NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
(Chuyên đề đã được rút gọn và
thông qua Tổ tư vấn pháp luật Tòa án quân sự Quân khu 2)
Tòa án quân sự Quân khu 2 giới thiệu cùng các đồng chí một số nội dung liên quan đến vấn đề rủi ro trong hoạt động đầu tư, giao dịch tiền ảo.
I. TỔNG QUAN VỀ TIỀN ẢO
1. Tiền ảo là gì?
Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có hành lang pháp lý đầy đủ điều chỉnh về tiền ảo, do đó cũng chưa đưa ra định nghĩa cụ thể về tiền ảo trong bất cứ một văn bản pháp luật nào. Tuy nhiên, một số tổ chức, cơ quan trên thế giới đã đưa ra định nghĩa về tiền ảo như sau:
- Theo Tổ chức quốc tế về Tiêu chuẩn hoá (ISO): "Tiền ảo là dạng tài sản vô hình không có thực, có tính chất tiền tệ tức có thể sử dụng nó làm phương tiện trao đổi hay một tài sản có giá trị trong một môi trường cụ thể”.
- Theo Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB): “Tiền ảo là một đại diện kỹ thuật số về giá trị không được phát hành bởi ngân hàng trung ương hoặc cơ quan công quyền, cũng không nhất thiết phải gắn với tiền định danh nhưng được chấp nhận bởi các thể nhân hoặc pháp nhân như một phương tiện thanh toán và có thể được chuyển nhượng, lưu trữ hoặc giao dịch điện tử”.
- Theo Nghị viện và Hội đồng của Liên minh Châu Âu (EU): Tiền ảo là thể hiện giá trị dưới dạng số. Giá trị này không được một ngân hàng trung ương hay một cơ quan nhà nước nào phát hành hay đảm bảo, nó không gắn liền với một đồng tiền pháp định nào và không có địa vị pháp lí của tiền tệ nhưng lại được chấp nhận bởi cá nhân hoặc pháp nhân như một phương tiện trao đổi. Nó có thể được chuyển đổi, lưu trữ hay giao dịch bằng phương thức điện tử"
Như vậy, chúng ta có thể hiểu, tiền ảo là dạng tiền điện tử không được chính phủ của một nhà nước nào phát hành mà được tạo ra bởi những cá nhân hoặc tập thể. Tiền ảo thường được quản lý và kiểm soát bởi các nhà phát hành tư nhân, nhà phát triển hoặc tổ chức sáng lập. Và chỉ được công nhận và sử dụng trong một cộng đồng ảo cụ thể với những mục đích khác nhau. Loại tiền này “được các thể nhân hoặc pháp nhân chấp nhận như một phương tiện thanh toán và có thể được chuyển nhượng, lưu trữ hoặc giao dịch điện tử ".
2. Tiền ảo ra đời như thế nào ?
Bitcoin là đồng tiền ảo đầu tiên trên thế giới được phát hành vào năm 2009 bởi Satoshi Nakamoto, dựa trên ý tưởng tạo ra hệ thống thanh toán điện tử độc lập, phi tập trung.
Ý tưởng của Satoshi Nakamoto được nảy sinh từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra do bong bóng bất động sản Mỹ vào năm 2008 khiến nền kinh tế Mỹ và thế giới chao đảo; hàng loạt các hệ lụy như thất nghiệp, doanh nghiệp trong đó có cả các ngân hàng lớn trên thế giới phá sản... Sự kiện này làm dấy lên sự hoài nghi về hệ thống ngân hàng truyền thống và đồng tiền do chính phủ phát hành; đồng thời mong muốn có một loại đồng tiền mới, không phụ thuộc vào chính phủ cũng như hệ thống ngân hàng.
Thời điểm này, đã có một số phong trào phát triển ra một loại tiền kỹ thuật số- thực chất chỉ là tập tin. Tuy nhiên, các nỗ lực này không thể giải quyết được vấn nạn “DOUBLE SPENDING”, tức là tập tin đó có thể được nhân bản và sử dụng hai lần. Do đó, người ta đã nghĩ ra cách xác nhận xem tập tin đó đã được sử dụng chưa bằng một cơ quan trung tâm tin cậy. Tuy nhiên, cách này lại có một điểm yếu lớn nhất là mọi thứ đều tập trung tại cơ quan trung tâm, và khi cơ quan trung tâm này bị bẻ gãy thì cả hệ thống sẽ sụp đổ.
