Phần thứ nhất
VẤN ĐỀ VAY NỢ VÀ VAY NỢ TÍN DỤNG
ĐEN TẠI
MỘT SỐ CƠ QUAN, ĐƠN VỊ TRÊN ĐỊA
BÀN
1. Nhận diện tín dụng đen
Đối với nhiều người, “tín dụng đen”
đơn giản chỉ là cho vay nặng lãi, tuy nhiên, khi nghiên cứu các quy định của
pháp luật hiện hành cho thấy, hoạt động “tín
dụng đen” không chỉ đơn giản như vậy. Về mặt pháp lý thì chưa có khái niệm
thế nào là “tín dụng đen” nhưng có thể
hiểu đó là hoạt động cho vay vốn bất hợp pháp, không phù hợp với các quy định của
pháp luật. Có thể dễ dàng nhận thấy các biểu hiện và hình thức của hoạt động “tín dụng đen” là:
1.1. Về thủ tục cho vay: Thủ tục vay và cho vay rất đơn giản, có thể có tài sản
thế chấp, có thể không cần tài sản thế chấp; việc vay và cho vay dựa trên sự
tin tưởng nhau hoặc ràng buộc bằng các “quy
tắc ngầm” của các đối tượng giang hồ ngoài xã hội.
Thời gian qua, phát hiện thấy có nhiều quân nhân đã
sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bằng cấp được cấp, giấy phép lái xe,
CMTND, CMT quân đội cấp; quyết định phong quân hàm; quyết định kết nạp Đảng, thẻ
Đảng.... để cầm cố, thế chấp vay tiền. Cá biệt có trường hợp còn câu kết với
các đối tượng ngoài xã hội hoặc trên mạng Internet dùng công nghệ in màu để làm
giả thẻ Đảng, làm giả chứng minh nhân dân, chứng minh thư quân đội cấp; làm giả
các hợp đồng... để cầm cố thế chấp nhằm vay tiền tín dụng đen; có trường hợp là
thủ kho quân khí còn mang cả súng ngắn K54 đi cầm cố để lấy tiền mua ma túy; trộm
cắp tài sản của đồng đội, đơn vị mang đi bán hoặc thế chấp vay tiền...
Về hoạt động thì không phải quân nhân chỉ vay tiền
các đối tượng ngoài xã hội mà cá biệt hoạt động tín dụng đen lại được thực hiện
ở ngay một số căng tin đơn vị, nhà trường (do các đơn vị xã hội hóa và người
ngoài quân đội vào đấu thầu) hoặc xảy ra ngay trong nội bộ các đơn vị (do quân
nhân cho quân nhân hoặc người ngoài quân đội vay nặng lãi).
1.2. Về lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay vượt mức lãi suất theo quy định của
pháp luật. Theo quy định tại Điều 201 Bộ luật
Hình sự 2015 về tội “Cho vay nặng lãi
trong giao dịch dân sự” thì: Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với
lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật
Dân sự, thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng hoặc đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ 50 triệu đến 200 triệu đồng hoặc
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100 triệu
đồng trở lên thì bị phạt tiền 200 triệu đến 01 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm....
Theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 về lãi suất thì: Lãi suất
vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi
suất theo thỏa thuận nhưng không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay (tức
là 1,66%/tháng), trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác...Nếu lãi
suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn 20%/năm thì mức lãi suất vượt
quá không có hiệu lực. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng
không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định
bằng 50% mức lãi suất nêu trên (tức là 10%/năm; tương đương 0,83%/tháng) tại thời
điểm trả nợ.
Với thực tế hiện nay; các chủ nợ nhỏ thường cho vay
lãi 2.000 đồng/triệu/ ngày, tức là lãi suất 60.000 đ/triệu/tháng (lãi 6%/
tháng); nếu lãi 3.000 đồng/triệu/ngày (lãi suất 9%/tháng); nếu lãi 4.000 đồng/triệu/ngày
(lãi suất 12%/tháng). Đặc biệt, hoạt động cho vay trực tuyến (vay online) trên
một số website, ứng dụng di động (app) có thể lên đến hàng trăm phần trăm trên
một năm.
Như vậy, đối chiếu các quy định của pháp luật thì
người nào cho vay với lãi suất: 05 x 1,66% tháng = 8,3%/ tháng trở lên và thu lợi
bất chính là có thể bị xử lý hình sự về tội “Cho
vay nặng lãi trong giao dịch dân sự” theo Điều 201 BLHS 2015.
