CHUYÊN ĐỀ

GIỚI THIỆU LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH



    I. Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Xử lý vi phạm hành chính

Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 được Quốc hội ban hành vào ngày 19/06/2012 và bắt đầu hiệu lực kể từ ngày 30/06/2013(sau đây gọi tắt là Luật XLVPHC). Đến nay, sau gần một thập kỷ áp dụng Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 đã bộc lộ một số khó khăn, bất cập như về mức phạt tiền; thẩm quyền, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính; thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; đối tượng và điều kiện, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính… Do đó, tại Kỳ họp thứ 10, ngày 13/11/2020, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022 (sau đây gọi tắt là Luật số 67/2020/QH14) đã thể chế kịp thời, đầy đủ đường lối của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định còn hạn chế, vướng mắc để khắc phục những bất cập trong thi hành Luật xử phạt vi phạm hành chính trên thực tế.    

        II. Bố cục của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

 Luật số 67/2020/QH14 chia bố cục thành 03 điều, cụ thể:

- Điều 1 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (có 75 khoản).

- Điều 2 về sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 163 của Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 và Luật số 23/2018/QH14).

- Điều 3 về hiệu lực thi hành.

III. Nội dung cơ bản Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung nội dung của 66 Điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Những nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật số 67/2020/QH14 bao gồm nội dung về những quy định chung, xử phạt vi phạm hành chính, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính, biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên, quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể như sau:

1. Những quy định chung

 Trên thực tiễn áp dụng phần những quy định chung của Luật Xử phạt vi phạm hành chính còn hạn chế, vướng mắc trên một số khía cạnh về khái niệm tái phạm, nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với vi phạm hành chính nhiều lần, hành vi bị nghiêm cấm, thời hiệu và thẩm quyền về xử phạt vi phạm hành chính, chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính…gây ảnh hưởng đến việc áp dụng quy định trên thực tiễn để ngăn chặn, phòng ngừa và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Do đó, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung để khắc phục các hạn chế trên. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, về khái niệm “tái phạm”. Quy định về tái phạm còn chưa có sự phân biệt rõ ràng với quy định về “vi phạm hành chính nhiều lần” tại Điều 2 Luật XLVPHC gây khó khăn trong việc áp dụng trên thực tiễn. Do vậy, để khắc phục hạn chế trên là làm rõ hơn quy định về tái phạm, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 2 Luật XLVPHC, theo đó quy định tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt; cá nhân đã bị ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính mà lại thực hiện hành vi thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đó.

Thứ hai,  về quy định vi phạm hành chính nhiều lần. Luật XLVPHC vừa quy định hành vi "vi phạm hành chính nhiều lần" thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, vừa quy định “vi phạm hành chính nhiều lần” là tình tiết tăng nặng. Cụ thể, tại  Điểm d khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC  quy định một người  vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”, tại Điểm b Khoản 1 Điều 10 Luật XLVPHC quy định: “vi phạm hành chính nhiều lần” là tình tiết tăng nặng theo đó, đây là tình tiết được người có thẩm quyền xem xét khi quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Vì vậy, để khắc phục bất cập trên, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung  Điểm d Khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC theo hướng: một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần được Chính phủ quy định áp dụng tình tiết tăng nặng.

Thứ ba, về thời hiệu xử lý vi phạm hành chính áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Dựa trên thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính, Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung Điểm đ vào Khoản 2 Điều 6 Luật XLVPHC quy định thời điểm để tính thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong trường hợp cá nhân bị đề nghị cố tình trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Theo đó, trong thời hạn được quy định tại các Điểm a, b, c và d khoản này mà cá nhân cố tình trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính thì thời hiệu được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

Thứ tư, về những hành vi bị nghiêm cấm. Sau thời gian dài áp dụng trên thực tiễn, nhiều hành vi mới đã phát sinh nhưng chưa được Luật XPVPHC điều chỉnh như: Xác định hành vi vi phạm hành chính không đúng; áp dụng hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả không đúng, không đầy đủ đối với hành vi vi phạm hành chính; không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả. Do vậy, nhằm khắc phục hạn chế trên, Luật số 67/2020/QH14 bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm trong xử lý vi phạm hành chính tại Điều 12 Luật XLVPHC tạo cơ sở cho việc áp dụng pháp luật và phòng ngừa, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