Và Bitcoin đã giải quyết triệt để các vấn đề trên bằng cách sử dụng BLOCKCHAIN (chuỗi khối) - một sổ cái công cộng liệt kê tất cả các giao dịch (transactions), mỗi một giao dịch đều được mã hóa và phải phù hợp với giao dịch trước đó, được xác nhận hợp lệ bởi thợ đào (Miner), và thợ đào ở đây thực chất là một máy tính. Chỉ khi được xác nhận là hợp lệ, giao dịch đó mới hoàn thành và được khớp nối với các giao dịch trước đó, tức là được thêm vào cuốn sổ cái. Và dữ liệu trong cuốn sổ cái liên tục được mạng lưới máy tính trên thế giới cập nhật và cấp phát dữ liệu này đến các máy tính khác. Khi giao dịch thành công trên mạng lưới, thợ đào (máy tính) sẽ được phần thưởng là Bitcoin. Số lượng Bitcoin được trả lần đầu là 50 Bitcoin cho một giao dịch, tuy nhiên, do số lượng Bitcoin bị giới hạn ở mức 21 triệu nên số Bitcoin thưởng cho mỗi một giao dịch mới được đào thành công giảm dần theo thời gian. Đồng Bitcoin cuối cùng dự kiến được khai thác vào năm 2140.
Dựa trên nền tảng chung BLOCKCHAIN, hiện nay người ta đã tạo ra hơn 4.000 loại tiền ảo khác nhau thông qua việc nâng cấp, cập nhập phần mềm, sửa đổi mã nguồn. Mỗi đồng tiền có một mục đích cũng như ưu điểm riêng mà trong đó cộng đồng người dùng cùng sử dụng đồng tiền để trao đổi, mua bán. Tuy nhiên, không phải đồng tiền ảo nào cũng được người dùng đón nhận, niềm tin của cộng đồng phụ thuộc vào đội ngũ phát triển, lộ trình phát triển của đồng tiền. Khi có tính thực tiễn cao, được người dùng đón nhận thì lúc này đồng tiền ảo mới có giá trị thực sự. Những đồng tiền giá trị nhất hiện nay, đã và đang được cộng đồng người dùng thế giới tin dùng và thực tế phát triển tốt là Bitcoin (BTC), Ethereum (EHT), Ripple (XRP), Binance Coin (BNB), Dogecoin (DOGE), Litecoin (LTC)…
3. Ưu điểm, hạn chế của tiền ảo
3.1. Ưu điểm
Thứ nhất, sử dụng thuận tiện trong giao dịch. Vì lưu thông tiền ảo không phải qua bất kỳ một khâu hay mắt xích trung gian nào. Sử dụng tiền ảo không có giới hạn, không phụ thuộc về không gian và thời gian khi lưu thông.
Thứ hai, sử dụng tiền ảo được an toàn và bảo mật. Các giao dịch tiền ảo đều được thực hiện và hoàn thành mà không cần bất kỳ thông tin nào về cá nhân; danh tính của người giao dịch cũng được bảo mật.
Thứ ba, không thể bị làm giả, vì tiền ảo không thể hiện dưới dạng vật chất.
Thứ tư, chi phí giao dịch thấp vì không thông qua bất kỳ một khâu trung gian nào, chủ thể giao dịch chỉ phải thanh toán lệ phí xử lý giao dịch với khoản chi nhỏ.
Thứ năm, không gây ô nhiễm môi trường do việc giao dịch được thông qua mạng Internet, hệ thống máy tính xử lý dữ liệu của tiền ảo.
3.2. Hạn chế
Thứ nhất, do có việc sử dụng tiền tệ, vàng, bạc là những "vật nhìn thấy, xác định được về cơ học", cho nên tiền ảo chưa ăn sâu vào tiềm thức của chủ thể trong xã hội, nhiều chủ thể còn chưa có kiến thức về việc sử dụng tiền ảo cho nên không có ý định sử dụng nó trong giao dịch.
Thứ hai, sử dụng tiền ảo tương đối phức tạp vì phải thông qua thiết bị kỹ thuật máy tính, vì vậy không phải bất kỳ chủ thể nào cũng thành thạo sử dụng máy tính để thực hiện các giao dịch tiền ảo.
