I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
Tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018.
Luật được triển khai thi hành góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về kiểm soát sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ chống
buôn bán bất hợp pháp vũ khí.
Đồng thời, thực hiện cam kết của Việt Nam theo các điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên.
Ngoài ra,
Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công
cụ hỗ trợ ra đời đã
đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân và các lực
lượng khác, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên,
trong quá trình áp dụng trên thực tế Luật Quản lý, sử dụng
vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ đã bộc lộ một số tồn tại và bất cập. Cụ thể: Quy định của
Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công
cụ hỗ trợ còn thiếu đồng bộ
với Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) tạo
nên khoảng trống pháp luật trong việc
xử lý hình sự đối với hành vi chế tạo, mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng
trái phép, chiếm đoạt vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng
gây ra nguy cơ bỏ lọt tội phạm, không đảm bảo tính răn đe của pháp luật, ảnh hưởng
xấu đến trật tự, an toàn xã hội.
Vì vậy, sửa đổi Luật Quản lý, sử dụng
vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ là cần thiết.
Do đó, nhằm khắc phục những khó khăn, vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng Luật Quản lý, sử dụng
vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ ngày 25/11/2019, tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV đã
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, có hiệu lực
thi hành từ ngày 10/01/2020 (sau đây gọi là Luật sửa đổi, bổ sung).
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VŨ KHÍ, VẬT LIỆU NỔ VÀ
CÔNG CỤ HỖ TRỢ
1. Mục đích, quan điểm xây dựng Luật
sửa đổi, bổ sung
Luật sửa đổi bổ
sung ra đời trước hết nhằm khắc phục khoảng trống pháp luật giữa Luật Quản lý, sử dụng
vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ với Bộ
luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) về việc xử lý hình sự đối với hành vi chế tạo, mua bán, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng trái phép, chiếm đoạt vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự vũ
khí quân dụng. Góp phần đảm bảo thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Sau đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức tiến hành công tác
phòng, chống tội phạm nói chung và triển khai áp dụng pháp luật phòng, chống
hành vi chế tạo, mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép, chiếm đoạt vũ
khí có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng nói riêng.
2. Bố cục của Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ
Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công
cụ hỗ trợ bao gồm 02 Điều. Trong đó Điều 01 về Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Điều 02 về Hiệu
lực thi hành.
III. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
1. Phạm vi sửa đổi, bổ sung
Luật đã sửa đổi, bổ sung 02 điều
trên tổng số 76 điều của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ
hỗ trợ, cụ
thể là: sửa đổi, bổ sung khoản 2, khoản
6 Điều 3 (về giải thích từ ngữ) và
khoản 2 Điều 73 (về trách nhiệm quản lý nhà nước về vũ khí, vật
liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ).
2. Những nội dung
sửa đổi, bổ sung cơ bản
2.1. Sửa đổi, bổ sung khái niệm về Vũ khí quân dụng
Dựa trên thực tiễn áp dụng Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và
công cụ hỗ trợ đã bộc lộ vướng mắc gây khó khăn trong việc xử lý hình sự đối với hành vi chế tạo, mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng
trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng,
cụ thể như sau: Theo quy định của Pháp lệnh
Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2011, khái niệm “vũ khí quân dụng” bao gồm cả vũ khí có
tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng. Do đó, hành vi chế tạo, mua bán,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí có tính năng,
tác dụng tương tự vũ khí quân dụng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự”
theo Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 và Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, theo quy
định tại khoản 2 Điều 3 Luật
Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ đã tách quy định vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí
quân dụng ra khỏi khái niệm vũ khí quân dụng.
Do đó, gây khó khăn cho công
tác phòng, chống và xử lý hình sự đối với hành vi chế tạo, mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép hoặc chiếm
đoạt vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng. Trong trường hợp đã khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử thì phải đình chỉ; trường hợp đã bị kết án đang chấp hành
hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt thì phải
miễn chấp hành hình phạt còn lại hoặc đang được hoãn chấp hành
hình phạt thì miễn chấp hành toàn bộ hình phạt nên không thể khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử đối với các hành vi trên từ ngày 01/7/2018.
Vì
vậy, nhằm khắc phục hạn chế trên Điểm a Khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ đã bổ sung thêm khái niệm về vũ khí quân dụng quy
định tại khoản 2 Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ
trợ. Cụ thể nội dung được bổ sung như sau: “Vũ khí được chế tạo, sản xuất thủ
công hoặc công nghiệp, không theo tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản
xuất hợp pháp, có khả năng gây
sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất tương tự như vũ khí quy định tại điểm
a khoản này, không được trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân và
các lực lượng khác quy định tại Điều 18 Luật này để thi hành công vụ.”