1.3. Về hình thức cho vay: Hoạt động cho vay hiện nay đã được các chủ nợ biến tướng
bằng việc: Các hợp đồng, giao dịch vay tiền thường được soạn thảo và ký nhận với
nội dung giả tạo để che dấu mức lãi suất bất hợp pháp và tạo điều kiện cho chủ
nợ dễ dàng khống chế con nợ để thu được nợ đồng thời cũng là ràng buộc pháp lý
để khi con nợ không trả được thì chủ nợ có thể đề nghị cơ quan pháp luật xử lý
bằng hình sự với con nợ.
Ngoài
ra, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, các hoạt động cho
vay trực tuyến (vay online) đang phát triển rầm rộ qua các ứng dụng di động
(app) hay các website với nhiều quảng cáo về thủ tục vay đơn giản, lãi suất vay
luôn dưới 20%/năm, tức là dưới mức bị liệt là cho vay nặng lãi. Đến khi vay rồi
thì hàng loạt các chi phí phát sinh đổ lên người vay dẫn tới mức lãi suất khủng
khiếp. Đã có trường hợp, tin vào lời quảng cáo vay tiền 0% lãi suất, 0% phí tư
vấn, giải ngân nhanh dưới 30 phút....nên người vay đã truy cập và điền đầy đủ
các thông tin vào một website vay trực tuyến để vay 02 triệu đồng trong vòng 20
ngày. Hồ sơ vay nhanh chóng được duyệt qua ít phút. Sau khi người vay cung cấp
ảnh chụp thẻ căn cước công dân và truy cập đường link dẫn đến trang facebook cá
nhân thì tài khoản báo có 1.400.000 đồng; số tiền 600.000 đồng còn lại được bên
cho vay giải thích là phí quản lý vay, phí hồ sơ, tiền lãi và nhiều khoản chi
phí khác. Như vậy, với mỗi ngày vay tiền qua wibesite này, người vay đã mất phí
30.000 đồng/ngày. So với mức thực vay được là 1.400.000 đồng thì người vay đang
phải chịu lãi suất lên đến 69%/tháng, tức khoảng 831%/năm.
Qua
một số vụ án vừa bị lực lượng Công an triệt phá gần đây cho thấy lãi suất vay
có trường hợp còn lên đến cả nghìn %. Cụ thể, qua ứng dụng “Vaytocdo”, người vay lần đầu chỉ được vay 1.700.000 đồng, nhưng
thực tế nhận về chỉ là 1.428.000 đồng, công ty sẽ thu 272.000 đồng tiền phí
dịch vụ. Trong 08 ngày, người vay phải trả 2.040.000 đồng (trong đó 1.700.000
đồng tiền gốc và 340.000 đồng tiền lãi trong 08 ngày), nếu khách vay trả chậm
sẽ bị phạt 102.000 đồng/ngày.
Đối
với khách hàng vay qua ứng dụng “Moreloan”
và “VD online”, người vay lần đầu
được duyệt vay số tiền là 1.500.000 đồng, nhưng thực tế người vay chỉ được nhận
900.000 đồng, số còn lại là tiền phí dịch vụ và tiền lãi trong 07 ngày. Sau 07
ngày, người vay phải trả tiền gốc vay là 1.500.000 đồng, nếu trả chậm 01 ngày
sẽ bị phạt từ 2% đến 5%/ngày. Như vậy, với hình thức cho vay trên, các đối
tượng đã cho vay với lãi suất 4,4%/ngày, tương đương 30,8%/tuần, 132%/tháng và
1.600%/năm. Ngoài ra, còn vô vàn các dịch vụ cho vay trực tuyến với lãi suất rất
cao khác như “Vayvay”, “Samsetvay”,
“IDong” và “VDong”...đang hàng
ngày hàng giờ “giăng bẫy” trên không
gian mạng.
Ngoài
ra, trên thực tế, nhiều website hay app cho vay trực tuyến đang hoạt động dựa
trên mô hình cho vay ngang hàng (P2P Lending). Theo Ngân hàng Nhà nước, bản chất của vay ngang hàng, vay online là dựa
trên nền tảng công nghệ số kết nối trực tiếp người đi vay với người cho vay
(nhà đầu tư) mà không thông qua trung gian tài chính. Toàn bộ hoạt động vay,
trả nợ (gốc, lãi) giữa người đi vay và người cho vay được nền tảng giao dịch
trực tuyến ghi nhận và lưu trữ bằng các bảng điện tử, số hóa. Mục đích loại
hình cho vay này thường tập trung vào cho vay mua nhà, ô tô; tái cho vay thẻ
tín dụng, cho vay tiêu dùng, cho vay doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, cho vay khởi
nghiệp...Tuy nhiên, tại Việt Nam, hệ thống pháp luật chưa có quy định quản lý
đối với mô hình này; do đó không ít cá nhân, tổ chức cho vay nặng lãi đang núp
bóng P2P Lending để cho vay với lãi suất cắt cổ, kéo theo cách thức đòi nợ cũng
mang đậm tính chất "xã hội đen".
