NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
(Chuyên đề đã được rút gọn và thông qua Tổ tư vấn pháp luật Tòa án quân sự Quân khu 2)
PHẦN THỨ NHẤT
Những người phải chịu
trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Điều 392 Bộ luật hình sự thì những người phải chịu TNHS về các tội này bao
gồm:
- Quân nhân tại ngũ là công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
phục vụ trực tiếp trong Quân đội gồm: Sĩ quan, QNCN, hạ sĩ quan và binh sĩ.
- Công nhân, viên chức quốc phòng là công dân Việt Nam có trình độ chuyên
môn kỹ thuật, nghiệp vụ, được tuyển chọn, tuyển dụng vào QĐND theo vị trí làm
việc hoặc chức danh nghề nghiệp.
- Quân nhân dự bị là công dân Việt Nam trong độ tuổi
nghĩa vụ quân sự đã đăng ký phục vụ trong ngạch dự bị động viên gồm sĩ quan dự
bị, hạ sĩ quan và binh sĩ dự bị và họ chỉ phải chịu TNHS theo Chương 25 trong
thời gian tập trung huấn luyện.
- Dân
quân, tự vệ là lực
lượng vũ trang quần chúng, không thoát ly sản xuất, công tác, là một bộ phận
của lực lượng vũ trang nhân dân của nước CHXHCN Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo,
chỉ huy trực tiếp của cơ quan quân sự các cấp. Họ chỉ phải chịu TNHS theo
Chương 25 trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ
chiến đấu.
- Công
dân được trưng tập vào phục vụ trong Quân đội: Khi đất nước có nguy cơ xảy ra chiến tranh
hoặc có chiến tranh, căn cứ vào nghị quyết của UBTVQH, Chủ tịch nước ra lệnh
tổng động viên hoặc động viên cục bộ. Theo đó, có một bộ phận công dân được
trưng tập, điều động vào phục vụ trong Quân đội hoặc khi có nhu cầu chiến đấu
để bảo vệ địa phương, chủ quyền lãnh thổ mà chưa đến mức phải động viên cục bộ,
thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định trưng tập công dân vào phục vụ
trong Quân đội. Họ phải chịu TNHS với những hành vi quy định tại chương 25
trong thời gian họ được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.
PHẦN THỨ HAI
Các tội phạm cụ thể
1. Tội ra mệnh lệnh trái pháp luật (Điều
393)
- Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn ra mệnh lệnh trái pháp luật gây hậu
quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ
06 tháng đến 05 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp khác: Trong chiến đấu; Trong khu vực có chiến sự; Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; Trong tình trạng khẩn cấp; Gây hậu quả rất nghiêm
trọng thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm;
Hoặc phạm tội gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác,
thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Tội này xâm phạm đến quan hệ chỉ huy, phục tùng
trong quân đội. Theo đó người chỉ huy có quyền
ra lệnh cho chiến sỹ hoặc cấp dưới thuộc quyền quản lý trực tiếp của mình; và
người chỉ huy cấp trên của người chỉ huy trực tiếp có quyền ra lệnh cho quân
nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của chỉ huy cấp dưới nhưng phải báo cho chỉ
huy cấp dưới của mình biết là mình đã ra lệnh.
Quân nhân cấp dưới khi nhận
được mệnh lệnh của chỉ huy hoặc của cấp trên có thẩm quyền phải tuyệt đối phục
tùng trong bất cứ điều kiện nào. Tuy nhiên, việc ra mệnh lệnh phải đúng đắn và
để thực hiện nhiệm vụ công tác quân sự.
Đối tượng tác động của tội này là “mệnh lệnh” của người chỉ huy hoặc cấp
trên có thẩm quyền bắt buộc cấp dưới phải thực hiện (làm hoặc không làm một
công việc, một nhiệm vụ vụ thể). Mệnh lệnh có thể được giao cho một cá nhân,
một nhóm những người có trách nhiệm, nghĩa vụ phải thực hiện. Mệnh lệnh có thể
được thể hiện bằng lời nói, văn bản, bằng tín hiệu hoặc bằng phương tiện khác
như điện thoại, điện báo...
Người có chức vụ, quyền hạn
lợi dụng vào chức vụ, quyền hạn đó để ra mệnh lệnh trái pháp luật và do đó gây
ra hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, vũ khí, phương tiện kỹ
thuật quân sự và thiệt hại nghiêm trọng phi vật chất khác thì mới bị xử lý về
hình sự.
Hành vi ra mệnh lệnh trái pháp luật phải là nguyên nhân của hậu quả nghiêm
trọng do hành vi phạm tội gây ra; hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội gây
ra là kết quả của việc ra mệnh lệnh trái pháp luật và phải xảy ra tại thời điểm
hoặc sau khi mệnh lệnh trái pháp luật được ban hành. Tội phạm được hoàn thành
từ thời điểm gây ra một trong những hậu quả nghiêm trọng nêu trên.
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý; chủ thể của tội này là người có chức
vụ, quyền hạn trong Quân đội hoặc trong các lực lượng phối thuộc với Quân đội
trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và có thẩm quyền ban hành mệnh lệnh.
Chú ý: Theo quy định tại Điều 26 BLHS “Người
thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy
hoặc của cấp trên trong LLVTND để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã
thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh
vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu TNHS. Trong trường hợp
này người ra mệnh lệnh phải chịu TNHS”.