2. Về xử phạt vi phạm hành chính

2.1. Về mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực

Sau gần gần một thập kỷ Luật XLVPHC được áp dụng trên thực tiễn, bối cảnh kinh tế xã hội đã có nhiều thay đổi, nền kinh tế ngày càng phát triển, nhiều ngành nghề, lĩnh vực mới xuất hiện, mức sống và thu nhập của người dân ngày càng tăng cao. Kéo theo đó những hành vi vi phạm Luật XLVPHC xảy ra ngày càng phổ biến, tinh vi, với nguồn thu lợi bất hợp pháp ngày càng cao nhưng mức phạt tối đa áp dụng đối với hành vi này vẫn chưa tương xứng với tính chất, mức độ của vi phạm, thiếu tính răn đe và không đủ sức phòng ngừa, hạn chế vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, một số lĩnh vực mới còn chưa được quy định về mức phạt tiền tối đa, tên gọi một số lĩnh vực quy định cũng có sự thay đổi trong các luật được thông qua sau khi Luật XLVPHC được ban hành. Như vậy, đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC để phù hợp với tình hình thực tiễn.

Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trên đồng thời nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tiễn, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng mức phạt tối đa trong một số lĩnh vực, bổ sung mức phạt tối đa cho một số lĩnh vực chưa được quy định tại Điều 24 Luật XLVPHC và chỉnh sửa tên gọi một số lĩnh vực cho phù hợp với các Luật hiện hành ban hành sau Luật XLVPHC, cụ thể:

Về tăng mức tiền phạt tối đa, Luật số 67/2020/QH14 đã tăng mức phạt tiền tối đa của 10 lĩnh vực được quy định cụ thể tại Khoản 10 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung Điều 24 Luật XLVPHC như sau:

- Giao thông đường bộ: từ 40 triệu lên 75 triệu.

- Phòng, chống tệ nạn xã hội: từ 40 triệu lên 75 triệu.

- Cơ yếu: từ 50 triệu lên 75 triệu.

- Quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia: từ 50 triệu lên 75 triệu.

- Giáo dục: từ 50 triệu lên 75 triệu.

- Điện lực: từ 50 triệu lên 100 triệu.

- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: từ 100 triệu lên 200 triệu.

- Thủy lợi: từ 100 triệu lên 250 triệu.

- Báo chí: từ 100 triệu lên 250 triệu.

- Kinh doanh bất động sản: từ 150 triệu lên 500 triệu.

Về bổ sung mức phạt tối đa, Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung quy định mức phạt tiền tối đa của 08 lĩnh vực mới chưa được Luật XLVPHC quy định như: Đối ngoại; cứu nạn, cứu hộ; an ninh mạng; an toàn thông tin mạng; kiểm toán nhà nước; cản trở hoạt động tố tụng; bảo hiểm thất nghiệp; in.

Bên cạnh đó, quy định về mức phạt tối đa trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp và hoạt động xuất cảnh, nhập cảnh đã được lược bỏ vì kinh doanh theo phương thức đa cấp là một hình thức kinh doanh thuộc lĩnh vực thương mại đã được quy định mức phạt tiền tối đa là 100 triệu đồng (sửa đổi bổ sung Điểm đ Khoản 1 Điều 24 Luật XLVPHC); hoạt động xuất cảnh, nhập cảnh thuộc lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội đã được quy định mức phạt tiền tối đa là 40 triệu đồng (sửa đổi, bổ sung Điểm b Khoản 1 Điều 24 Luật XLVPHC).

Về chỉnh sửa tên gọi một số lĩnh vực, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi tên của một số lĩnh vực như: Lĩnh vực sản xuất, kinh doanh giống vật nuôi, cây trồng thành trồng trọt; sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi thành chăn nuôi; dạy nghề thành giáo dục nghề nghiệp; quản lý rừng, lâm sản thành lâm nghiệp; thăm dò, khai thác dầu khí và các loại khoáng sản khác thành hoạt động dầu khí và hoạt động khoáng sản khác; hạn chế cạnh tranh thành cạnh tranh; quản lý công trình thủy lợi; bảo vệ nguồn lợi thủy sản thành thủy sản.