Thứ ba, do thuộc tính ẩn danh khi giao dịch tiền ảo, cho nên nguy cơ bị lạm dụng, tội phạm có thể sử dụng để gây thiệt hại cho chủ thể sở hữu, có thể bị chiếm đoạt, bị lạm dụng để rửa tiền.
Thứ tư, giá trị của tiền ảo cũng thường biến động mạnh trong thời gian ngắn nên hoạt động đầu tư vào tiền ảo ẩn chứa nhiều nguy cơ về bong bóng, tiềm ẩn gây thiệt hại cho nhà đầu tư.
II. MỘT SỐ KHÍA CẠNH PHÁP LÝ VỀ TIỀN ẢO
1. Quy định của các quốc gia trên thế giới
Do là loại tiền mới xuất hiện, có những ưu, nhược điểm nhất định nên không phải quốc gia nào cũng thừa nhận tiền ảo, có quốc gia kiên quyết cấm giao dịch bằng tiền ảo.
Từ năm 2017, Trung Quốc đã cấm tất cả các công ty và cá nhân huy động vốn thông qua các hoạt động ICO (đợt phát hành coin đầu tiên- phương thức huy động vốn thông qua việc sử dụng các đồng tiền ảo) và ICO được xem là hoạt động bất hợp pháp trong nước; đồng thời, ngày 5/2/2018, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc tuyên bố tất cả truy cập của người dân nước này vào các dịch vụ liên quan đến tiền ảo trong nước và nước ngoài sẽ bị chặn. Tại Cộng hòa Liên bang Nga, Văn phòng Công tố Liên bang ban hành quy định, nghiêm cấm sử dụng tiền ảo Bitcoin cũng như các loại tiền kỹ thuật số khác. Tại Thái Lan, cũng cấm lưu hành và sử dụng Bitcoin. Sau khi ngân hàng nước này xác định đây không phải là đơn vị tiền tệ có uy tín. Vì vậy, việc mua bán, gửi, thanh toán bằng Bitcoin từ bất kỳ chủ thể nào ngoài Thái Lan hoặc nhận từ các quốc gia khác đều bị nghiêm cấm.
Một số quốc gia đã gián tiếp chấp nhận sử dụng Bitcoin hợp pháp bằng cách ban hành một số giám sát theo quy định như: Hoa Kỳ (Bitcoin được phân loại là tài sản cho mục đích thuế; cách doanh nghiệp lớn cũng chào đón thanh toán bằng Bitcoin); Canada (Bitcoin được cơ quan doanh thu xem là một loại hàng hóa; coi sàn giao dịch Bitcoin là các doanh nghiệp dịch vụ tiền…); Autralia (coi Bitcoin là một loại tiền tệ như bất kỳ loại tiền nào khác và cho phép giao dịch, khai thác hoặc mua nó)...
2. Quy định của Nhà nước Việt Nam
Hiện nay, tuy Việt Nam vẫn chưa có khung pháp lý rõ ràng, đầy đủ điều chỉnh đối với tiền ảo, nhưng chúng ta có thể căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để xác định địa vị pháp lý cũng như các quan hệ pháp luật liên quan tới tiền ảo ở Việt Nam.
2.1. Quy định của pháp luật dân sự
Điều 105 Bộ luật Dân sự quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bảo gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Như vậy, đối chiếu với quy định trên, tiền ảo không được coi là tài sản vì nó không thuộc bất kỳ loại nào trong bốn loại nêu trên.
Việc chưa có quy định nào của pháp luật dân sự khẳng định tiền ảo là một loại tài sản dẫn đến những hệ quả tiếp theo là các quan hệ dân sự như sở hữu, thừa kế, hợp đồng hay bồi thường thiệt hại liên quan đến tiền ảo cũng gần như rơi vào “khoảng trống”, không có cơ chế để giải quyết một cách phù hợp.