2. Tội chống
mệnh lệnh (Điều 394)
- Người nào từ chối chấp hành hoặc cố ý không thực hiện mệnh lệnh của người có
thẩm quyền, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp khác: Là chỉ huy hoặc sĩ quan; Lôi kéo người khác
phạm tội; Dùng vũ lực; Gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Trong chiến đấu; Trong khu vực có
chiến sự; Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; Trong tình trạng khẩn cấp; Gây hậu quả rất
nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm;
Hoặc phạm tội gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
“Mệnh lệnh” là của người chỉ huy hoặc cấp trên
có thẩm quyền bắt buộc cấp dưới phải thực hiện (làm hoặc không làm một công
việc, một nhiệm vụ cụ thể). Mệnh lệnh có thể được giao cho một cá nhân, một
nhóm những người có trách nhiệm, nghĩa vụ phải thực hiện. Mệnh lệnh có thể được
thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản, bằng tín hiệu hoặc bằng phương tiện khác
như điện thoại, điện báo...
Các hành vi thường thể hiện ra là:
+ Người nhận mệnh lệnh
công khai từ chối hoặc có hành vi khác làm cho người giao mệnh lệnh biết ngay
là mệnh lệnh của mình sẽ không được thực hiện.
+ Khi nhận được mệnh
lệnh thì cá nhân không tuyên bố là sẽ không chấp hành mệnh lệnh nhưng trong
thực tế lại không chấp hành mệnh lệnh như: Không thực hiện những hành động được
quy định trong mệnh lệnh; thực hiện những hành vi mà mệnh lệnh cấm; thực hiện
mệnh lệnh không chính xác về mặt thời gian, địa điểm hoặc tính chất của hành
động được ghi trong mệnh lệnh...
Tội phạm được thực hiện
với lỗi cố ý. Động cơ phạm tội có thể là do thù tức đối với người chỉ huy hoặc
cấp trên, động cơ cá nhân, sợ hy sinh, gian khổ... Mục đích phạm tội có thể là
nhằm để người chỉ huy không hoàn thành nhiệm vụ, bị mất uy tín, để cấp trên
thay thế người chỉ huy khác hoặc để được thay đổi nhiệm vụ, vị trí công tác...
Tội phạm được hoàn thành từ thời điểm công khai từ chối chấp hành mệnh lệnh
hoặc từ khi có hành vi cố ý không chấp hành mệnh lệnh, không phụ thuộc vào việc
đã gây ra hậu quả hay chưa.
* Chú ý:
Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi chống mệnh
lệnh phụ thuộc vào tính chất và tầm quan trọng của mệnh lệnh. Vì vậy, không
phải mọi hành vi chống mệnh lệnh của người chỉ huy đều bị truy cứu TNHS mà chỉ
những trường hợp chống lại các mệnh lệnh quan trọng (trong chiến đấu, khi thực
hiện các nhiệm vụ quan trọng, khẩn cấp như chống bão lụt, thiên tai...) mới bị
xử lý về hình sự.
Các
hành vi không chấp hành mệnh lệnh hoặc không thực hiện nhiệm vụ
khi người chỉ huy trực tiếp hoặc cấp có thẩm quyền giao mà chưa đến mức bị truy
cứu trách nhiệm hình sự thì
bị xử lý kỷ luật theo quy định tại Điều 13 “Chống mệnh lệnh” Thông tư số
16/2020/TT-BQP ngày 21/02/2020 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
3. Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh
lệnh (Điều 395)
- Người nào chấp hành mệnh lệnh của người có thẩm quyền một cách lơ là, chậm
trễ, tùy tiện gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp khác: Trong chiến đấu; Trong khu vực có
chiến sự; Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; Trong tình trạng khẩn cấp;
Gây hậu quả rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì
bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Biểu hiện hành vi của tội này là:
+ Chấp hành mệnh lệnh một cách qua loa, đại khái, cốt chỉ để gọi
là có chấp hành mệnh lệnh. Đối tượng không quan tâm tới chất lượng, hiệu quả
của việc chấp hành mệnh lệnh; chấp hành như là để đối phó với người ra lệnh và
không mang lại kết quả gì.
+ Chấp hành không đúng
thời gian quy định, thể hiện ở việc bắt đầu thực hiện mệnh lệnh chậm hơn giờ
quy định hoặc tiến trình thực hiện mệnh lệnh bị kéo dài dẫn đến việc kết thúc
nhiệm vụ chậm hơn hạn định.
+ Chấp hành không theo
các quy định được nêu trong mệnh lệnh về thời gian, phương pháp tiến hành,
không thực hiện hết những nội dung nhiệm vụ hoặc thực hiện cả những công việc
không thuộc nội dung nêu trong mệnh lệnh, thậm chí thực hiện cả những việc bị
cấm không được làm.