Một số biểu hiện thường thấy khi chủ nợ cho vay là:
Thứ nhất,
Cho vay bất chấp mục đích vay của người vay là gì; không hạn chế thời gian vay
vì lãi được tính theo ngày; có thể trả lãi 10 ngày/lần hoặc 01 tháng/lần hoặc
theo thỏa thuận; tiền lãi kỳ đầu được khấu trừ ngay vào lần vay đầu tiên.
Hai là, Không cần giữ tài sản thế chấp khi vay nhưng chủ nợ thường
sẽ ghi trong hợp đồng vay nội dung: Quá thời hạn trả nợ nếu bên vay không trả
được nợ thì bên cho vay có quyền thu hồi nhà, đất, tài sản của bên vay.
Ba là, Không ghi mức lãi vay và mục đích vay đều được ghi thể
hiện ở một số nội dung bình thường và chung chung như: để giải quyết công việc
gia đình, để lấy tiền ăn học cho con; để chữa bệnh... Cá biệt có một số đối tượng
còn ghi: để chạy quân hàm, chạy chức vụ, để chuyển đơn vị...
Các khoản vay được tách nhỏ (10, 20, 30 ...triệu đồng) ở các thời điểm khác
nhau; mỗi lần vay, bên cho vay chỉ lập 01 giấy cho vay do bên cho vay giữ. Quá
trình trả nợ, do lãi suất lớn nên người vay không trả được lãi thì các chủ nợ bắt
đầu có các hoạt động biến tướng tinh vi hơn là:
- Trực tiếp hoặc dùng số đối tượng “xã
hội đen”; tổ chức đòi nợ chuyên nghiệp cho người đe dọa; đánh đập hoặc tuy
không đánh đập nhưng cho những đối tượng xăm trổ hung hãn mang theo băng rôn
đòi nợ đến nhà riêng, nhà bố mẹ anh em, đơn vị cơ quan của người vay tiền để
gây áp lực trả nợ....
- Tiến hành gọi (hoặc bắt) người vay đến một địa điểm, đe dọa, khống chế đồng
thời chủ nợ đưa ra một hợp đồng trong đó chủ nợ đã khoanh tổng nợ (gồm gốc,
lãi) đến thời điểm đó. Sau đó, dưới sự chứng kiến của những người đã được chủ nợ
hợp đồng trước; con nợ sẽ phải ghi, ký và điểm chỉ vào hợp đồng trong đó xác định
con nợ đã nhận (có thể là 2-3 lần) một số lượng tiền của chủ nợ để chạy việc
cho con, em, cháu chủ nợ vào biên chế một cơ quan nào đó; để xin chuyển vùng
cho ai đó; để chạy chính sách cho một đối tượng nào đó; hoặc cá biệt là vay để
chạy chức, chạy quân hàm, chuyển đơn vị....Số lượng tiền con nợ nhận các lần là
trùng khớp với số lượng gốc và lãi mà bên cho vay đã cho bên vay vay. Các giấy
ghi từng lần vay tiền trước đó do chủ nợ giữ lúc này sẽ được hủy bỏ. Đáng chú ý
là các hợp đồng này đều được bên thứ ba có trình độ pháp luật tư vấn giúp các đối
tượng cho vay nên cơ bản đều đúng thể thức và nội dung của pháp luật; do đó nếu
có tranh chấp ra Tòa án thì Tòa án cũng không thể tuyên hợp đồng vô hiệu được.
Do không có tiền trả nợ, lo sợ bị cơ quan đơn vị hoặc gia đình biết, sợ bị đánh
đập, khủng bố tinh thần.... nên các con nợ đều ký vào các hợp đồng này bất chấp
lý do được các chủ nợ nêu lên là gì. Đến giai đoạn này sự việc thường diễn ra
theo hai hướng là:
Nếu con nợ vay mượn người thân, bạn bè, bán nhà cửa
tài sản để trả nợ thì: (1) Chủ nợ sẽ nhận nợ và xóa hết các giấy tờ đã lập trước
đó; (2) Chủ nợ trì hoãn việc trả nợ của con nợ bằng các lý do đang đi vắng xa
nhà, đang đi nước ngoài....để con nợ không tìm được chủ nợ để trả nợ nhằm kéo
dài thời gian vay nợ để chủ nợ bòn rút hết tài sản của con nợ (các biểu hiện
này vừa qua được báo chí nêu nhiều và diễn ra ở khu vực miền Trung Tây nguyên
và các tỉnh phía Nam).
