được ứng cử
- Người đang bị tước quyền ứng cử theo
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang chấp hành
hình phạt tù, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
- Người đang bị khởi tố bị can.
- Người đang chấp hành bản án, quyết
định hình sự của Tòa án.
- Người đã chấp hành xong bản án, quyết
định hình sự của Tòa án nhưng chưa được xóa án tích.
- Người đang chấp hành biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
(Điều
37 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND)
Như vậy, so với điều kiện
của cử tri, thì điều kiện của người ứng cử được Luật qui định chặt chẽ hơn rất
nhiều, cụ thể:
- Đối với cử tri, chỉ người nào đang
chấp hành hình phạt tù không phải án treo (tức là thi hành án trong trại giam)
thì mới không được bầu cử. Còn đối với người ứng cử, chỉ cần đang chấp hành
hình phạt tù (có thể là giam, có thể là treo) là đã không được quyền ứng cử.
- Hoặc chỉ cần đang bị khởi tố bị can
(tức là Toà án chưa xét xử) là đã mất quyền ứng cử, trong khi những người đang
bị tạm giam, tạm giữ hoặc đang chờ thi hành án tù vẫn có quyền đi bầu cử.
- Đối với cử tri, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự vẫn có quyền bầu cử, còn người ứng cử phải là người
không bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Hạn chế năng lực hành vi dân
sự ở đây là người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá
tán tài sản của gia đình và bị Toà án tuyên bố là bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự.
- Người đã chấp hành xong bản án,
quyết định hình sự của Toà án là đã có quyền bầu cử nhưng người ứng cử phải là
người được xoá án tích. VD, anh A chấp hành xong bản án 3 năm tù, được trả tự
do trước thời điểm bỏ phiếu 24h sẽ được bổ sung vào danh sách cử tri. Nhưng, để
được ứng cử, anh A phải được trả tự do trước thời điểm ứng cử là 3 năm (là thời
gian đủ để được xoá án tích).
TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐƯỢC ĐƯA VÀO DANH SÁCH ỨNG CỬ, ĐỀ CỬ THEO CHỈ THỊ
45-CT/TƯ NGÀY 20/6/2020 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
Ngoài
quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, ngày 20/6/2020, Bộ
Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW xác định kiên quyết không giới thiệu ứng
cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp những người không xứng
đáng, không đủ tiêu chuẩn, nhất là những người sa sút về phẩm chất đạo đức,
tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, xu nịnh, kiêu ngạo, quan liêu, gây mất đoàn
kết, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước.
Thực hiện tốt các quy định trên, chúng ta tin tưởng rằng, đại biểu
Quốc hội khoá XV sẽ là những người thực sự đại diện cho ý chí của Nhân dân,
hoạt động một cách hiệu quả, có trách nhiệm, thực sự do dân và vì dân.
4.
Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức
trong công tác bầu cử
* Quốc
hội
- Quyết
định ngày bầu cử toàn quốc đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại
biểu HĐND các cấp;
Tuy
nhiên, quyết định của Quốc hội phải đảm bảo quy định của Luật bầu cử, đó là:
Ngày
bầu cử phải là ngày chủ nhật và được công bố chậm nhất là 115 ngày trước ngày
bầu cử.
- Quyết định việc bầu cử bổ sung đại
biểu Quốc hội trong thời gian giữa nhiệm kỳ;
- Quyết định, thành lập Hội đồng bầu cử
quốc gia.
* Hội
đồng bầu cử quốc gia
Tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ
đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
* Ủy ban thường
vụ Quốc hội
Thực
hiện việc dự kiến và phân bổ số lượng đại biểu Quốc hội được bầu;xác định cơ
cấu, thành phần những người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội; hướng dẫn
việc xác định dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người được giới
thiệu ứng cử đại biểu HĐND các cấp; tổ chức giám sát công tác bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND, bảo đảm cho việc bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng
pháp luật, an toàn, tiết kiệm.
* Chính phủ
Chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp
thực hiện công tác bầu cử theo quy định của pháp luật; tổ chức thực hiện các
biện pháp bảo đảm kinh phí, hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí tổ chức
bầu cử, bảo đảm công tác thông tin, tuyên truyền, an ninh, an toàn và các điều
kiện cần thiết khác phục vụ cuộc bầu cử.
* Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới
thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp; tham gia giám
sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp.
* Ủy ban bầu cử ở địa phương
UB bầu cử cấp tỉnh: Tổ chức bầu cử đại
biểu Quốc hội tại địa phương;
Ủy ban bầu cử các cấp: tổ chức bầu cử
đại biểu HĐND cấp mình (UBBC cấp tỉnh thì tổ chức bầu đại biểu HĐND cấp tỉnh,
cấp huyện thì bầu cấp huyện và cấp xã thì bầu đại biểu cấp xã);
Các Ban bầu cử, Tổ bầu cử thực hiện
công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp theo quy định của Luật
này.
* Thường trực Hội đồng nhân dân
Dự kiến cơ cấu,
thành phần, số lượng đại biểu HĐND của cấp mình;
Thường trực HĐND, UBND các cấp trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát, kiểm tra và thực hiện
công tác bầu cử theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật
khác có liên quan.
* Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự
nghiệp, tổ chức kinh tế
Có trách nhiệm tạo điều kiện để
các tổ chức phụ trách bầu cử
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
(Điều 4
Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND quy định cac nội dung trên)
5. Quy trình bầu cử
-
Trước tiên, UBTV Quốc hội sẽ dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ số lượng đại
biểu QH cho các cơ quan trung ương và ở địa phương; dự kiến cơ cấu, thành phần
đại biểu HĐND ở địa phương.
-
Trên cơ sở dự kiến của UBTV Quốc hội, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam sẽ tổ
chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất để thoả thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ
quan, tổ chức, đơn vị được giới thiệu ứng cử đại biểu QH.
-
Trên cơ sở kết quả Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất, UBTV Quốc hội sẽ tiến
hành điều chỉnh cơ cấu, thành phần đại biểu.
Căn
cứ điều chỉnh của UBTV Quốc hội, các cơ quan, đơn vị, tổ chức được phân bổ đại
biểu sẽ tiến hành giới thiệu người của mình ra ứng cử đại biểu.
Căn
cứ kết quả giới thiệu của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, UBMTTQ Việt Nam sẽ tiến
hành Hội nghị hiệp thương lần thứ hai để lập danh sách sơ bộ người ứng cử.
-
Trên cơ sở danh sách sơ bộ người ứng cử, UBTV Quốc hội sẽ tiến hành điều chỉnh
cơ cấu, thành phần đại biểu lần thứ hai. Tổ chức Hội nghị cử tri nơi người có
tên trong danh sách ứng cử để lấy ý kiến của cử tri nơi cư trú.Đối với người tự
ứng cử có nơi công tác, thì nơi công tác còn phải tổ chức Hội nghị cử tri nơi
người tự ứng cử công tác.
- Căn cứ kết quả điều chỉnh lần thứ hai của UBTVQH
và kết quả lấy ý kiến của cử tri tại Hội nghị cử tri, UBMTTQ Việt Nam sẽ tiến
hành Hội nghị hiệp thương lần thứ ba để lập danh sách những người ứng cử đủ
tiêu chuẩn đại biểu.
-
Trên cơ sở danh sách những người ứng cử đủ tiêu chuẩn đại biểu, Hội đồng bầu cử
quốc gia sẽ lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu.
Những
người có tên trong danh sách chính thức do Hội đồng bầu cử quốc gia lập sẽ tiến
hành vận động bầu cử.
*
Đến ngày 23/5/2021, cử tri cả nước sẽ đồng thời tiến hành bỏ phiếu để bầu đại
biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Việc bỏ
phiếu được tiến hành tại các khu vực bỏ phiếu, theo đơn vị bỏ phiếu đã được Hội
đồng bầu cử quốc gia ấn định ngay sau khi UBTVQH điều chỉnh dự kiến cơ cấu,
thành phần đại biểu lần thứ nhất.
Sau
khi cử tri bỏ phiếu xong sẽ tiến hành kiểm phiếu, công bố kết quả bầu cử và xác
nhận tư cách người trúng cử.
*Trên đây là quy trình một cuộc bầu cử.
Tuy nhiên, nếu kết quả kiểm phiếu mà không bầu đủ số lượng đại biểu thì sẽ tiến
hành bầu cử thêm;
Nếu số
lượng cử tri đi bầu chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri ghi trong danh sách cử
tri hoặc có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong việc bầu cử thì sẽ tiến hành bầu cử lại.
Trường hợp trong nhiệm kỳ mà vì lý do
nào đó, số lượng đại biểu không đủ so với đầu nhiệm kỳ thì sẽ tiến hành bầu cử
bổ sung (Điều 89 Luật bầu cử).
5.1. Dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ đại
biểu QH, đại biểu HĐND
-
Tại sao phải phải dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ đại biểu?
Bởi
vì đại biểu Quốc hội là đại diện cho cử tri cả nước, đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của tất cả Nhân dân. Nếu như không phân bổ một cách hợp lý sẽ dẫn
tới tình trạng cục bộ địa phương, đại biểu sẽ không đại diện cho tiếng nói của
Nhân dân cả nước hoặc Quốc hội hoạt động thiếu hiệu quả, lợi ích nhóm, cục bộ
ngành, cục bộ địa phương...
Tôi
lấy ví dụ, nếu đại biểu đa số là ở các cơ quan trung ương sẽ dẫn tới việc không
sâu sát, nắm được tình hình của các địa phương. Còn nếu đại biểu đa số là ở địa
phương, hoặc phân bổ giữa các địa phương không hợp lý sẽ dẫn tới chỉ chú trọng
mang lại quyền lợi cho địa phương này mà làm ảnh hưởng tới địa phương khác.
-
Chỉ thị số 45-CT/TW/2020 của Bộ Chính trị đã xác định: Phấn đấu giới thiệu, lựa
chọn bầu được những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thật sự
tiêu biểu, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân; bảo đảm đủ tiêu chuẩn, đủ số lượng, có cơ cấu hợp lý, trong đó lấy tiêu
chuẩn, chất lượng đại biểu làm trọng tâm, không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu
chuẩn. Phấn đấu bầu đủ 500 đại biểu Quốc hội và đạt tỉ lệ đại biểu Quốc hội
chuyên trách.