* Chú ý: Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
phụ thuộc vào tính chất và tầm quan trọng của mệnh lệnh. Chỉ những trường hợp
chấp hành không nghiêm các mệnh lệnh quan trọng (trong chiến đấu, khi thực hiện
các nhiệm vụ quan trọng, khẩn cấp như: chống bão lụt, thiên tai,...) mới bị xử
lý về hình sự. Tội phạm được hoàn thành từ khi gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Các hành vi chấp hành không đầy đủ, lơ là, tùy tiện, chậm trễ khi được người chỉ huy
trực tiếp hoặc cấp trên có thẩm quyền ra lệnh hoặc giao nhiệm vụ mà gây trở ngại cho việc chỉ huy, ảnh hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ của
đơn vị hoặc gây hậu quả chưa đến mức nghiêm trọng thì bị xử lý kỷ luật theo
quy định tại Điều 14 “Chấp hành không nghiêm mệnh lệnh” Thông tư số
16/2020/TT-BQP ngày 21/02/2020 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
4. Tội làm nhục đồng
đội (Điều 397)
-
Người nào trong quan
hệ công tác mà xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự đồng đội, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
-
Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp khác: Là chỉ huy hoặc sĩ quan; Đối với chỉ huy hoặc cấp trên; Vì lý do công vụ của nạn nhân; Trong khu vực có
chiến sự; Phạm tội 02 lần trở lên; Đối với 02 người trở lên; Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Làm nạn nhân tự sát
thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
Đối tượng tác động của tội phạm là đồng đội và theo quy định của Điều lệnh
quản lý bộ đội thì các quân nhân không phân biệt cấp bậc, chức vụ, cùng biên
chế hay không cùng biên chế trong cùng một đơn vị đều được coi là “đồng đội”.
Làm nhục đồng đội là hành vi:
+ Cố ý hạ thấp danh dự, nhân phẩm hoặc làm mất uy tín của đồng đội đối với
mọi người xung quanh.
+ Chửi rủa, xỉ nhục ở nơi đông người; viết tờ rơi, vẽ hình châm biếm hay những
hành động có tính chất bỉ ổi như nhổ nước bọt vào mặt, ném phân, cà chua, trứng
thối… vào người, vào phương tiện của người bị hại.
+ Các hành vi trên có thể được thực hiện công khai trước mặt người đó hoặc
vắng mặt nạn nhân nhưng người phạm tội có ý thức để cho nạn nhân biết việc lăng
nhục đó vì động cơ cá nhân.
Người thực hiện với
lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi
làm nhục đồng đội là vi phạm điều lệnh quân đội, pháp luật của Nhà nước, xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của đồng đội. Họ thấy trước hậu quả của hành vi đó là nhân
phẩm, danh dự của người bị hại bị xâm phạm và mong muốn đạt được hậu quả đó.
* Chú ý: Nếu hành vi chưa gây ra hậu quả
nghiêm trọng thì tùy thuộc vào mối quan hệ với nạn nhân, người vi phạm bị xử lý
kỷ luật theo mức tương ứng được quy định tại Điều 16. “Làm nhục, hành hung người chỉ huy
hoặc cấp trên”; Điều 17. “Làm nhục hoặc dùng nhục hình đối với cấp dưới”; Điều 18. “Làm nhục, hành hung đồng đội” Thông tư số 16/2020/TT-BQP ngày
21/02/2020 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
5. Tội
hành hung đồng đội (Điều 398)
- Người nào trong quan hệ công tác mà cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của đồng đội mà không thuộc trường hợp quy
định tại Điều 134 của Bộ luật hình sự (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe cho người khác) thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp khác: Là chỉ huy hoặc sĩ quan; Đối với chỉ huy hoặc cấp trên; Vì lý do công vụ của nạn nhân; Trong khu vực có chiến sự; Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Biểu hiện của tội này là: hành động dùng bạo lực tấn công đồng đội nhưng
chưa gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của đồng đội đến mức phải truy cứu
TNHS về tội “Cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác”
theo Điều 134 BLHS (Ví dụ: đấm, đá, đánh đập, bắt trói, giam giữ trái phép… đồng
đội). Nếu hành hung đồng đội gây ra chết người thì người phạm tội phải chịu
trách nhiệm về tội tương ứng theo quy định của BLHS.
Hành vi trên chỉ được coi là phạm tội hành hung đồng đội, khi nó được thực
hiện trong điều kiện giữa người phạm tội và người bị hại ở trong mối quan hệ
công tác (đó là quan hệ giữa các quân nhân cùng được biên chế trong một cơ
quan, đơn vị nhất định và giữa họ có người là chỉ huy hoặc cấp trên, có người
là cấp dưới). Nếu họ không cùng được biên chế trong một cơ quan, đơn vị nhất định,
thì họ phải là những người cùng thực hiện nhiệm vụ trong một thời gian nhất định.
* Chú
ý: Nếu
việc hành hung chưa đến mức nghiêm trọng thì tùy vào mối quan hệ với nạn nhân, người vi phạm bị xử lý kỷ luật theo mức tương ứng được quy định tại Điều 16. “Làm nhục, hành
hung người chỉ huy hoặc cấp trên”; Điều 18. “Làm nhục, hành hung đồng đội” Thông tư số 16/2020/TT-BQP ngày 21/02/2020
của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
5.1. Tình trạng làm nhục hoặc hành hung đối với cấp dưới
Thời gian qua, hiện tượng chỉ huy cấp trên làm
nhục hoặc hành hung cấp dưới diễn ra không ít, nhất là các đơn vị đóng quân độc
lập đã xâm phạm trực tiếp đến nhân phẩm, danh dự, thân thể chiến sĩ; xâm phạm
đến quan hệ cán - binh, làm giảm uy tín của quân đội, vai trò của chỉ huy, làm
giảm lòng tin của chiến sĩ với cán bộ; gây dư luận xấu trong và ngoài quân đội.