So với quy định của Luật Quản lý, sử dụng vũ
khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ thì ngoài các loại vũ khí được chế tạo, sản xuất bảo đảm tiêu chuẩn kỹ
thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, được trang bị cho lực lượng
vũ trang nhân dân và các lực lượng khác theo quy định để thi hành công
vụ, Luật sửa đổi, bổ sung đã bổ sung khái niệm vũ khí quân dụng các
loại vũ khí không theo tiêu chuẩn kỹ
thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, không được
trang bị cho lực lượng vũ trang
nhân dân và các lực lượng khác. Vì vậy, đã khắc phục được khoảng trống pháp luật giữa quy định của
Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công
cụ hỗ trợ
và Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) trong việc xử lý hình sự đối với hành vi chế tạo, mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng
trái phép, chiếm đoạt vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng.
Tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tổ chức tiến hành thực hiện, áp dụng quy
định trên thực tiễn và nâng cao công tác phòng chống tội phạm.
2.2 Sửa đổi, bổ
sung khái niệm “Vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng”
Nhằm bảo đảm sự thống nhất trong quy định pháp luật giữa
các văn bản Điểm b Khoản 1 Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi, bổ
sung Khoản 6 Điều 3 theo hướng bỏ quy định vũ khí có tính năng,
tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và sửa đổi khái niệm. Cụ
thể nội dung được sửa đổi là “Vũ khí có
tính năng tác dụng tương tự súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao là vũ khí
được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, không theo tiêu chuẩn kỹ
thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, có khả năng gây sát thương, nguy hại
cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất tương tự như
súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao.”
So với quy định của Luật Quản lý, sử dụng vũ
khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ thì Luật sửa đổi, bổ sung chỉ quy
định vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự súng săn, vũ khí
thô sơ và vũ khí thể thao, bỏ quy định về vũ khí có tính năng, tác dụng
tương tự vũ khí quân dụng. Đồng thời, quy định trên đã tạo sự đồng bộ với khái niệm
vũ khí quân dụng đã được sửa đổi, bổ sung, cụ thể tại Điểm a Khoản 1 Điều
1 của Luật sửa đổi, bổ sung quy định vũ khí quân dụng bao gồm cả Vũ khí được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, không theo tiêu chuẩn
kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, có khả năng gây sát thương, nguy hại
cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất tương tự như
vũ khí quy định tại điểm a khoản này, không được trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân và các lực lượng khác quy định tại Điều 18 Luật này để thi
hành công vụ. Do đó, việc sửa đổi đảm bảo sự thống nhất giữa các văn
bản pháp luật, tránh quy định chồng chéo, gây khó khăn trong tổ chức thực hiện
quy định.
2.3 Sửa đổi bổ sung về trách nhiệm quản
lý nhà nước về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ
Xuất phát từ bổ sung thêm khái
niệm vũ khí quân dụng bao gồm cả các loại vũ khí không theo tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của
nhà sản xuất hợp pháp, không được trang bị cho lực lượng vũ
trang nhân dân và các lực lượng
khác. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 73 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và
công cụ hỗ trợ năm 2017 như sau: “Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng ban hành danh mục vũ khí quân dụng”. Như vậy, nếu không sửa
đổi khoản 2 Điều 73 của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ
trợ sẽ dẫn đến việc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phải ban hành cả danh
mục vũ khí được chế tạo, sản xuất thủ công
hoặc công nghiệp, không theo tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp
pháp. Nhưng trên thực tế, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao thì Bộ Quốc
phòng chỉ ban hành danh mục vũ khí quân dụng được chế tạo, sản xuất bảo đảm tiêu chuẩn kỹ
thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp.
Do đó, nhằm đồng bộ các quy
định pháp luật và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tổ chức thực hiện và áp
dụng quy định trên thực tiễn, Luật sửa đổi bổ sung đã sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 73 theo hướng quy định Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ ban hành danh mục vũ
khí quân dụng được chế
tạo, sản xuất bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, cụ thể Khoản 2 Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung quy
định như sau: “Bộ Quốc phòng thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ
hỗ trợ theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành danh mục vũ khí quân dụng quy định tại điểm a
khoản 2 Điều 3 của Luật này.” Như vậy, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành
danh mục vũ khí quân dụng đối với súng cầm tay bao gồm: súng ngắn, súng trường,
súng tiểu liên, súng trung liên, súng chống tăng, súng phóng lựu.
0 Nhận xét