- Trên cơ
sở nội dung của Chỉ thị số 45-CT/TW, UBTV Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1185/NQ-UBTVQH14 ngày 11/01/2021 dự kiến số
lượng, cơ cấu, thành phần ĐBQH khóa XV và Nghị quyết số 1187/NQ-UBTVQH14 ngày 11/01/2021 hướng dẫn việc xác định dự kiến cơ cấu,
thành phần và phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND các
cấp nhiệm kỳ 2021-2026.
Nội dung của các Nghị quyết không chỉ
phân bổ số lượng, dự kiến cơ cấu, thành phần của đại biểu mà còn dự kiến phân
bổ số lượng, cơ cấu, thành phần của người được giới thiệu ứng cử. Cụ thể như
sau:
Theo quy định của Nghị quyết số 1185/NQ-UBTVQH14
thì tổng số đại biểu Quốc hội khoá XV là 500 người. Quy định này là phù hợp với quy định của Luật bầu cử về số lượng đại biểu.
Trong đó, dự kiến số lượng đại biểu ở trung ương là 207 đại biểu (41,4%) (tăng 09
đại biểu so với khóa XIV). Số lượng đại biểu ở địa phương là 293 đại biểu
(58,6%) (giảm 09 đại biểu so với khóa XIV).
*
Cơ
cấu ở Trung ương cụ thể như sau (có so sánh với khóa XIV):
- Các cơ quan Đảng: 10 đại biểu (2,0%) (giảm 01 đại biểu).
- Cơ quan Chủ tịch nước: 03 đại biểu (0,6%) (giữ nguyên).
- Các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Văn phòng Quốc hội (đại biểu Quốc hội chuyên trách ở trung ương): 133
đại biểu (26,6%) (tăng 19 đại biểu).
- Chính phủ, cơ quan thuộc Chính phủ (bao gồm cả Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng và Bộ trưởng Bộ Công an): 15 đại biểu (3,0%) (giảm 03 đại biểu).
- Lực lượng vũ
trang:
+ Quân đội (cơ quan Bộ, các quân khu,
quân chủng và lĩnh vực trọng yếu): 12 đại biểu (2,4%) (giảm 03 đại biểu);
(đối với Quân khu 2, được sự đồng ý của Quân ủy Trung ương, Quân khu 2
đã giới thiệu đ/c Thiếu
tướng Nguyễn Đăng Khải, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu
tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV).
+ Công an: 02 đại biểu (0,4%) (giảm 01 đại biểu).
- Tòa án nhân dân tối cao : 01 đại biểu (0,2%) (giữ nguyên).
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao: 01 đại biểu (0,2%) (giữ nguyên).
- Kiểm toán nhà nước : 01 đại biểu (0,2%) (giữ nguyên).
- Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên: 29 đại biểu (5,8%) (giảm 02 đại biểu).
* Cơ
cấu ở địa phương (có so sánh với khóa XIV):
Cơ cấu
định hướng là 220
đại biểu (44%) (giảm 06 đại biểu), cơ cấu
hướng dẫn là 73
đại biểu (14,6%) (giảm 03 đại biểu).
Cụ thể cơ cấu định hướng như sau:
- Lãnh đạo chủ chốt ở các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương kiêm Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội (Bí thư hoặc
Phó Bí thư, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân) 63 đại biểu
(12,6%) (giữ nguyên).
- Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại Đoàn đại
biểu Quốc hội 67 đại biểu (13,4%) (đối với thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, tỉnh Nghệ An và tỉnh Thanh Hóa, mỗi địa phương có 02 đại biểu Quốc hội
hoạt động chuyên trách) (giữ nguyên).
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam : 09 đại biểu (1,8%) (giảm 01 đại biểu).
- Công đoàn : 06 đại biểu (1,2%) (giữ nguyên).
- Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: 05 đại biểu (1,0%) (giữ nguyên).
- Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam: 07 đại biểu (1,4%) (giảm 01 đại biểu).
- Hội Nông dân Việt Nam: 05 đại biểu (1,0%) (giữ nguyên).
- Hội Cựu chiến binh Việt Nam: 03 đại biểu (0,6%) (giữ nguyên).
- Đại biểu tôn giáo: 06 đại biểu (1,2%) (giữ nguyên).
- Quân đội (bao gồm Bộ Chỉ huy quân sự và Bộ Chỉ huy Bộ đội
biên phòng cấp tỉnh): 14 đại biểu (2,8%)
(giảm 02 đại biểu).
- Công an: 09 đại biểu (1,8%) (giảm 02 đại biểu).
- Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Sở Tư pháp: 13
đại biểu (2,6%), trong đó: Tòa án nhân dân: 05 đại biểu (tăng 01 đại biểu); Viện Kiểm sát nhân dân: 04 đại
biểu (giữ nguyên); Sở Tư pháp: 04 đại biểu (giảm 01 đại biểu).
- Tổ chức khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo (viện
nghiên cứu, đại học, học viện, ...): 06 đại biểu (1,2%) (giữ nguyên).
- Doanh nghiệp, hiệp hội, nghiệp đoàn về lĩnh vực sản xuất
kinh doanh: 07 đại biểu (1,4%) (giữ nguyên).
Cơ cấu hướng dẫn: gồm đại diện các
ngành: khoa học - công nghệ, lao động, thương binh - xã hội, giáo dục, y tế,
văn hóa - nghệ thuật, đại diện Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên ... Trong cơ cấu này, cần quan tâm phân bổ hợp lý số người là
phụ nữ, ngoài Đảng, dân tộc, trẻ tuổi và tự ứng cử.