2.2 Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Hiện nay một số cơ quan, đơn vị được sắp xếp lại tổ chức bộ máy, chính vì vậy, cơ cấu, tổ chức, tên gọi của một số cơ quan, đơn vị cũng như các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đã có sự thay đổi, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung một số chức danh mới có thẩm quyền xử phạt trong các lĩnh vực quản lý nhà nước cũng như bãi bỏ một số chức danh đã được quy định trong Luật nhưng hiện nay không còn thẩm quyền xử phạt. Đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tiễn Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC theo hướng bổ sung tên gọi bãi bỏ một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, sửa đổi quy định về thẩm quyền xử phạt của một số chức danh, quy định cụ thể về những trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt có sự thay đổi và quy định về giao quyền xử phạt vi phạm hành chính. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, về bổ sung tên gọi và bãi bỏ một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Theo đó, Luật đã bãi bỏ một số chức danh có thẩm quyền xử phạt theo Luật XLVPHC hiện hành như: Cục trưởng Cục Dự trữ khu vực, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, Trưởng ban thi đua khen thưởng Trung ương (Điều 46), một số chức danh trong lực lượng Công an nhân dân (Điều 39) do thay đổi cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ…, đồng thời bổ sung một số chức danh có thẩm quyền xử phạt như Kiểm ngư viên, Trạm trưởng trạm Kiểm ngư thuộc Chi cục Kiểm ngư vùng, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư Vùng, Cục trưởng Cục Kiểm ngư (Điều 43a), Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh quốc gia (Điều 45a), Trưởng đoàn kiểm toán, Kiểm toán trưởng (Điều 48a), một số chức danh trong lực lượng Công an nhân dân (Điều 39) và Quản lý thị trường (Điều 45).

Thứ hai, về sửa đổi quy định về thẩm quyền xử phạt của một số chức danh. Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi theo hướng tăng thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể: Tăng thẩm quyền phạt tiền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện (điểm b khoản 2 Điều 38) và Giám đốc Công an cấp tỉnh (điểm b khoản 5 Điều 39) từ 50.000.000 đồng lên 100.000.000 đồng; Sửa đổi việc áp dụng hình thức tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của các chức danh từ Điều 38 đến Điều 49 Luật XLVPHC theo hướng: Bên cạnh thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của các chức danh là cấp cuối cùng của mỗi lực lượng đã được Luật XLVPHC hiện hành quy định, Luật bổ sung 08 nhóm chức danh (chủ yếu thuộc các cơ quan được tổ chức theo ngành dọc ở cấp tỉnh hoặc liên tỉnh) có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính không phụ thuộc vào giá trị tang vật, phương tiện. Đối với các chức danh khác ở cấp cơ sở có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện có giá trị không vượt quá 02 lần mức tiền phạt theo thẩm quyền.

Ngoài ra, do chưa đảm bảo tính thống nhất với Luật Thi hành án dân sự. Cụ thể, Khoản 5 Điều 49 của Luật XLVPHC quy định thẩm quyền xử phạt của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, tuy nhiên Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 và Luật số 23/2018/QH14) không quy định thẩm quyền xử phạt của chức danh này nên chưa bảo đảm tính thống nhất. Do vậy, để bảo đảm thống nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với thực tiễn thi hành, Luật XLVPHC đã bổ sung thẩm quyền xử phạt của Tổng cục trưởng Tổng cục thi hành án dân sự vào khoản 1 Điều 163 của Luật Thi hành án dân sự (Điều 2 Luật số 67/2020/QH14).

Thứ ba, về những trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt có sự thay đổi. Điều 53 Luật XLVPHC hiện hành chưa quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của một chức danh trong một số trường hợp như: có sự thay đổi về tên gọi đồng thời với thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn hoặc không có sự thay đổi về tên gọi nhưng có sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Do đó, để khắc phục hạn chế trên, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung Điều 53 Luật XLVPHC để quy định cụ thể về những trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt có sự thay đổi về tên gọi, đồng thời với thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn hoặc không có sự thay đổi về tên gọi nhưng có sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Theo đó, trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Luật này có sự thay đổi về tên gọi nhưng không có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn thì thẩm quyền xử phạt của chức danh đó được giữ nguyên. Trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn thì thẩm quyền xử phạt của chức danh đó do Chính phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Thứ tư, về giao quyền xử phạt vi phạm hành chính, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung Điều 54 Luật XLVPHC về việc giao quyền cho cấp phó áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 119 của Luật XLVPHC. Đồng thời, quy định rõ văn bản giao quyền phải được thể hiện bằng quyết định.

2.3. Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

Trong quá trình áp dụng quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trên thực tiễn đã xuất hiện một số khó khăn, vướng mắc. Do đó, để bảo đảm tính đầy đủ, khắc phục bất cập khi áp dụng trên thực tế và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người có thẩm quyền trong thực hiện pháp luật Luật số 67/2020/QH14 đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số nội dung về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính như sau:

Về thời gian tiến hành. Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau:

Thứ nhất, tăng thời hạn định giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tại khoản 3 Điều 60 Luật XLVPHC từ 24 giờ lên 48 giờ.

 Thứ hai, tăng thời hạn ra quyết định xử phạt với trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt. Quy định thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 66 Luật XLVPHC là tương đối ngắn, đặc biệt là khi vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt. Chính vì vậy, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 66 Luật XLVPHC theo hướng, vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 63 Luật số 67/2020/QH14.