2.2. Quy định của pháp luật Hình sự
Mặc dù theo quy định của Bộ luật Dân sự, tiền ảo không phải là tài sản và do đó, các chủ thể liên quan đến tiền ảo không được pháp luật bảo vệ khi thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền ảo. Song, nếu chủ thể lợi dụng các giao dịch về tiền ảo nhằm thực hiện các hành vi bị cấm (như rửa tiền, tài trợ khủng bố, lừa đảo chiếm đoạt tài sản) hoặc sử dụng tiền ảo làm phương tiện thanh toán tại Việt Nam sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012, rửa tiền được hiểu là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có, bao gồm cả hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 324 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định, hành vi được coi là phạm tội rửa tiền có thể là: “Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có”. Ở đây, giao dịch khác không được xác định cụ thể là giao dịch gì nên có thể hiểu mọi giao dịch (ngoài giao dịch tài chính, ngân hàng) nhằm mục đích đã được xác định tại quy định trên đều là phạm tội rửa tiền. Tuy nhiên, động cơ của tội phạm này phải nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản do mình phạm tội mà có. Trong khi đó, tiền ảo lại chưa được công nhận là tiền hay tài sản ở Việt Nam, nên tuỳ từng trường hợp, chủ thể có thể bị xác định là phạm tội rửa tiền hoặc không.
Về tội “Tài trợ khủng bố”, theo quy định tại khoản 1 Điều 300 Bộ luật Hình sự, người nào huy động, hỗ trợ tiền, tài sản dưới bất kỳ hình thức nào cho tổ chức, cá nhân khủng bố, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Như vậy, hành vi tài trợ khủng bố có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Bộ luật Hình sự không giới hạn hình thức tài trợ khủng bố mà chỉ quan tâm đến việc hành vi đó có nhằm huy động, hỗ trợ, tiền, tài sản cho tổ chức, cá nhân khủng bố hay không. Đối tượng tài trợ theo Điều luật này cũng phải là tiền hoặc tài sản. Quy định trên một lần nữa cho thấy, sự ra đời và tồn tại tiền ảo đã gây lúng túng trong việc xác định rất nhiều hậu quả pháp lý của các hành vi liên quan đến tiền ảo, trong đó có việc xác định tội phạm tài trợ khủng bố. Trên thực tế, các tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia rất chú trọng đến vấn đề ngăn chặn việc sử dụng tiền ảo để rửa tiền hay tài trợ khủng bố.
Ngoài ra, người có hành vi xâm nhập trái phép mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác nhằm chiếm đoạt tiền ảo tuy không phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội có tính chất chiếm đoạt (như tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; tội “Trộm cắp tài sản”; tội “Cưỡng đoạt tài sản”…) vì tiền ảo chưa được quy định là tài sản nhưng vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác” quy định tại Điều 289 Bộ luật hình sự.
2.3. Trong lĩnh vực pháp luật kinh doanh
Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm 2020, doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm. Do đó, trường hợp các doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh, mua bán, chuyển nhượng, huy động vốn hoặc góp vốn bằng tiền ảo thì không bị cấm bởi đó là quyền mà pháp luật ghi nhận cho các doanh nghiệp được hưởng.
Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2020 về chính sách của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư kinh doanh, chủ thể được thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh các ngành, nghề mà Luật Đầu tư không cấm. Trong các ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh quy định tại Điều 6 và ngành, nghề kinh doanh có điều kiện quy định tại Điều 7 Luật Đầu tư năm 2020 đều không liệt kê hoạt động kinh doanh liên quan đến tiền ảo. Như vậy, theo những quy định trong Luật Đầu tư năm 2020, các hoạt động kinh doanh liên quan đến tiền ảo không bị coi là ngành, nghề cấm kinh doanh.
Trên thực tế, các hoạt động huy động vốn bằng tiền ảo hoặc các sàn giao dịch tiền ảo vẫn diễn ra, các chủ thể vẫn tiến hành các hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng, góp vốn, huy động vốn đầu tư… bằng các đồng tiền ảo. Tuy nhiên, quy trình thành lập, đăng ký thành lập, cấp mã số thuế, trách nhiệm hoặc các hoạt động hay chế tài liên quan đến tiền ảo hiện nay pháp luật vẫn còn đang bỏ ngỏ, cùng với đó là việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến các hoạt động này cũng chưa có cơ chế để giải quyết một cách phù hợp. Đây là mảnh đất màu mỡ cho các hoạt động huy động vốn thông qua việc sử dụng tiền ảo mang tính chất lừa đảo, kinh doanh đa cấp và thực tế đã xảy ra ở nước ta, điển hình là các vụ việc tiền ảo iFan, AOC hay VNCOINS…
2.4. Trong lĩnh vực pháp luật về thuế
Trong thời gian vừa qua, sự biến động không ngừng về giá trị các đồng tiền ảo, đặc biệt là đồng Bitcoin đã khiến cho nhiều tổ chức, cá nhân kinh doanh tiền ảo có được những khoản lợi nhuận lớn. Về phương diện pháp lý, các hoạt động này phải chịu thuế. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động kinh doanh tiền ảo và các hoạt động khác liên quan đến tiền ảo nhằm mục đích sinh lợi không chịu sự điều chỉnh của các luật về thuế ở Việt Nam. Điều này xuất phát từ nguyên nhân Việt Nam chưa có khung pháp luật về tiền ảo. Như đã phân tích, tiền ảo không được coi là tài sản trong Bộ luật Dân sự và không được coi là hàng hoá theo quy định của pháp luật thương mại. Do đó, bản thân các đồng tiền ảo và các hoạt động kinh doanh tiền ảo không làm phát sinh nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể có liên quan.