Trên
đây là cơ cấu, số lượng giữa Trung ương và địa phương.
Để đảm
bảo hợp lý thành phần chính trị, xã hội, Nghị quyết đã hướng dẫn về cơ cấu kết
hợp như sau:
* Cơ cấu kết hợp
Cơ cấu kết hợp là các cơ
cấu theo chỉ tiêu kết hợp. Một người ứng cử đại biểu Quốc hội có thể có nhiều
hơn một cơ cấu kết hợp, gồm:
- Đại
biểu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoảng 95 đồng chí (14%) (tăng 15 đại biểu), trong đó có 12-14 đồng chí là
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng
(giữ nguyên).
- Đại biểu là người ngoài Đảng: từ 25-50 đại biểu
(5%-10%) (giữ
nguyên).
- Đại biểu trẻ tuổi (dưới
40 tuổi): khoảng 50 đại biểu (10%) (giữ
nguyên).
- Đại biểu tái cử: khoảng
160 đại biểu (32%) (giữ nguyên).
- Đại
biểu là người dân tộc thiểu số bảo đảm tỷ lệ ít nhất 18% tổng số người trong
danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội (giữ nguyên tỷ lệ).
- Đại
biểu là phụ nữ bảo đảm tỷ lệ ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính
thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội
(tăng tỷ lệ).
*
Số lượng đại biểu được bầu tại các tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ:
1. Nguyên tắc phân bổ
- Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương có ít nhất ba đại biểu cư trú và làm việc tại địa phương;
- Số lượng đại
biểu tiếp theo được tính theo số dân và đặc điểm của mỗi địa phương, bảo đảm
tổng số đại biểu Quốc hội dự kiến được bầu là 500 đại
biểu;
- Bảo đảm mỗi tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương có ít nhất 6 đại biểu.
2. Số lượng đại biểu Quốc hội khóa XV
dự kiến được bầu ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tại phụ lục kèm
theo.
Như
chúng ta thấy trên phụ lục, TPHCM và Hà Nội là 2 thành phố được phân bổ số đại
biểu nhiều nhất với số lượng TPHCM là 30 đại
biểu, Hà
Nội là 29 đại biểu. Các tỉnh ít nhất là 6 đại biểu.
Về xác định dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ số lượng người được giới thiệu
ứng cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, các đ/c tự nghiên cứu Nghị quyết số 1187/NQ-UBTVQH14 ngày 11/01/2021 của UBTVQH.
* Một điểm đáng chú ý là: Quốc hội cho phép Hà Nội thí điểm
không tổ chức HĐND ở phường; riêng Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh thực hiện ở cả
quận và phường; trong đó TP HCM triển khai luôn mà không tiếp tục “thí điểm”.
Triển khai nhiệm
vụ đó, tại Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 14/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tổ
chức cuộc bầu cử đại biểu QH khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ
2021-2026 đã chỉ đạo UBND các thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà
Nẵng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm triển khai thực
hiện các Nghị quyết của Quốc hội về mô hình tổ chức chính quyền đô thị. Trong
đó, tại quận, phường của TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và tại phường của TP Hà Nội sẽ
không tổ chức bầu đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2021-2026.
5.2. Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất
Trên cơ sở dự kiến của UBTVQH chậm
nhất là 95 ngày trước ngày bầu cử, MTTQVN sẽ tổ chức hội nghị hiệp thương lần
thứ nhất để thoả thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ
chức, đơn vị được giới thiệu ứng cử đại biểu QH (ở Trung ương do Đoàn chủ tịch
UBTWMTTQVN tổ chức. Còn ở địa phương, do Ban thường trực UBMTTQVN cấp tỉnh tổ
chức).
Ngày 15/01/2021, Ủy ban Thường vụ QH, CP, Đoàn Chủ tịch UBTW MTTQVN
ban hành Nghị quyết liên tịch số 09/2021/NQ liên tịch hướng dẫn quy trình hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại
biểu QH khóa XV, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đã xác
định Hội
nghị hiệp thương lần thứ nhất được tổ chức trong khoảng thời gian từ ngày 03/02/2021
đến ngày 17/02/2021.
5.3. Điều chỉnh lần thứ nhất cơ cấu,
thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử
Thống nhất với
kết quả Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất,
chậm nhất là 90 ngày trước ngày bầu cử, UBTVQH
điều chỉnh lần thứ nhất cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng
cử (của cả trung ương và địa phương).
Ngày 22/02/2021,
UBTVQH ban hành Nghị quyết số 1226/NQ-UBTVQH14 điều chỉnh lần
thứ nhất cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức,
đơn vị ở trung ương và địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu QH
khóa XV. Theo đó:
Số lượng đại biểu
Quốc hội khóa XV ở trung ương vẫn là 207 đại biểu. Trong đó, cơ cấu, thành
phần, số lượng người được phân bổ ở Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
thành viên được quy định cụ thể gồm: 29 đại biểu, trong đó có đại biểu là
phụ nữ, đại biểu là người dân tộc thiểu số, đại biểu trẻ tuổi (dưới 40 tuổi),
đại biểu tôn giáo, đại biểu là người ngoài Đảng, đại biểu tái cử, nhân sĩ trí
thức và văn nghệ sỹ tiêu biểu.