Thứ ba, bổ sung các quy định về lập biên bản vi phạm hành chính. Luật XLVPHC  hiện hành chỉ quy định người có thẩm quyền phải “kịp thời” lập biên bản vi phạm hành chính, điều này dẫn đến một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành do không định lượng được thế nào là “kịp thời” trong từng trường hợp, lĩnh vực khác nhau và giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này. Trên cơ sở đó, Chính phủ quy định cụ thể về thời hạn lập biên bản để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện nay, bảo đảm phù hợp với từng lĩnh vực, từng hoạt động quản lý nhà nước.

Thêm vào đó, Luật cũng bổ sung quy định về việc gửi biên bản vi phạm hành chínhsửa đổi, bổ sung quy định về các trường hợp và thủ tục giải trình tại Điều 61 Luật XLVPHC. Theo đó, biên bản vi phạm hành chính có thể được lập, gửi bằng phương thức điện tử đối với trường hợp cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm đáp ứng điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay.

Về lĩnh vực được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính được sửa đổi theo hướng mở rộng. Cụ thể, Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung các lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống ma túy, phòng, chống tác hại của rượu, bia bên cạnh lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường. Đối với các lĩnh vực khác sẽ do Chính phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bên cạnh đó, Luật quy định rõ ràng hơn về điều kiện, yêu cầu trong quản lý, sử dụng, quy định danh mục các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; điều kiện, yêu cầu trong sử dụng, bảo quản kết quả thu thập được bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; đồng thời, giao Chính phủ quy định quy trình chuyển hóa kết quả thu được từ các phương tiện, thiết bị do các cá nhân, tổ chức cung cấp thành chứng cứ để xác định vi phạm hành chính.

Về xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan đến vấn đề này nhằm khắc phục những bất cập phát sinh trong thực tiễn như: Việc xác minh chủ sở hữu phương tiện, việc xử lý đối với các phương tiện có giá trị thấp hoặc không còn giá trị, việc xử lý đối với tang vật, phương tiện đã quá thời hạn tạm giữ mà không xác định được chủ sở hữu/ người vi phạm hoặc chủ sở hữu/ người vi phạm không đến nhận, việc xử lý đối với tang vật, phương tiện do bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu, cụ thể như sau:

Thứ nhất, đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ. Khoản 4 Điều 126 Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể, rõ ràng hơn việc thông báo, niêm yết công khai về tang vật, phương tiện bị tạm giữ. Chẳng hạn, quy định về số lần thông báo, thời hạn thông báo, xử lý tài sản sau khi hết thời hạn thông báo, niêm yết công khai… Đồng thời, Luật số 67/2020/QH14 cũng quy định về việc xử lý đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu nhưng đã đăng ký biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản theo quy định của pháp luật dân sự. Theo đó, đối với trường hợp này thì bên nhận thế chấp được nhận lại tang vật, phương tiện hoặc trị giá tương ứng với nghĩa vụ được bảo đảm. Cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ngân sách nhà nước.

Thứ hai, đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, Luật số 67/2020/QH14 quy định theo hướng viện dẫn:Tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã có quyết định tịch thu được xử lý theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công” (bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 81 Luật XLVPHC), đồng thời, bãi bỏ Điều 82 Luật XLVPHC.

2.4. Về việc thi hành và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Nhằm giải quyết những vướng mắc, bất cập trong quá trình thi hành và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung như sau:

Thứ nhất, Luật số 67/2020/QH14 quy định rõ hơn trường hợp không ra quyết xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn áp dụng tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định thì không bị coi là đã bị xử phạt vi phạm hành chính để bảo đảm tính rõ ràng hơn khi áp dụng pháp luật tại Điều 65 Luật XLVPHC.

Thứ hai, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung quy định về hoãn, giảm, miễn tiền phạt tại Điều 76 và Điều 77 Luật XLVPHC theo hướng bổ sung quy định tổ chức cũng được hoãn, giảm, miễn tiền phạt để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho tổ chức/doanh nghiệp khi gặp khó khăn về tài chính do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ (khoản 37, 38 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14).