Nếu con nợ không trả được nợ và chủ nợ nhận thấy con nợ là quân nhân; đang
có vị trí công tác tốt thì chủ nợ làm đơn tố cáo quân nhân vay nợ đã lợi dụng
vay tiền để lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản của bên cho vay. Các hợp đồng được
lập trước đó giữa chủ nợ và con nợ về việc con nợ nhận tiền của chủ nợ để xin
việc, chạy việc, chạy chức, chạy chuyển đơn vị, chạy quân hàm....sẽ được con nợ
phô tô gửi kèm để chứng minh. Đến giai đoạn này, quân nhân có thể sẽ bán nhà,
tài sản để trả nợ cho con nợ và sẽ bị đơn vị xử lý kỷ luật.
Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy: Phần lớn
là các quân nhân trước khi bị chủ nợ gửi đơn tố cáo thì đều bỏ trốn khỏi gia
đình, đơn vị đi địa phương khác để trốn nợ. Đây chính là cơ hội vàng cho các chủ
nợ bởi lúc này, các chủ nợ bắt đầu gửi đơn đến cơ quan Công an hoặc Cơ quan điều
tra hình sự quân đội để tố cáo quân nhân vay tiền....nhưng không trả và đã bỏ
trốn. Khi cơ quan công an tiến hành giám định các hợp đồng vay tiền thì chữ ký,
điểm chỉ của quân nhân đều đúng là của quân nhân vay tiền. Xác minh tại các địa
phương thì không nơi nào xác nhận có sự việc ép buộc, đánh đập của người cho
vay với người vay; thực tế người vay đã bỏ trốn...Lúc này, từ sự việc cho vay
tiền bất hợp pháp ban đầu (là giao dịch dân sự) đã chuyển thành vụ việc hình sự
và theo quy định của pháp luật; các vụ việc như vậy sẽ bị khởi tố về một trong
hai tội là “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
hoặc “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
bởi tất cả các chứng cứ, tài liệu đều chống lại người vay vì chỉ có một hợp đồng
vay duy nhất còn các giấy vay tiền từng lần do người cho vay giữ đã được người
cho vay hủy hết. Đây là một thực tế phổ biến hiện nay và đáng tiếc là nhiều
quân nhân, CNVCQP của các đơn vị đã bị xử lý. Ngoài việc bị xử phạt án tù, quân
nhân còn phải trả cả gốc và “lãi cắt cổ”
do các chủ nợ đưa ra mà không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh được cho người
đi vay. Do đó, đây là một thực tế nhức nhối thời gian qua do các đối tượng cho
vay đã biết cách lách luật để đòi lại tài sản (gốc) và cả phần lãi bất hợp
pháp....Cá biệt có một số quân nhân khi bị chủ nợ ép buộc trả nợ nhiều lần, sợ
đơn vị và gia đình biết nên đã tự tử để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.
Do đó, trong trường hợp đã lỡ vay mượn tiền của các
đối tượng này, quân nhân tuyệt đối không được bỏ trốn khỏi đơn vị và nơi cư trú
mà cần báo cáo với đơn vị, cơ quan công an và chính quyền nơi cư trú để có biện
pháp giải quyết cho phù hợp. Bởi nếu quân nhân không bỏ trốn thì việc vay mượn
này là các quan hệ dân sự và được giải quyết theo pháp luật dân sự (Bên cho vay
có thể kiện ra Tòa án nhân dân để được giải quyết) mà không bị các đối tượng
cho vay lợi dụng để chuyển hóa từ việc cho vay dân sự sang việc vi phạm pháp luật
hình sự như đã nêu trên.