Thường xảy ra các trường hợp:
- Một là: Khi
cấp dưới có vi phạm, người chỉ huy không áp dụng biện pháp giáo dục mà lại có
hành vi quân phiệt, lăng nhục hoặc có hành động đầy ải, làm cho chiến sĩ bị đau
ốm cả về thể xác lẫn tinh thần.
Ví dụ: Vũ Thành N, nguyên là Thượng uý, Chính trị viên
phát hiện 11 chiến sĩ đi chơi tối về muộn đã yêu cầu họ lên nhà giao ban, bắt
xếp thành hàng ngang và vịn tay vào thành ghế, chống đẩy mỗi người một trăm
lần. Ai không chống đúng động tác phải chống lại, không chống đủ không được về.
Ngày hôm sau N còn bắt các quân nhân này đi đắp bờ ao đến quá trưa. Hậu quả,
làm quân nhân C bị nhiễm trùng nặng suy tuần hoàn, suy hô hấp dẫn đến tử vong
và N đã bị TAQS xử phạt 06 năm tù.
- Hai là: Khi đơn vị xảy ra hiện tượng
trộm cắp quân tư trang, đổ vỡ, hư hỏng tài sản... người chỉ huy đã không áp
dụng biện pháp thuyết phục hoặc điều tra, tìm kiếm mà nghi ngờ cho cấp dưới nên
đã dùng vũ lực hành hạ, tra khảo, buộc người bị tình nghi phải nhận tội. Trong
trường hợp này, việc làm của người chỉ huy thường kéo theo sự a dua của một số
chiến sĩ khác cùng tham gia.
Ví dụ: Phạm Văn Th, nguyên Đại uý, phó ban hậu cần bị
mất chăn, màn, nghi cho chiến sĩ S lấy cắp. Th đã bắt S lên đồi truy bức và chỉ
chỗ giấu. S không nhận lấy nên Th đã lột quần áo của S. Cùng tham gia với Th
còn có Thiếu uý T và Hạ sĩ M cùng đơn vị. Cả ba thay
nhau đấm đá làm S sợ phải ký vào biên bản lấy cắp. S bị đánh bầm tím phải đi
viện. Hành vi của Th bị TAQS xử phạt 12 tháng tù; M 09 tháng tù.
- Ba là: Một số chỉ huy sẵn có tính cách
gia trưởng, hay có định kiến xấu với cấp dưới nên khi cấp dưới có lời nói, việc
làm trái ý mình thì nổi máu quân phiệt, lăng nhục hành hung người dưới quyền.
Ví
dụ 1: Trần Thế K,
thiếu tá tiểu đoàn phó chính trị, khi nói chuyện qua điện thoại, K đã quát vào
máy “tao là K đây, mày có biết tao là ai không”. Khi chiến sĩ N trực máy trả
lời “không biết”, K bực tức xuống tổng đài tra hỏi và dùng mũ cứng đập vào mặt
và đấm đá N. Khi N bỏ chạy, K đã nắm chặt bộ phận sinh dục nâng lên làm N bị
ngất xỉu phải đi viện cấp cứu. Trước đó mấy ngày K đã bắt N đứng nghiêm không
cho chống đỡ và đánh nhiều cái vào ngực, bụng, trước mặt các quân nhân khác.
Hành vi của K đã bị TAQS xử lý hình sự đối với hành vi K gây ra.
Ví
dụ 2: Vụ Nguyễn Tiến
M, thiếu úy, Phó đại đội trưởng. Do Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn Đ1, Đào Xuân T,
Phùng Văn C, Hoàng Văn B, Nguyễn Thanh P, Đinh Văn Đ2 đều là quân nhân
thuộc đại đội của M đã tự ý bỏ đơn vị ra quán để uống rượu. Sau khi ăn cơm
chiều xong, do tiểu đoàn báo động nên M kiểm tra quân số thấy thiếu H, T, Đ1, Đ2. Khoảng 20h cùng
ngày thì Đ1,
T, H có mặt ở đơn vị, M yêu cầu 03 quân nhân này đứng lên phía hiên trước nhà,
trước hàng quân và hỏi: “Chúng mày đi đâu về”. Không thấy ai trả lời, M dùng
tay phải tát mạnh một cái vào mặt T làm T trượt ngã xuống sân, M lại quay sang
chỗ H dùng tay tát mạnh 01 cái vào mặt làm cho H ngã qua bậc hè và bệt mông
xuống sân. M tiếp tục dùng tay tát Đ1 và Đ1 giơ tay lên đỡ.
Sau khi bị ngã xuống sân,
T quay trở lại vị trí đứng ban đầu, H bám vào lan can bậc lên xuống hiên nhà đi
lên và ngồi ở lan can cột hiên. Sau khi tát Đ1 xong, M quay sang thì thấy H đang ngồi sát cột hiên nên M dùng hai tay nắm vào cổ áo H kéo đứng dậy vừa rung
vừa hỏi “Chúng mày uống rượu ở đâu”.
Không thấy H trả lời, M không rung tay nữa mà bỏ
tay ở cổ áo H ra quay sang hỏi Đ1 và T thì H khuỵu chân ngã nghiêng bên trái, đập
đầu bên trái xuống hiên nhà và bất tỉnh. H sau đó được đưa đi cấp cứu tại Bệnh
xá đơn vị, khi chuyển lên tuyến trên thì tử vong.