5.4. Giới thiệu người ứng cử
Trên cơ sở điều chỉnh lần thứ nhất của
UBTVQH về cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử, các cơ
quan tổ chức, đơn vị ở trung ương và địa phương sẽ tiến hành lựa chọn, giới
thiệu người của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình ứng cử đại biểu QH.
Sau khi lựa chọn xong, sẽ tổ chức lấy ý
kiến tại Hội nghị cử tri của cơ quan, đơn vị.
Trên cơ sở ý kiến của hội nghị cử tri,
lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo, chỉ huy đơn
vị, đại diện ban chấp hành công đoàn, đại diện quân nhân và chỉ huy cấp dưới
trực tiếp (đối với đơn vị vũ trang nhân dân) để thảo luận, giới thiệu người của
đơn vị mình ứng cử đại biểu QH.
5.5. Tổ chức Hội nghị hiệp thương lần
thứ hai
Mục đích của Hội nghị hiệp thương lần thứ
hai là để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu trên cơ sở điều chỉnh
lần thứ nhất của UBTVQH và kết quả giới thiệu của các cơ quan, tổ chức đơn vị. Sau đó, gửi lấy ý kiến của cử tri nơi
người ứng cử cư trú. Đối với người tự ứng cử, còn phải gửi lấy ý kiến cử tri
nơi người đó công tác.
Thời gian: Chậm nhất là 65 ngày trước
ngày bầu cử.
Quốc hội khóa XV, nhiệm kỳ 2021-2026 đã xác
định Hội nghị hiệp thương
lần thứ hai được tổ chức trong
khoảng thời gian từ ngày 15/3/2021 đến ngày 19/3/2021 (theo Nghị quyết
liên tịch số 09/2021).
5.6. Điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số
lượng đại biểu (lần thứ hai)
Trên cơ sở kết quả hội nghị Hiệp thương
lần thứ hai, chậm nhất là 55 ngày trước ngày bầu cử, UBTVQH sẽ tiến hành điều
chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu.
Cụ thể Hội nghị hiệp thương lần thứ hai giới thiệu
người ứng cử đại biểu QH khóa XV, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ
2021-2026 được điều chỉnh chậm nhất là
ngày 29/3/2021.
5.7. Tổ
chức Hội nghị cử tri
Sau khi người được giới thiệu và người
tự ứng cử được Hội nghị hiệp thương lần thứ hai đưa vào danh sách sơ bộ, và gửi
danh sách này tới nơi cư trú (hoặc nơi công tác đối với người tự ứng cử) của
người có tên trong danh sách để tổ chức Hội nghị cử tri.
Cấp có thẩm quyền tổ chức:
- Hội nghị cử tri nơi cư trú: Do Ban
thường trực UBMTTQVN cấp xã phối hợp với
UBND cùng cấp để tổ chức.
- Hội nghị cử tri nơi công tác: Do
người đứng đầu nơi công tác tổ chức.
Nơi tổ chức:
- Hội nghị cử tri nơi cư trú: Thôn, tổ dân phố nơi người ứng cử cư
trú thường xuyên để lấy ý kiến.
- Hội nghị cử tri nơi công tác: Tổ chức
tại nơi công tác.
Nội
dung:
- Cử tri được nghe giới thiệu về người
ứng cử;
- Đối chiếu tiêu chuẩn đại biểu để nhận
xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối
với người ứng cử;
- Hình thức tín nhiệm: Giơ tay hoặc bỏ
phiếu kín.
5.8. Hội
nghị hiệp thương lần thứ ba
- Tổ chức chậm nhất là 35 ngày trước
ngày bầu cử. Cụ thể trong khoảng thời
gian từ ngày 14 tháng 4 năm 2021 đến
ngày 18 tháng 4 năm 2021.
-
Mục đích: Lập danh sách những
người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu để gửi tới Hội đồng bầu cử quốc gia và
UBTVQH;
- Căn cứ lập danh sách:
+ Tiêu chuẩn của đại biểu;
+ Cơ cấu, thành phần, số lượng người
được giới thiệu ứng cử đã được UBTVQH điều chỉnh lần thứ hai;
+ Kết quả lấy ý kiến cử tri tại Hội
nghị cử tri nơi cư trú, nơi công tác (đối với đại biểu tự ứng cử).
5.9.
Lập, gửi, công bố, niêm yết danh sách người ứng cử đại biểu
- Chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu
cử, danh sách người ứng cử phải được gửi đến Hội đồng bầu cử quốc gia và UB bầu
cử ở tỉnh.
- Sau khi nhận được danh sách người ứng
cử, HĐBCQG gửi danh sách và hồ sơ những người được giới thiệu về ứng cử tại địa
phương.
- Chậm nhất là 25 ngày trước ngày bầu
cử, HĐBCQG lập và công bố danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu QH
theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước.
- Danh sách chính thức phải ghi rõ họ,
tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, quê quán, nơi thường trú, dân tộc, tôn
giáo, trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp, chức vụ nơi công tác của người
ứng cử. Danh sách tại từng đơn vị bầu cử được xếp theo vần chữ cái A, B, C…
- Trên cơ sở danh sách của HĐBCQG, chậm
nhất là 20 ngày trước ngày bầu cử, UBBC ở tỉnh phải công bố danh sách người ứng
cử đại biểu QH ở địa phương mình.