Ngoài ra, trong thời gian qua ở một số
cơ quan, đơn vị trên địa bàn xảy ra hiện tượng: Thủ trưởng cơ quan, đơn vị ký tín chấp cho cán bộ, nhân viên cấp dưới
vay tiền tại các tổ chức tín dụng (ngân hàng) nhưng không tiến hành xác minh
làm rõ các điều kiện tài sản... dẫn đến nhiều trường hợp sau khi vay không có
khả năng thanh toán (nguyên nhân có thể là do làm ăn thua lỗ, sử dụng tài sản
vay sai mục đích, tham gia tín dụng đen hoặc sử dụng tài sản vào các mục đích bất
hợp pháp khác) dẫn đến khiếu kiện kéo dài gây ảnh hưởng đến hoạt động của đơn vị
và uy tín của quân đội. Cá biệt có trường hợp, thủ trưởng cơ quan, đơn vị do không kiểm tra nên đã ký khống hợp đồng vay
cho cả các đối tượng ngoài quân đội, dẫn đến nhiều trường hợp ngân hàng cho vay
nhưng không thu hồi được tiền.
2. Một số vụ việc vay nợ điển
hình:
2.1. Chu Thị H - Đại úy QNCN; Đơn vị S: H nhiều lần vay nợ của các đối tượng
ngoài xã hội; các lần vay đều viết giấy nhận nợ. Sau khi phát hiện H không có
khả năng trả nợ, các đối tượng đã dùng thủ đoạn hủy tất cả giấy vay nợ và viết
thành 02 giấy nhận tiền nội dung H nhận tiền để xin việc cho con của các đối tượng
này vào làm việc tại Bệnh viện tỉnh V với tổng số tiền là 740 triệu đồng, sau
đó ép H ký và điểm chỉ vào 02 giấy giao nhận tiền. Sau khi H bỏ trốn; các đối
tượng cho vay đã làm đơn tố cáo H về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Qua
các tài liệu chứng cứ thu thập được Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố
bị can H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản”.
Trong vụ án này, mặc dù bản chất sự việc lúc đầu chỉ là vay mượn dân sự,
nhưng do thiếu hiểu biết nên H đã bị các đối tượng cho vay dùng thủ đoạn để
chuyển hóa từ quan hệ pháp luật dân sự thành quan hệ pháp luật hình sự.
2. 2. Triệu H; Đại úy, trợ lý, đơn vị B: Sử dụng quyết định điều động cán bộ,
chứng minh thư sĩ quan, phô tô công chứng Thẻ Đảng viên để cầm cố vay 03 đối tượng
cho vay nặng lãi số tiền 255 triệu....
2.3. Ông Đỗ Thanh T, trú tại phường Q, thành phố Hà Giang tố cáo quân nhân
Phạm Đình K, công tác tại đoàn Đ nhận 150.000.000 đồng của ông T để xin cho em
họ ông T đi chiến sĩ nghĩa vụ quân sự vào đầu năm 2018 và sau một năm để chuyển
quân nhân chuyên nghiệp nhưng sau đó K tiêu hết và cũng không trả lại tiền cho
ông T. Hành vi của K là lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
2.4. Nguyễn Phương D; Thượng úy QNCN; Nhân viên, công tác tại đoàn T, từ
năm 2015 sử dụng quyết định kết nạp Đảng viên, quyết định chuyển chế độ QNCN
vay bà Đoàn Thị G ở Phường Him Lam, Tp Điện Biên Phủ 01 tỷ đồng (lãi 5000/ 01
triệu/ ngày).
2.5. Nguyễn Văn V ; Thượng tá, Bộ CHQS tỉnh
V đào ngũ đi khỏi đơn vị hơn 2 tháng; bằng các biện pháp nghiệp vụ, các cơ quan
chức năng đã phát hiện, tìm thấy và bắt giữ quân nhân V tại Quân 9, TP.
Hồ Chí Minh.
Qua điều tra, xác minh cho thấy V nợ tiền của 23 người, trong đó 13 người ngoài quân đội (06
đối tượng làm nghề kinh doanh cầm đồ), 10 quân nhân và 02 ngân hàng với số tiền
2.312.500.000 đồng. Khi vay, quân
nhân V đã sử dụng thẻ Đảng viên, chứng minh sĩ quan, bản sao chứng minh sĩ quan
có công chứng, bằng lái xe để làm tin....
Trên địa bàn thời gian qua đã xảy ra trường hợp quân nhân làm giả thẻ Đảng,
làm giả chứng minh thư do quân đội cấp để cầm cố, thế chấp vay tiền; có trường
hợp tham gia đánh bạc trên mạng bị thua lỗ nhiều nên có cả đại úy Đại đội trưởng
đại đội trinh sát đặc nhiệm của một BCHQS tỉnh đã dùng súng ngắn vào phòng làm
việc của chỉ huy trưởng BCHQS tỉnh uy hiếp lấy 01 tỷ đồng để trả cho các đối tượng
xã hội đen....