Nguyễn Tiến M đã bị TAQS
KV1 QK2 xử
phạt 36 tháng tù, cho hưởng án treo.
Ví
dụ 3: Vụ Bùi Trọng H,
nguyên là Trung úy, Phó Đại đội trưởng:
Khi xem thời sự tại sân đơn vị, chiến sĩ Và A P
đã dùng tay đấm vào mặt chiến sĩ Cà Văn K làm K chảy máu và xước cánh mũi bên
phải. K được sơ cứu và đại đội đã lập biên bản sự việc. Đến 21h15 cùng ngày, H
cho trực ban đại đội gọi 3 chiến sĩ là Và A P, Cà Văn K và Sùng A D lên phòng
của H. Tại đây, H để 3 quân nhân đứng thành hàng ngang rồi H dùng tay tát vào
má phải của 3 quân nhân mỗi người 1 cái, sau đó nhắc nhở, giáo dục 3 quân nhân
trên vì đã có hành vi vi phạm kỷ luật. Do P không nhận lỗi và tỏ thái độ lì lợm
nên H đã dùng tay phải tát liên tiếp vào mặt P 3 cái rồi cho về.
Đến sáng hôm sau, Và A P đã bỏ đi khỏi đơn vị.
Bùi Trọng H đã bị Tòa án
quân sự Khu vực 2 Quân Khu 2 xử phạt “Cảnh cáo”.
- Bốn là: Một số trường hợp khác như: Bắt
chiến sĩ đi làm kinh tế để lấy tiền; khi không có tiền nộp thì bị chỉ huy hành
hạ. Tất cả là đều vi phạm pháp luật.
5.2. Tình trạng làm nhục, hành hung đồng đội
Hiện tượng hành hung đồng đội vẫn còn xảy ra ở
nhiều nơi, nhất là ở những đơn vị có đông quân số và những địa phương có nhiều
đơn vị đóng quân. Thực tiễn xét xử của các TAQS cho thấy trong quan hệ công tác
thường ngày khi có sự bất hoà xảy ra, quân nhân đã không bình tĩnh giải quyết
mà nổi khùng chửi bới, nhục mạ nhau. Thậm chí gây gổ đánh lộn gây mất đoàn kết
nội bộ nghiêm trọng.
Ví
dụ 1: Vụ Nguyễn Thế H
- Lý Văn T: Xuất phát từ việc một số quân nhân được giao dọn nhà vệ sinh của
đơn vị, trong đó có H và T, trong quá trình vệ sinh, do thiếu dụng cụ nên T
đứng ngoài đọc báo vì thế H cho rằng T chây lười và muốn thể hiện là đàn anh
nên đã đánh và lôi kéo một số chiến sỹ tham gia đánh T. T đã dùng một chiếc đục
tràng, không có chuôi đâm Quách Gia Đ là người cùng tham gia với H đánh T khiến
Đ bị thương và tử vong ngày hôm sau trên đường chuyển lên tuyến trên để điều
trị.
Nguyễn Thế H đã bị TAQS xử
phạt 18 tháng tù về tội “Hành hung đồng đội”. Lý Văn T bị xử phạt 66 tháng tù
về tội “Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người”.
Ví dụ 2: Vụ Hoàng Văn P; nguyên là Binh
nhất, Chiến sỹ. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 06/3, Lê Kim Đ đang rửa bát tại bể
nước ở sân sau nhà ăn của đại đội thì P gọi “Đ ơi vào đây anh nhờ tý”. Đ
đi theo P vào phòng ở của tiểu đội hậu cần. Lúc này, trong phòng có Nguyễn Văn
H, Nguyễn Văn T, Trần Trung K, Lê Xuân D là chiến sỹ cùng đại đội đang ngồi ở
giường. Tại đây, P dùng hai tay đấm 06 cái vào ngực, bụng, dùng tay phải tát 03
cái vào má bên trái của Đ rồi P nói “Bây giờ mày thế nào”, Đ trả lời
“Em ngoan rồi”, P nói “Tao không nói mày hư”. P tiếp tục dùng hai
tay đấm 08 cái vào ngực, vào bụng, dùng tay trái tát 01 cái vào má bên phải và
dùng đầu gối chân phải thúc 02 cái vào bụng của Đ. Thấy vậy, K nói “thôi,
thôi” thì P dừng lại không đánh Đ nữa. Khi sự việc đó xảy ra, H đã dùng điện thoại quay lại sự việc, sau khi xuất
ngũ H đã đăng lên trang Facebook cá nhân nên đã gây tâm lý hoang mang trong dư luận xã hội. P đã bị TAQS Khu vực 1 QK2 xử phạt 09 tháng
tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Hành hung đồng đội”
Ví dụ 3: Quân nhân Nguyễn Thế H và Bàn Văn C, nguyên
là Binh nhất, Chiến sỹ. Khoảng 23 giờ ngày 31/8/2018 tại đỉnh điểm cao thuộc
Trung đoàn, các quân nhân Bàn Văn C, Lý Văn T, Nghiêm Đức V và một số quân nhân
khác đều là chiến sỹ cùng Trung đội ngồi uống rượu, sau đó giữa C và H xảy ra
mâu thuẫn và hai bên có lời qua tiếng lại. Trong lúc bực tức H đã dùng chân tay
đá, đám nhiều cái vào vùng mặt của C, làm C ngã ngửa. H tiếp dụng dùng chân đá
tiếp 03 cái vào phía sau đầu của C thì được T và V ngăn cản nên H đi về ngủ.