5.10.
Vận động bầu cử
- Người ứng cử thực hiện vận động bầu
cử trong thời gian từ ngày bắt đầu danh sách chính thức và kết thúc trước thời
điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ.
- Hình thức vận động: Thông qua hội
nghị tiếp xúc cử tri và thông qua phương tiện thông tin đại chúng.
- Nội dung vận động: Báo cáo với cử tri
về chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu.
- Hành vi bị nghiêm cấm trong vận động
bầu cử:
+ Lợi dụng vận động bầu cử để tuyên
truyền trái với Hiến pháp và pháp luật hoặc làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm,
uy tín, quyền, lợi ích hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân khác.
+ Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để sử
dụng phương tiện thông tin đại chúng trong vận
động bầu cử.
+ Lợi dụng vận động bầu cử để vận động
tài trợ, quyên góp ở trong nước
và nước ngoài cho tổ chức, cá nhân mình.
+ Sử dụng hoặc hứa tặng, cho, ủng hộ
tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất để lôi kéo, mua chuộc cử tri.
Tại
Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 20/6/2020, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp uỷ, các tổ
chức đảng lãnh đạo nghiên cứu cứu điều chỉnh, bổ sung cụ thể, chặt chẽ các quy
định về trách nhiệm, quyền hạn và sự phối hợp của các cơ quan, đơn vị phụ trách
tổ chức bầu cử; đồng thời, quy định rõ việc gì được làm, việc gì không được làm
trong vận động bầu cử; tránh tình trạng "vận động" không lành mạnh;
khắc phục hiệu quả những hạn chế, khuyết điểm trong tổ chức bầu cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các khoá gần đây.
5.11.
Bỏ phiếu
Cử tri sẽ tiến hành bỏ phiếu tại các
khu vực bỏ phiếu, theo đơn vị bầu cử
5.11.1.
Đơn vị bầu cử
- Các
đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND được bầu theo đơn vị bầu cử.
- Mỗi tỉnh, thành phố ở Trung ương sẽ
được chia thành các đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND.
+ Số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn
vị bầu cử và số lượng đại biểu Quốc hội được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử được tính
căn cứ theo số dân, do Hội đồng bầu cử quốc gia ấn định theo đề nghị của Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương và được công bố chậm nhất là 80 ngày trước ngày bầu cử.
+ Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
được chia thành các đơn vị bầu cử đại biểu HĐND cấp tỉnh. Huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương được chia
thành các đơn vị bầu cử đại biểu HĐND cấp huyện. Xã, phường, thị trấn được chia
thành các đơn vị bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
+ Số đơn vị bầu cử đại biểu HĐND cấp
tỉnh, cấp huyện, cấp xã, danh sách các đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu được
bầu ở mỗi đơn vị bầu cử do Ủy ban bầu
cử ở cấp đó ấn định theo đề nghị của UBND
cùng cấp và được công bố chậm nhất là 80 ngày trước ngày bầu cử.
+ Mỗi đơn vị bầu
cử đại biểu Quốc hội được bầu không quá ba đại biểu. Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu
HĐND được bầu không quá năm đại biểu.
Theo
Nghị quyết số 64/NQ-HĐBCQG, ngày 03/3/2021
của Hội đồng bầu cử quốc gia về số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị bầu cử
và số lượng đại biểu QH được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử của tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, thì các đại biểu QH khoá XV sẽ được bầu ở 184 đơn vị bầu
cử/63 tỉnh thành. Mỗi đơn vị bầu cử sẽ bao gồm một hoặc một số quận, huyện, thị
xã và thành phố thuộc tỉnh.
VD
như tỉnh Phú Thọ: số đơn vị bầu cử là
03, số lượng đại biểu
QH được bầu là 07.
Trong đó, cán bộ, chiến sĩ các cơ quan Quân khu sẽ tiến hành bầu ba đại biểu
Quốc hội ở đơn vị số 1 (gồm TP Việt Trì và các huyện Tam Nông, Tân Sơn, Thanh
Sơn, Thanh Thủy, Yên Lập).
5.11.2.
Khu vực bỏ phiếu
- Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội,
đơn vị bầu cử đại biểu HĐND chia thành các khu vực bỏ phiếu. Khu vực bỏ phiếu
bầu cử đại biểu Quốc hội đồng
thời là khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu HĐND các cấp.
- Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ ba trăm
đến bốn nghìn cử tri. Ở miền núi, vùng cao, hải đảo và những nơi dân cư không
tập trung thì dù chưa có đủ ba trăm cử tri cũng được thành lập một khu vực bỏ
phiếu.
- Các trường hợp có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng:
+/ Đơn vị vũ trang nhân dân;
+/ Bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an
dưỡng, cơ sở chăm sóc người khuyết tật, cơ sở chăm sóc người cao tuổi có từ năm
mươi cử tri trở lên;
+/ Cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc, trại tạm giam.
(Việc bố trí địa điểm bỏ phiếu được hướng dẫn
bởi Điều 6 Thông tư số 1/2021/TT-BNV ngày 11/01/2021 của Bộ Nội vụ hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026).
5.11.3.