Thứ ba, Luật XLVPHC chưa có quy định về thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy, tại Điều 88 Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung quy định cụ thể về thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

3. Về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính nhằm khắc phục những khó khăn, bất cập bảo đảm phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi. Cụ thể Luật đã sửa đổi, bổ sung những vấn đề sau:

Thứ nhất, về đối tượng, điều kiện, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.  Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi  các Điều 90, 92, 94 và 96 của Luật XLVPHC, cụ thể Luật đã sửa đổi, bổ sung những nội dung sau:

- Quy định cụ thể các hành vi vi phạm là điều kiện để áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

- Làm rõ hơn quy định “02 lần trở lên trong 06 tháng”, thống nhất trong cách áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

- Bỏ quy định về việc đối tượng phải vi phạm “02 lần trong 06 tháng” là điều kiện áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc để tránh kéo dài thời gian áp dụng các biện pháp này.

- Bổ sung quy định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người sử dụng trái phép chất ma túy (Người từ đủ 14 tuổi trở lên đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy).

- Sửa đổi quy định về đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo hướng dẫn chiếu đến Luật Phòng, chống ma túy nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật.  

- Bổ sung quy định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với 02 trường hợp: (i) người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép mà không phải là tội phạm; (ii) người từ đủ 18 tuổi trở lên đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép, hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình mà không phải là tội phạm.

Thứ hai, về thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính. Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nhằm đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn tối đa các mốc thời gian thực hiện các công việc. Cụ thể, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi các quy định tại khoản 1 Điều 98, khoản 3 Điều 99, khoản 3 Điều 101 và khoản 3 Điều 103 của Luật XPVPHC liên quan đến thủ tục kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo hướng:

- Không quy định việc kiểm tra tính pháp lý thành một thủ tục riêng biệt, độc lập.

- Không quy định thẩm quyền kiểm tra tính pháp lý của công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã đối với hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện đối với hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Thay vào đó, Luật quy định rõ, cơ quan nào lập hồ sơ đề nghị thì phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của hồ sơ. Bởi vì, thực tế cho thấy quy định việc kiểm tra tính pháp lý thành một thủ tục riêng biệt, độc lập không thật sự cần thiết, làm kéo dài thời gian xem xét, áp dụng.

Thứ ba, về việc quản lý đối tượng trong thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Nhằm tháo gỡ vướng mắc của Điều 131 Luật XLVPHC, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung theo hướng: Đối với người không có nơi cư trú ổn định hoặc có nơi cư trú ổn định nhưng gia đình không đồng ý quản lý thì cơ quan, người có thẩm quyền lập hồ sơ quyết định: Giao cho trung tâm, cơ sở tiếp nhận đối tượng xã hội hoặc cơ sở cai nghiện bắt buộc của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý đối với người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người vi phạm cư trú hoặc có hành vi vi phạm tổ chức quản lý trong trường hp bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

4. Về các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính

4.1. Về biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính

Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung vào Khoản 1 Điều 122 Luật XLVPHC một số trường hợp phải tạm giữ người theo thủ tục hành chính để bảo đảm tính đầy đủ, khắc phục bất cập trong thực tế hiện nay, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người có thẩm quyền trong thực hiện pháp luật. Cụ thể, Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung các trường hợp sau: Để thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc theo quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; để xác định tình trạng nghiện ma túy đối với người sử dụng trái phép chất ma túy bên cạnh các trường hợp cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác và cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.

4.2. Về biện pháp tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề

Thứ nhất, Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung vào khoản 3 Điều 125 Luật XLVPHC quy định cụ thể: thẩm quyền tạm giữ không phụ thuộc vào giá trị của tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

Thứ hai, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề tại các khoản 4 và 9 Điều 125 Luật XLVPHC theo hướng: (i) Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đang giải quyết vụ việc lập biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề; sau đó, trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, người lập biên bản phải báo cáo thủ trưởng của mình là người có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính để xem xét ra quyết định tạm giữ; (ii) Bỏ quy định về việc người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ phải ký vào biên bản tạm giữ.

5. Về biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên

Một trong những điểm mới của Luật số 67/2020/QH14 so với Luật XLVPHC hiện hành là việc bổ sung biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng là một trong các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên. Theo đó, giáo dục dựa vào cộng đồng là biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính áp dụng đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự có nơi cư trú ổn định, đang theo học tại cơ sở giáo dục và cha mẹ, người giám hộ cam kết bằng văn bản về việc quản lý, giáo dục. Căn cứ vào quy định này, Tòa án nhân dân quyết định áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng.

    Người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng được đi học hoặc tham gia các chương trình học tập hoặc dạy nghề khác, tham gia các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống tại cộng đồng.

6. Về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

Luật số 67/2020/QH14 đã bãi bỏ quy định về việc báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính định kỳ 06 tháng tại Điều 17 Luật XLVPHC nhằm giảm bớt thủ tục và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo cáo.