Còn C tiếp tục ngồi uống rượu cùng một số quân nhân khác. Lúc này, C nảy sinh ý
định ngày mai phải giết chết H để trả thù nên sau đó đã lẻn ra vị trí để cuốc
xẻng của trung đội lấy 01 cuốc bộ binh đem giấu ở dưới phản. Khoảng 07 giờ ngày
01/9/2018, khi H và mọi người đi ăn cơm về, H năm nghỉ tại phản của mình. Nhân
lúc H và mọi người không để ý, C cầm chiếc cuốc bộ binh vùng dậy, lao nhanh đến
vị trí của H, vung cuốc lên bổ một cai vào thái dương H làm phần đầu nhọn của
cuốc găm sâu vào thái dương. Khi nghe thấy tiếng “Phập”, một số quân nhân khác
ngồi cạnh đã đẩy C ra, và đưa H đi cấp cứu. Hậu quả: Nguyễn Thế H bị Bàn Văn C
bổ cuốc vào đầu tổn thương cơ thể là 37%. Bàn Văn C bị Nguyễn Thế H đánh rách da
trước hốc mũi trái, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%.
TAQS Khu vực Quân khu 2 đã xét xử xử tuyên phạt
Nguyễn Thế H 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Hành hung đồng đội”; TAQS
Quân khu 2 xét xử tuyên phạt Bàn Văn C 04 năm 6 tháng tù về tội “Giết người” (chưa
đạt).
Lưu ý: Thực tiến cho thấy, nhiều trường hợp quân nhân có hành vi hành
hung đồng đội nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi thuộc trường hợp
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đã cấu thành tội phạm khác nên phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng, cụ thể:
Ví dụ 1: Vụ Trần Đức T, Hạ sỹ, Chiến sỹ Lữ đoàn. Do
nghi ngờ quân nhân Lục Đức V thường xuyên ăn suất ăn để phần cho các đồng chí
trong ca trực, nên khoảng 22h20 ngày 20/4/2021 hai bên xảy ra mâu thuẫn. Trong
lúc hai bên lời qua tiếng lại T đã tát V một cái thì bị V đấm lại và đạp ngã
xuống nền nhà. Sau đó cả hai cùng rút cọc màn bằng kim loại để đánh nhau. Khi V
cầm cọc màn tiến đến cách T khoảng 1,3m định đánh T thì T vung cọc màn lên rồi
vụt một cái vào vùng đầu bên trái của V khiến V ngồi bệt xuống nền nhà tay ôm
đầu, còn T cầm cọc màn bỏ đi ra phía cửa chính. Khi đi qua chỗ V ngồi, thấy V
tay chống vào thành giường định nhổm dậy, T nghĩ V đứng dậy để đánh mình nên
quay lại vụt tiếp một cái vào đùi trái V thì được các quân nhân cùng phòng đến
can ngăn và báo cáo chỉ huy Trung đội. Hậu quả, quân nhân V bị trấn thương sọ
não với tỷ lệ tổn thương cơ thể 99%. TAQSKV Quân khu 2 đã xét xử tuyên phạt bị
cáo Trần Đức T 08 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
Ví dụ 2: Quân nhân Vàng Văn N; sinh ngày 10/10/2002;
nhập ngũ 03/2021 và quân nhân Bàn Tòn S; sinh ngày 20/7/1999; nhập ngũ 03/2021;
đều là Binh nhất, chiến sĩ đại đội Công binh (C17), BCHQS tỉnh Lào Cai; trong
thời gian đi thực hiện nhiệm vụ xây dựng công trình chốt dân quân tại xã Bản
Lầu, Mường Khương, Lào Cai. Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 25/01/2022 khi kiểm tra
quân số, quân nhân S đứng trong hàng nói chuyện, cười đùa, quân nhân N nhắc nhở
nên 02 quân nhân xảy ra mâu thuẫn, quân nhân S dùng thanh sắt tròn nhọn có kích
thước 60cmx0,4cm (xiên chả) đâm vào ngực quân nhân N. Đơn vị phát hiện đưa quân
nhân N đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lào Cai. Hậu quả: N bị đâm thủng
ngực, xuyên tim gan, mất máu cấp tử vong ngày 26/01/2022. Cơ quan ĐTHS Quân khu đã
ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với quân nhân Bàn Tòn S về tội
“Giết người”, tạm giam bị can S để điều tra theo quy định.
5.3. Tình trạng
làm nhục, hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên
Thực tiễn xét xử cho thấy, cấp
dưới làm nhục chỉ huy xảy ra trong các trường hợp sau:
- Chiến sĩ, cấp dưới vi phạm kỷ luật, bị chỉ
huy khiển trách, nhắc nhở hoặc áp dụng biện pháp xử lý thì bực tức phản đối kịch
liệt, có hành vi làm nhục, hành hung.