Bỏ phiếu
* Nguyên tắc bỏ phiếu được quy định như sau:
- Mỗi cử tri có
quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội và bỏ một phiếu bầu đại biểu HĐND
tương ứng với mỗi cấp HĐND.
- Cử tri phải tự mình, đi bầu cử, không
được nhờ người khác bầu cử thay, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4
Điều này; khi bầu cử phải xuất trình thẻ cử tri.
- Cử tri không thể tự viết được phiếu
bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải
bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri. Trường hợp cử tri vì khuyết tật không tự
bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
- Trong trường hợp cử tri ốm đau, già
yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu
phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị
của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là
người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc,
cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là
người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu
bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện
bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.
- Khi cử tri viết
phiếu bầu, không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử.
- Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đổi
phiếu bầu khác.
- Khi cử tri bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử
có trách nhiệm đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào thẻ cử tri.
- Mọi người phải
tuân theo nội quy phòng bỏ phiếu. (Điều
69 Luật bầu cử)
* Về thông báo về thời
gian bầu cử, nơi bỏ phiếu
Trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu
cử, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ
phiếu, thời gian bỏ phiếu bằng hình thức niêm yết, phát thanh và các phương
tiện thông tin đại chúng khác của địa phương. (Điều 70 Luật Bầu cử)
- Việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng
đến 19 giờ tối cùng ngày. Tùy tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định
cho bắt đầu việc bỏ phiếu sớm hơn nhưng không được trước năm giờ sáng hoặc kết
thúc muộn hơn nhưng không được quá hai mươi mốt giờ tối cùng ngày.
- Trước khi bỏ phiếu, Tổ bầu cử phải
kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng kiến của cử tri.
- Việc bỏ phiếu phải được tiến hành
liên tục. Trong trường hợp có
sự kiện bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu thì Tổ bầu cử phải lập tức niêm
phong hòm phiếu, tài liệu liên quan trực tiếp đến cuộc bầu cử, kịp thời báo cáo
cho Ban bầu cử, đồng thời phải có những biện pháp cần thiết để việc bỏ phiếu
được tiếp tục. (Điều 71 Luật Bầu cử)
* Về bỏ phiếu sớm, hoãn ngày bỏ phiếu
Trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ
phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì Ủy ban bầu cử trình Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định.
(Điều 72 Luật Bầu cử)
5.12.
Kiểm phiếu
- Việc kiểm phiếu phải được tiến hành
tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc.
Trước khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử phải
thống kê, lập biên bản, niêm phong số phiếu bầu không sử dụng đến và phải mời
hai cử tri không phải là người ứng cử chứng kiến việc kiểm phiếu.
Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ
chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc người được ủy nhiệm có quyền chứng
kiến việc kiểm phiếu và khiếu nại về việc kiểm phiếu. Các phóng viên báo chí
được chứng kiến việc kiểm phiếu.
(Những đối tượng này được hướng dẫn
cụ thể tại Công văn số 1129/UBTVQH13-PL ngày
17/5/2016 của UBTVQH v/v hướng dẫn Điều 73 của Luật bầu cử)
* Phiếu bầu không hợp lệ bao gồm: a)
Phiếu không theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát ra; b) Phiếu không có dấu của
Tổ bầu cử; c) Phiếu để số người được bầu nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu
đã ấn định cho đơn vị bầu cử; d) Phiếu gạch xóa hết tên những người ứng cử; đ)
Phiếu ghi thêm tên người ngoài danh sách những người ứng cử hoặc phiếu có ghi
thêm nội dung khác.
Trường hợp có phiếu bầu được cho là không
hợp lệ thì Tổ trường Tổ bầu cử đưa ra để toàn Tổ xem xét, quyết định. Tổ bầu cử
không được gạch xóa hoặc sửa các tên ghi trên phiếu bầu. (Điều 74 Luật Bầu cử)
- Sau khi kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử
phải lập các loại biên bản sau đây: a) Biên
bản kết quả kiểm phiếu bầu cử
đại biểu Quốc hội tại khu vực bỏ phiếu; b) Biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh tại khu vực bỏ phiếu; c) Biên bản kết quả kiểm phiếu bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện tại khu vực bỏ phiếu; d) Biên bản kết
quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã tại khu vực bỏ phiếu.
- Biên bản kết quả kiểm phiếu phải có
các nội dung sau đây: a) Tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu; b) Số lượng cử
tri đã tham gia bỏ phiếu; c) Số phiếu phát ra; d) Số phiếu thu vào; đ) Số phiếu
hợp lệ; e) Số phiếu không hợp lệ; g) Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử; h)
Những khiếu nại, tố cáo nhận được; những khiếu nại, tố cáo đã giải quyết và kết
quả giải quyết; những khiếu nại, tố cáo chuyển đến Ban bầu cử.
- Mỗi loại biên bản quy định tại khoản
1 Điều này được lập thành ba bản, có chữ ký của Tổ trưởng, Thư ký Tổ bầu cử và
hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu. Biên bản được gửi đến Ban bầu
cử tương ứng và UBND, Ban thường trực UBMTTQVN
cấp xã chậm nhất là 03 ngày sau ngày bầu cử. (Điều 76 Luật Bầu cử)
5.13.
