I. Sự cần thiết ban hành

          Trong thời gian vừa qua, lợi dụng ảnh hưởng của tình hình dịch bệnh và nhu cầu vay nợ trang trải cuộc sống, các hoạt động cho vay lãi nặng, “tín dụng đen” ngày càng lan rộng ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh, trật tự tại nhiều địa phương. Các đối tượng sử dụng lợi dụng mạng Internet,  mạng xã hội hoặc núp bóng  các doanh  nghiệp cho vay tài chính, dịch vụ đòi nợ, kinh doanh cầm đồ để mời chào, dụ dỗ người dân vay nợ với lãi suất cao. Đặc biệt, hiện nay xuất hiện hình thức cho vay ngang hàng trên mạng Internet - P2P Lending, một sản phẩm công nghệ kết nối trực tiếp giữa người cho vay và người vay mà không qua trung gian tài chính gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong xác định và xử lý hành vi.



          Thực tế các cơ quan chức năng đã tiến hành tăng cường rà soát, xử lý các hành vi cho vay lãi nặng và đạt được nhiều kết quả tích cực tuy nhiên, những vụ việc đã được giải quyết triệt để chỉ là phần nổi của tảng băng chìm do gặp nhiều khó khăn trong quá trình giải quyết. Do đó, nhằm khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xử lý hành vi cho vay lãi nặng, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao vừa ban hành Nghị quyết 01/2021/NQ-HĐTP ngày 20/12/2021 về việc hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Nghị quyết có hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/12/2021.

          III. Nội dung cơ bản

          1. Phạm vi điều chỉnh

          Nghị quyết  hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 về việc xét xử vụ án hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Cụ thể, Điều 201 Bộ luật hình sự quy định như sau:

          “1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

          2. Phạm tội thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

          3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

          2. Nội dung cơ bản của Nghị quyết

          Thứ nhất, Nghị quyết bổ sung quy định về xác định giá trị tài sản không phải là tiền. Trên thực tế, việc vay tài sản không chỉ vay tiền mà còn có thể là tài sản khác như vàng, bạc, đá quý... Tuy nhiên, lãi suất cho vay được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 làm căn cứ tính lãi nặng mới chỉ quy định lãi suất đối với tài sản cho vay là tiền mà chưa quy định lãi suất cho vay đối với tài sản là vàng, bạc, đá quý và các tài sản có giá trị khác khác dẫn đến khó khăn khi giải quyết các vụ án hình sự về tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Vì vậy, nhằm khắc phục hạn chế trên, tại Khoàn 1 Điều 2 Nghị quyết quy định: “Trường hợp cho vay bằng tài sản khác (không phải là tiền) thì khi giải quyết phải quy đổi giá trị tài sản đó thành tiền tại thời điểm chuyển giao tài sản vay.”

          Thứ hai, Nghị quyết bổ sung quy định về nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự và xác định tư cách tố tụng của người vay. Theo đó hình phạt tiền là hình thức được xem xét áp dụng chính hoặc là hình phạt bổ sung trong trường hợp hình phạt chính không phải là phạt tiền nhằm “đánh” vào mục đích kinh tế của người phạm tội khi thực hiện hành vi, nâng cao tính răn đe, phòng ngừa vi phạm và xử lý nghiêm minh,công bằng. Cụ thể Điều 3 Nghị đinh 01/2021 quy định như sau: “Xem xét áp dụng nghiêm khắc hình phạt tiền là hình phạt chính đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, hoạt động dưới hình thức băng, ổ nhóm thì xem xét áp dụng hình phạt tù là hình phạt chính. Trường hợp hình phạt chính được áp dụng không phải hình phạt tiền thì phải xem xét áp dụng nghiêm khắc hình phạt bổ sung là hình phạt tiền” đồng thời Nghị quyết cũng xác định tư cách tham gia tố tụng của người vay lãi nặng trong trường hợp này là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

          Thứ ba, Nghị quyết bổ sung cách xác định khoản tiền thu lợi bất chính để xử lý trách nhiệm hình sự, cụ thể Điều 6 Nghị quyết quy định như sau: “1.Trường hợp cho vay lãi nặng đã hết thời hạn vay theo thỏa thuận thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay phải trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự trong cả kỳ hạn vay.