III. MỘT SỐ HÌNH THỨC LỢI DỤNG TIỀN ẢO ĐỂ THỰC HIỆN HÀNH VI PHẠM TỘI
1. Dùng tiền ảo để mua bán ma túy xuyên quốc gia
Tại Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2021, Cục Cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy Bộ Công an cho biết, hiện nay, các đối tượng đã lợi dụng triệt để việc áp dụng khoa học - công nghệ, nhằm thực hiện hành vi phạm tội. Một số đối tượng đã sử dụng phương thức thanh toán giao dịch, liên lạc qua Internet, thẻ ngân hàng quốc tế, đặc biệt tinh vi là sử dụng tiền số hóa như Bitcoin, Ethereum.
Sở dĩ tiền ảo đang được các đối tượng phạm tội sử dụng trong việc mua bán ma túy xuyên quốc gia vì chúng có tính ẩn danh cao; việc thực hiện giao dịch dễ dàng, không phải qua bên thứ ba (trung gian) xác nhận nên dễ dàng qua mắt các cơ quan chức năng. Trong khi đó, các đồng tiền này tuy chưa có giá trị giao dịch ở Việt nam nhưng lại có giá trị quy đổi tại một số quốc gia.
2. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua kêu gọi đầu tư, giao dịch tiền ảo
Một trong những hình thức lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện trên mạng xã hội hiện nay là kêu gọi đầu tư các loại tiền ảo không rõ thông tin và nguồn gốc. Mặc dù trên các phương tiện thông tin đại chúng có rất nhiều thông tin, cảnh báo nhưng tình trạng này vẫn âm thầm diễn ra và bất kỳ ai cũng có thể trở thành nạn nhân, thậm chí là tiếp tay cho tội phạm khi tham gia đầu tư, giao dịch tiền ảo.
Hiện nay, đặc điểm chung của loại hình lừa đảo này là dùng mạng xã hội (Zalo, Facebook, YouTube…) thường xuyên tổ chức các buổi họp Zoom; đưa hình ảnh cuộc sống “giàu sang”; quay và phát các clip quảng cáo về bản thân có phương pháp kiếm tiền rất hiệu quả bằng việc đầu tư tiền ảo để lôi kéo, thu hút các nhà đầu tư tham gia.
Phương pháp đầu tư ở đây là nhà đầu tư bỏ tiền ra mua một loại tiền ảo với lời hứa sẽ hoàn vốn trong một thời gian ngắn do lãi suất cao (vài chục %/tháng), lãi suất kép (được hưởng hoa hồng nếu giới thiệu được người đầu tư mới), rủi ro ít hoặc không có với cam kết bảo hiểm vốn 100%. Để thực hiện được hành vi của mình, đối tượng lừa đảo thường có hai phương pháp: Một là kêu gọi đầu tư vào tiền ảo không rõ thông tin và nguồn gốc; hai là kêu gọi đầu tư vào tiền ảo thông qua sàn giao dịch giả mạo sàn Forex.
Chúng ta cùng nghiên cứu một số vụ việc điển hình về lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hình thức kêu gọi đầu tư tiền ảo đã bị xử lý cũng như đang diễn ra hiện nay.
2.1. Kêu gọi đầu tư các loại tiền ảo không rõ thông tin, nguồn gốc
2.1.1. Dự án Ifan
Đây là một trong những vụ việc lừa đảo lớn nhất thông qua kêu gọi đầu tư vào tiền ảo với hơn 32.000 nhà đầu tư trên khắp cả nước tham gia, số tiền bị lừa lên tới 15 nghìn tỷ đồng.