Đánh giá chung qua các vụ việc trên cho thấy: Hậu
quả mà các quân nhân vay nợ phải gánh chịu thường là bị xử lý theo kỷ luật quân
đội, bị xử lý hình sự; cá biệt có trường hợp do không có khả năng trả nợ, sợ bị đơn vị gia đình biết;
do các chủ nợ thúc ép, đe dọa nên nhiều quân nhân đã tự tử bằng việc uống thuốc
trừ sâu, thuốc diệt cỏ, treo cổ tự tử hoặc tự tử, tự sát bằng vũ khí của đơn vị....
Phần thứ hai
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG TÍN DỤNG
ĐEN
TẠI CÁC CƠ QUAN, ĐƠN VỊ
1. Cấp uỷ, chỉ huy các cấp cần quán triệt và nhận thức đúng, đầy đủ, chấp
hành nghiêm và tổ chức thực hiện có hiệu quả các
Chỉ thị, nghị quyết, quy định về xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật của Bộ
Quốc phòng, Quân khu và đơn vị. Thường xuyên tiến hành công tác giáo dục
pháp luật, kỷ luật một cách sâu, rộng, cụ thể đến từng quân nhân trong đơn vị
và phải chịu trách nhiệm trước Đảng ủy cấp mình và Đảng ủy, chỉ huy cấp trên về
xây dựng chính quy, quản lý, rèn luyện và chấp hành kỷ luật của đơn vị thuộc
quyền.
2. Tổ chức triển khai cho cơ quan, đơn
vị thực hiện nghiêm túc các quy định về
xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật; các quy định của Bộ Quốc phòng, của Quân
khu về việc vay nợ.
3. Chỉ huy các cấp kịp thời tổ chức
rút kinh nghiệm về công tác quản lý, giáo dục và chấp hành kỷ luật, xây dựng
chính quy trong từng tuần, tháng, quý; đồng thời căn cứ tình hình thực tế của
đơn vị để hướng dẫn, quy định cụ thể, xây dựng đơn vị điểm và tập trung làm chấm
dứt những mặt còn tồn tại của đơn vị trong thời gian vừa qua; không né tránh,
bao che, dấu diếm khuyết điểm.
4.
Duy trì nghiêm chế độ trực, huấn luyện, học tập, sinh hoạt và các hoạt động
trong ngày, trong tuần; tổ chức đóng quân canh phòng, tuần tra, canh gác đúng
quy định bảo vệ an toàn khu vực đóng quân và mục tiêu được giao; quản lý chặt
chẽ bộ đội trong giờ nghỉ, ngày nghỉ, đi công tác, đi phép.
5. Tăng cường công tác kiểm tra của đội
ngũ cán bộ các cấp nhất là cán bộ cấp cơ sở trong công tác quản lý, giáo dục và
chấp hành kỷ luật, xây dựng chính quy hạn chế các vụ việc kỷ luật phải xử lý. Có
biện pháp phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương nơi đóng quân, các cơ
quan tư pháp để tích cực phòng ngừa, ngăn chặn và giải quyết dứt điểm hiện tượng
cắm ký, vay nặng lãi trong cơ quan, đơn vị.
6. Quan tâm đời sống, vật chất tinh thần
cho bộ đội; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy tốt vai trò của các tổ
chức trong công tác quản lý, giáo dục và chấp hành kỷ luật, xây dựng chính quy
trong thực hiện nhiệm vụ thường xuyên và nhiệm vụ đột xuất.
KẾT LUẬN
Kính thưa
Thủ trưởng và các đồng chí!
Qua gần hai giờ trao đổi với các đồng chí nội dung chuyên đề về vay nợ và
vay nợ tín dụng đen trên địa bàn thời gian qua đến nay tôi xin kết thúc ở đây.
Kính mong các đồng chí tiếp cận và hiểu biết đầy đủ hơn các phương thức, thủ đoạn
của tín dụng đen để có ý thức đấu tranh, phòng, tránh các hoạt động này tại mỗi
cơ quan, đơn vị một cách hiệu quả.
Xin trân trọng cảm ơn Thủ trưởng và các đồng chí đã quan tâm, theo dõi!
Link đính kèm tải đầy đủ Giáo án bài giảng:
https://drive.google.com/drive/folders/1zfxHbTJPqRceG34c1afzRBxeySk8RxGm?usp=sharing
0 Nhận xét