Nguyên tắc xác định người trúng cử
-
Kết quả bầu cử được tính, trên số phiếu bầu hợp lệ và chỉ được công nhận khi đã
có quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử tri tại đơn vị bầu cử tham gia
bầu cử, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 80 của Luật.
-
Người trúng cử phải là người ứng cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu
bầu hợp lệ.
- Trường hợp số
người ứng cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ nhiều hơn số
lượng đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu thì những người trúng cử là những
người có số phiếu bầu cao hơn.
-
Trường hợp cuối danh sách trúng cử có nhiều người được số phiếu bầu bằng nhau
và nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì người nhiều tuổi hơn là người trúng
cử. (Điều 78 Luật bầu cử)
5.14.
Công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử
Hội đồng bầu cử quốc gia căn cứ vào
biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước công bố kết quả bầu cử và danh sách
những người trúng cử đại biểu Quốc hội chậm nhất là 20 ngày sau ngày bầu cử.
Ủy ban bầu cử căn cứ vào biên bản tổng
kết cuộc bầu cử công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại
biểu HĐND ở cấp mình chậm nhất là 10 ngày sau ngày bầu cử.
5.15. Xác nhận tư cách của người trúng
cử
Căn cứ vào kết quả tổng kết bầu
cử đại biểu kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến người trúng cử
đại biểu Hội đồng bầu cử quốc gia (UB bầu cử) tiến hành xác nhận tư cách của
người trúng cử đại biểu Quốc hội (HĐND), cấp giấy chứng nhận đại biểu Quốc hội
(HĐND) khóa mới cho người trúng cử và báo cáo Quốc hội (HĐND) khóa mới về kết
quả xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội (HĐND) tại kỳ họp đầu tiên. (Điều 88 Luật bầu cử,)
5.16. Bầu cử thêm
Trong cuộc bầu cử đầu tiên, nếu số người
trúng cử đại biểu Quốc hội chưa đủ số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho
đơn vị bầu cử hoặc số người trúng cử đại biểu HĐND chưa đủ hai phần ba số lượng
đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu
cử thì Ban bầu cử phải ghi rõ vào biên bản xác định kết quả bầu cử thì sẽ tiến
hành bầu cử thêm đại biểu.
Thời gian (ngày) bầu cử thêm được tiến
hành chậm nhất là 15 ngày sau ngày bầu cử đầu tiên.
Trong cuộc bầu cử thêm, cử tri chỉ chọn
bầu trong danh sách những người ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên nhưng không
trúng cử. Người trúng cử là người được quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ và
có số phiếu bầu cao hơn. Nếu bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số lượng đại biểu được
bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì
không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai. (Điều
79 Luật bầu cử)
5.17. Bầu cử lại
Việc bầu cử lại
được tiến hành khi đơn vị bầu cử có số cử tri đi bỏ phiếu chưa đạt quá một nửa
tổng số cử tri ghi trong danh sách cử tri hoặc khu vực bỏ phiếu, đơn vị bầu cử
có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc tổ chức bầu cử.
Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ chọn
bầu trong danh sách những người ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên. Nếu bầu cử lại
mà số cử tri đi bầu cử vẫn chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách
cử tri thì kết quả bầu cử lại
được công nhận mà không tổ chức bầu cử lại lần thứ hai.
Trong trường hợp bầu cử lại thì ngày
bầu cử được tiến hành chậm nhất là 15 ngày sau ngày bầu cử đầu tiên. (Điều 80, 81 Luật bầu cử, việc)
5.18. Bầu cử bổ sung
Việc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội
được tiến hành khi thời gian còn lại của nhiệm kỳ nhiều hơn 02 năm và thiếu
trên mười phần trăm tổng số đại biểu Quốc hội đã được bầu ở đầu nhiệm kỳ.
Bầu cử bổ sung đại biểu HĐND được tiến
hành khi thời gian còn lại của nhiệm kỳ nhiều hơn 18 tháng và đáp ứng một trong
các điều kiện sau đây:
- HĐND thiếu trên một phần ba tổng số
đại biểu HĐND đã được bầu ở đầu nhiệm kỳ;
- Đơn vị hành chính mới được thành lập
trên cơ sở nhập, chia, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính hiện có có số
lượng đại biểu HĐND không đủ hai phần ba tổng số đại biểu được bầu theo quy
định của Luật tổ chức chính quyền địa phương.
Ngày bầu cử bổ sung phải là ngày chủ
nhật và được công bố chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử. (Điều 89 Luật bầu cử)
KẾT LUẬN
Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND có ý nghĩa, vai trò hết sức quan trọng trong
việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Việc lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu về đức, tài, xứng đáng đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân trong Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ mới sẽ góp phần phát huy quyền làm chủ của Nhân dân;
đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra.
Một trong
những điều kiện tiên quyết để cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 thành công, thì mỗi cử tri cần phải nắm vững quy định của Luật bầu cử,
đặc biệt là các nguyên tắc bầu cử, tiêu chuẩn của người ứng cử cũng như quyền
của cử tri, đảm bảo cuộc bầu cử diễn ra theo đúng quy định của pháp luật./.
Link đính kèm file Powerpoint bài giảng:
https://drive.google.com/file/d/1tl3BKd4kuY3vA7MB9VxDZAMcZD_aZJCX/view?usp=sharing
0 Nhận xét