Dự án ifan bắt đầu kêu gọi đầu tư vốn từ năm 2017. Để dẫn dụ được hàng chục nghìn người tham gia đầu tư, ifan đã lợi dụng tên tuổi, hình ảnh một số ca sỹ như Đàm Vĩnh Hưng, Lệ Quyên… thậm chí tổ chức các buổi giới thiệu, thu hút đầu tư có những người dẫn chương trình nổi tiếng tham gia; dự án cũng đưa ra mức lãi suất cao đến chóng mặt, thấp nhất là 48%/tháng; nếu giới thiệu được người khác tham gia đầu tư sẽ hưởng thêm 8% lãi suất của người vừa tham gia; thời gian hoàn vốn tối đa chỉ 04 tháng. Chính vì lãi suất đưa ra cực “khủng” nên nhiều người đã gom góp tiền đầu tư vào iFan. Để được gọi là nhà đầu tư, các đối tượng lập dự án iFan buộc người chơi phải mua lượng token tối thiểu 1.000 USD (tương đương 22,5 triệu đồng). Số tiền đầu tư tối thiểu đã cao, tất nhiên số tiền được hứa hẹn khi rút ra cũng rất cao. Sau khi thu được số tiền lớn từ các nhà đầu tư, iFan tuyên bố thay đổi hình thức trả lãi bằng cách quy đổi sang các đồng tiền ảo iFan có “giá quy định” là 5 USD/đồng. Tuy nhiên giá trị thực của đồng tiền ảo chỉ là 0,01 USD/đồng, vì vậy các “nhà đầu tư” cuối cùng ngậm bồ hòn vì biết mình đang ôm một đống “rác coin” và xem như mất trắng số tiền đã đầu tư.
2.1.2. Nhóm Nteam
Gần đây, một nhóm có tên là Nteam đã kêu gọi, mời chào hàng nghìn người tham gia, bỏ tiền đầu tư vào 1 đồng tiền ảo có tên là TCL.
Hình thức đầu tư theo quảng cáo là khá đơn giản, chỉ cần người tham gia nộp tiền Việt cho nhóm Nteam, sau đó nhóm này sẽ bán đồng coin TCL lại cho với giá quy đổi khoảng 1 TCL = 3 USD đến 9 USD tùy từng thời điểm. Hàng tháng, nhóm Nteam sẽ trả lãi 15% bằng đồng TCL cho người tham gia; chỉ cần 3-4 tháng là thu hồi vốn.
Tuy nhiên khi tìm kiếm thì không thể tìm thấy đồng TCL giao dịch tại trang coin quốc tế nào, ngoài trang giao dịch do nhóm Nteam cung cấp. Điều này đặt ra nghi vấn, đồng tiền ảo này có phải là do nhóm Nteam lập ra và chi phối hay không?
Ngày 13/7/2021, 1 đồng TCL chỉ còn 0,213 USD. Nếu chỉ tính với giá ban đầu thấp nhất là 3 USD, thì đến nay tài sản của những người tham gia đã "bốc hơi" mất hơn 90% tài sản. Còn nếu tính với giá 9 USD, thì coi như người chơi đã mất hết.
2.2. Hậu quả pháp lý
Một trong những dấn đề được các nhà đầu tư quan tâm hiện nay là khi các sàn giao dịch tiền ảo, dự án đầu tư tiền ảo bị “sập” thì các nhà đầu tư có thể lấy lại được tiền hay không và nhóm đối tượng lôi kéo nhà đầu tư có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không?
- Giải quyết trên cơ sở pháp luật dân sự
Thông thường, các công ty hoạt động kinh doanh tiền ảo thường thiết lập các loại “Hợp đồng huy động vốn hoặc Hợp đồng hợp tác kinh doanh” để hoạt động kinh doanh Bitcoin với các nhà đầu tư. Mà như đã phân tích ở trên, việc hoạt động kinh doanh Bitcoin hoàn toàn bị cấm. Do vậy, các loại hợp đồng kinh doanh Bitcoin đều bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự. Nhà đầu tư có quyền yêu cầu giải quyết hậu quả pháp lý của các giao dịch trên theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự, tức là đòi lại tiền thông qua khởi kiện vụ án dân sự.