          2. Trường hợp cho vay lãi nặng chưa hết thời hạn vay theo thỏa thuận mà bị phát hiện thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay phải trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự tính đến thời điểm cơ quan có thẩm quyền phát hiện và ngăn chặn.Trường hợp bên vay đã trả tiền lãi trước hạn và các khoản thu trái pháp luật khác thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay thực tế đã trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự”. Mức lãi suất cao nhất theo Bộ luật Dân sự được quy định tại Điều 468 Bộ Luật Dân sự 2015 là 20%/năm, tức khoảng gần 1,7%/tháng. Như vậy mức lãi suất được tính là cho vay lãi nặng là 100%/năm, tương đương 8,33%/tháng.

          Thứ tư, Nghị quyết bổ sung quy định về xử lý vật, tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm, cụ thể Điều 5 Nghị quyết quy định như sau:

          “1. Tịch thu sung quỹ nhà nước đối với:

          a) Khoản tiền, tài sản khác người phạm tội dùng để cho vay;

          b) Tiền lãi tương ứng mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự mà người phạm tội đã thu của người vay.

          c) Tiền, tài sản khác mà người phạm tội có thêm được từ việc sử dụng tiền lãi và các khoản thu bất hợp pháp khác.

          2. Trả lại cho người vay tiền thu lợi bất chính mà người phạm tội thực tế đã thu, trừ trường hợp người vay sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp (như đánh bạc, mua bán trái phép chất ma túy, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ...) thì khoản tiền thu lợi bất chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước.”

          Quy đinh mới của Nghị quyết không chỉ cụ thể hóa quy định tại Mục 2.1 Công văn số 4688/VKSTC- V14 ngày 09/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao về xử lý khoản tiền gốc và lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm: Tiền gốc là phương tiện phạm tội nên cần phải tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Trường hợp người vay chưa trả tiền gốc thì buộc người vay phải nộp để sung vào ngân sách Nhà nước mà còn quy định về xử lý đối với tiền lãi và tiền, tài sản khác người phạm tội có được từ hành vi vi phạm pháp luật. 

          Thứ năm, Nghị quyết quy định về truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể. Một trong những dấu hiệu định tội được quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 là ‘‘đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cho vay lãi nặng mà còn vi phạm’’. Tuy nhiên, qua rà soát các chỉ có Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia chỉ quy định xử phạt đối với hành vi “Cho vay tiền có cầm cố tài sản, nhưng lãi suất cho vay vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm cho vay” mà không có quy định xử phạt đối với hành vi cho vay lãi nặng không có cầm cố tài sản dẫn đến xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi này khó thực hiện, không thể xem xét định tội, truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhằm khắc phục hạn chế trên và quy định cụ thể về xác định trách nhiệm hình sự trên cơ sở mức thu lợi và số lần thực hiện hành vi như sau:

          “1. Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà số tiền thu lợi bất chính của mỗi lần phạm tội từ 30.000.000 đồng trở lên, nếu mỗi lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

          2. Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng mà các lần thu lợi bất chính đều dưới 30.000.000 đồng nhưng tổng số tiền thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên và các hành vi này chưa lần nào bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần cho vay lãi nặng, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

          3. Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, trong đó có một lần cho vay lãi nặng, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên và hành vi cho vay lãi nặng này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; còn các hành vi cho vay lãi nặng khác thu lợi bất chính dưới 30.000.000 đồng, các hành vi này chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần cho vay lãi nặng, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. …

          5. Trường hợp người cho vay lãi nặng nhằm thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên, nhưng vì nguyên nhân ngoài ý muốn mà người cho vay chưa thu lợi bất chính hoặc đã thu lợi bất chính dưới 30.000.000 đồng, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính mà họ nhằm đạt được. Việc xác định số tiền thu lợi bất chính được thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 6 Nghị quyết này. Khi quyết định hình phạt, Tòa án áp dụng Điều 15 và khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự về phạm tội chưa đạt.”

          Mặt khác, Nghị quyết còn bổ sung trường hợp người phạm tội  thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác phục vụ mục đích thu lợi bất chính như sau:  “4. Trường hợp người cho vay lãi nặng thực hiện nhiều hành vi khác nhau liên quan đến việc đòi nợ (như: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần, gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe hoặc có hành vi khác để lấy tài sản,...) thì tùy từng trường hợp họ còn bị xử lý hình sự về tội phạm tương ứng, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm.”