- Một số chiến sĩ, cấp dưới do
sẵn có tính cách ngỗ ngược xấc láo, không tôn trọng mọi người kể cả chỉ huy, cấp
trên, khi có những việc làm không vừa ý hoặc không nhất trí với nhiệm vụ được
giao là lập tức nổi khùng xỉ vả nhục mạ, thậm chí đánh đập.
- Có trường
hợp do sẵn lòng thù ghét chỉ huy nên khi xuất hiện mâu thuẫn tuy không gay gắt
nhưng chiến sĩ, cấp dưới đã có hành vi phạm tội rất nghiêm trọng.
Ví dụ: Nguyễn Thanh T1 là chiến sĩ đã nhiều lần có hành vi hăm dọa đồng đội, vắng mặt trái phép
bị Ban chỉ huy quân sự huyện ra lệnh phạt giam kỷ luật. Khi đồng chí Thiếu uý Phạm
Văn T2 tập hợp đọc quyết định kỷ luật thì T1 xông vào dùng chân đá vào ngực đồng chí T2 trước hàng quân. T1 đã bị TAQS xử phạt
09 tháng tù về tội “Hành hung cấp trên”.
6. Tội đào
ngũ (Điều 402)
-
Người nào rời bỏ
hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh nghĩa vụ trong thời chiến hoặc đã bị xử lý kỷ
luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
-
Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp khác: Là chỉ huy hoặc sĩ quan; Lôi kéo người khác phạm tội; Mang theo, vứt bỏ vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hoặc tài liệu bí mật quân sự; Gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Trong chiến đấu; Trong khu vực có
chiến sự; Trong khi thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; Trong tình trạng
khẩn cấp; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
Tội
đào ngũ được thể hiện bởi hành vi rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh
nghĩa vụ bằng cách tự ý rời bỏ đơn vị một cách trái phép hoặc không có mặt tại
đơn vị theo quy định, thể hiện bằng những hành vi:
+ Tự ý đi khỏi đơn vị, nơi công tác hoặc nơi điều trị,
điều dưỡng một cách trái phép.
+
Không đến đơn vị, không đến nơi công tác, nơi điều trị, điều dưỡng một cách
trái phép.
Tội
phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm bỏ đơn vị hoặc từ lúc không có mặt tại
đơn vị đúng hạn nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 402 BLHS, thì hành vi đào ngũ chỉ bị coi là phạm tội khi rời bỏ
hàng ngũ quân đội trong thời chiến hoặc
đã bị xử bị kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm
trọng. Như vậy có 03 trường hợp phạm tội đào ngũ sau đây:
+ Một là, phạm tội đào ngũ do
thực hiện hành vi rời bỏ hàng ngũ quân đội trong thời chiến. Đây là trường hợp
thực hiện hành vi rời bỏ đơn vị hoặc không có mặt ở đơn vị mới một cách trái
phép nhằm trốn tránh nghĩa vụ trong thời chiến.
+ Hai là, phạm tội đào ngũ do
đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm. Đây là trường hợp có nhiều
lần thực hiện hành vi rời bỏ đơn vị hoặc không có mặt ở đơn vị mới một cách
trái phép và có ít nhất một lần đã bị xử lý kỷ luật, chưa hết thời hạn để được
coi là chưa bị kỷ luật nay lại thực hiện hành vi rời bỏ đơn vị hoặc không có
mặt ở đơn vị mới một cách trái phép.
Ví dụ: Đã bị xử lý kỷ luật bằng
một trong các hình thức xử phạt theo quy định tại Điều 20 Thông tư số 16/2020/TT-BQP ngày 21/02/2020 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về hành vi đào ngũ và chưa hết thời
hạn một năm kể từ ngày bị xử phạt lại vi phạm tiếp.
+ Ba là, phạm tội đào ngũ do
thực hiện hành vi rời bỏ đơn vị hoặc không có mặt tại đơn vị một cách trái phép
nhằm trốn tránh nghĩa vụ gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là trường hợp thực hiện
hành vi đào ngũ gây ra thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khoẻ, tài sản,
vũ khí, phương tiện kỹ thuật hoặc thiệt hại nghiêm trọng phi vật chất khác.
Tội
đào ngũ được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được
hành vi đào ngũ do mình gây ra là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy
hại xảy ra nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
Mục
đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ tức là không tiếp tục thực hiện nhiệm vụ trong
Quân đội. Do vậy, mục đích của người thực hiện hành vi đào ngũ khác với mục
đích của người thực hiện hành vi vắng mặt trái phép. Theo đó, đào ngũ là hành
vi tự ý rời bỏ đơn vị hoặc không có mặt tại đơn vị nhưng với mục đích trốn
tránh nghĩa vụ phục vụ trong Quân đội nên họ không quay trở lại đơn vị, trừ
trường hợp bị bắt trở lại. Còn vắng mặt trái phép tuy cũng là hành vi tự ý rời
bỏ đơn vị hoặc không có mặt tại đơn vị một cách trái phép nhưng không nhằm mục
đích trốn tránh nghĩa vụ phục vụ trong quân đội nên họ sẽ tự giác quay trở lại
đơn vị sau một thời gian nhất định.
Nếu quân nhân rời bỏ đơn vị nhằm trốn tránh nghĩa vụ quân sự; đã bị xử
lý hành chính nhưng sau đó vẫn bỏ đơn vị và trong thời gian đó lại phạm tội
khác nữa thì có thể bị truy cứu TNHS về tội đào ngũ và tội phạm mới đã thực
hiện.