Tuy nhiên, cần phải xác định rõ hợp đồng của các nhà đầu tư khi tham gia ký kết có nêu cụ thể việc huy động vốn để hoạt động kinh doanh tiền ảo không; vì thực tế các công ty kinh doanh tiền ảo đều lách luật bằng cách ký các hợp đồng để “Đầu tư mua và sử dụng máy phân tích dữ liệu” và “Phân chia lợi nhuận bằng sản phẩm tạo ra từ máy phân tích dữ liệu này theo tỷ lệ… một cách rất chung chung” mà không nhắc đến tiền ảo trong hợp đồng, nhưng các bên lại ngầm hiểu với nhau rằng “Thực chất máy phân tích dữ liệu chính là máy đào tiền Bitcoin”. Trường hợp này việc đòi lại tiền là rất khó vì không có căn cứ thể hiện các bên ký hợp đồng để khai thác, kinh doanh tiền ảo một cách trái pháp luật, do đó không thể tuyên bố các hợp đồng trên là vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự.
- Giải quyết trên cơ sở quan hệ pháp luật Hình sự
Nếu các nhà đầu tư (người bị hại) có căn cứ chứng minh được (mà điều này trong thế giới ảo là vô cùng khó khăn) các cá nhân thuộc công ty kinh doanh tiền ảo đã có hành vi gian dối chiếm đoạt tiền (pháp định) của mình bằng hình thức hợp đồng hoặc hành vi phát hành, cung ứng, sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp theo quy định của pháp luật thì có quyền làm đơn tố cáo đến cơ quan Cảnh sát điều tra yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hoặc tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” cùng với yêu cầu trả lại tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp từ các bị can đã có hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp chiếm đoạt bất hợp pháp tiền hoặc tài sản của mình.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý trong trường hợp giải quyết bằng pháp luật Hình sự, vì khi tham gia đầu tư tiền ảo theo các hình thức trên, người bị hại (nhà đầu tư) cũng đã lôi kéo các nhà đầu tư thứ cấp, hưởng hoa hồng từ việc giới thiệu đó thì các các nhà đầu tư này cũng đứng trước nguy cơ là đồng phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự cùng những kẻ lạm dụng, lừa đảo đó.
IV. GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ, GIAO DỊCH TIỀN ẢO
Một là: Quán triệt, phổ biến quy định của pháp luật hiện hành về tiền ảo, trong đó cần tập trung vào địa vị pháp lý của tiền ảo cũng như những hệ lụy, rủi ro khi tham gia đầu tư, giao dịch tiền ảo; cụ thể:
- Theo các quy định hiện hành, Bitcoin (và các loại tiền ảo tương tự khác) không phải là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam. Việc sử dụng tiền ảo làm phương tiện thanh toán tại Việt Nam là hành vi vi phạm pháp luật và có thể bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Không chỉ vi phạm pháp luật, việc đầu tư, giao dịch tiền ảo còn có nhiều rủi ro về tài chính, và khi rủi ro phát sinh sẽ không được pháp luật bảo vệ.
Hai là: Nắm bắt tình hình đơn vị, phát hiện và ngăn chặn kịp thời quân nhân tham gia hoạt động đầu tư, giao dịch tiền ảo; báo cáo cơ quan có thẩm quyền để có biện pháp xử lý.
Do đây là vấn đề đang được các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu nhằm hoàn thiện khung pháp lý, do đó các cơ quan, đơn vị cần thường xuyên cập nhật để phổ biến, quán triệt cho quân nhân một cách kịp thời, đúng quy định của pháp luật.
Mặt khác, đây cũng là vấn đề không mang hiện tượng phổ biến, chỉ có một số thành phần, đối tượng tham gia; pháp luật chưa có quy định cụ thể và đầy đủ; các cơ quan có thẩm quyền cũng còn nhiều lúng túng trong xử lý hành vi đầu tư, giao dịch tiền ảo. Do đó, bài viết của Tòa án quân sự Quân khu 2 chỉ mang tính chất tham khảo, giúp cơ quan, đơn vị có một cái nhìn tổng quát nhất về tiền ảo và hoạt động đầu tư, giao dịch tiền ảo hiện nay; từ đó đề ra biện pháp phòng ngừa trong cơ quan, đơn vị mình./.
0 Nhận xét