Ví dụ 1: Chiến sĩ Nguyễn Văn T trong thời gian 07
tháng đã 10 lần vi phạm kỷ luật quân đội, tự ý bỏ đơn vị và đào ngũ. Các đơn vị
đã xử lý kỷ luật 03 lần T bằng hình thức cảnh cáo trước đại đội và tiểu đoàn về
hành vi đào ngũ nhưng sau đó T vẫn tiếp tục rời bỏ đơn vị về nhà và không có ý
định quay trở lại đơn vị với mục đích trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Đơn vị đã cử
cán bộ về địa phương thuyết phục, động viên nhưng T kiên quyết không trở lại
đơn vị. Trong thời gian đào ngũ, T đã
trộm cắp 01 xe mô tô đem đi cầm cố lấy tiền tiêu sài. T đã bị TAQS Khu vực 2
Quân khu 2 xử phạt 21 tháng tù về tội “Đào ngũ” và 09 tháng tù về tội “Trộm cắp
tài sản”.
Ví dụ 2: Chiến sĩ Vũ Đình D tự ý bỏ đơn vị về địa phương; gia đình
đã động viên trở lại đơn vị nhưng D không nghe mà bỏ đi học sửa chữa xe máy.
Ban CHQS huyện đã nhiều lần phát lệnh gọi tập trung cải tạo lao động nhưng D
đều không chấp hành mà còn đến nhà anh B lấy trộm 01 máy tính xách tay; sau đó
bị bắt trên đường mang đi bán. Trong thời giam tạm giam, D đã trốn trại và bị
bắt lại theo quyết định truy nã. Toà án quân sự đã xử D về 3 tội: Tội đào ngũ;
trộm cắp tài sản và tội trốn khỏi nơi giam.
* Chú
ý: Nếu
hành tự ý rời khỏi đơn vị chưa đủ dấu hiệu để truy cứu TNHS về tội “Đào ngũ”
thì tùy mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy định tại Điều 20. “Đào ngũ” Thông tư số
16/2020/TT-BQP ngày 21/02/2020 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
7. Tội trốn tránh nhiệm vụ (Điều 403)
- Người nào tự gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe
của mình hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác để trốn tránh nhiệm vụ, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp khác: Là chỉ huy hoặc sĩ quan; Lôi kéo người khác phạm tội; Trong thời chiến; Trong khi thực hiện nhiệm
vụ cứu hộ, cứu nạn; Trong tình trạng khẩn cấp; Gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị
phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Tội phạm này được thể hiện ở các hành
vi:
+ Cố ý tạo ra cho mình những thương tích để
trốn tránh nhiệm vụ như dùng dao chặt chân, tay, tháo khớp ngón tay...Hành vi
gây thương tích ở đây giống như hành vi gây thương tích quy định tại Điều 134
BLHS nhưng khác là ở tội này thì thương tích là do người phạm tội tự gây ra cho
mình, còn ở tội Cố ý gây thương tích thì thương tích là do người phạm tội gây
ra cho người khác.
+ Cố ý tạo ra sự tổn hại cho sức khoẻ, làm
giảm sức khoẻ của mình như nhịn ăn, ăn đói, uống hoá chất.... khiến cho sức
khoẻ của mình bị giảm sứt để không phải làm nhiệm vụ. Tội phạm hoàn thành từ
thời điểm tự gây tổn hại cho sưc khoẻ cửa mình với mục đích muốn tránh nhiệm
vụ.
+ Trốn tránh việc thực hiện nhiệm vụ bằng
cách tạo ra những lý do không có thật như giả vờ ốm, đau, bệnh tật; giả mạo
giấy tờ để báo cáo với người chỉ huy về những nội dung không có thật (giấy khám
bệnh ghi có bệnh nhưng thực chất người phạm tội không có bệnh)... nhằm mục đích
không phải thực hiên nhiệm vụ...
Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi gây
thương tích, gây tổn hại cho sức khoẻ của mình hoặc tạo ra các lý do không có
thật để trốn tránh nhiệm vụ.
Ví dụ: Chiến sĩ Nguyễn Tấn P được tiểu đoàn cho nghỉ 3 ngày để về thăm gia đình.
P đã lên đơn vị chậm nên bị trung đội phạt với hình thức lao động ngoài giờ là
chặt cây bạch đàn tại đơn vị. Trong khi lao động, P nảy sinh ý định tự chặt đứt
ngón tay bóp cò súng của mình để được đơn vị giải quyết cho xuất ngũ sớm, khỏi
phải làm nghĩa vụ quân sự nên P đã dùng dao chặt đứt 1/2 ngón tay trỏ của bàn
tay phải. Sau đó, P đã bị TAQS xử phạt 18 tháng tù về tội “Trốn tránh nhiệm
vụ”.
Tuy nhiên, hành vi trốn tránh nhiệm vụ xảy ra phải gây hậu quả nghiêm trọng
mới bị truy tố, xét xử về hình sự. Nếu hậu quả xảy ra chưa nghiêm trọng thì đối
tượng bị xử lý kỷ luật theo quy định tại Điều 21 “Trốn tránh nhiệm vụ” Thông tư
số Thông tư số 16/2020/TT-BQP ngày 21/02/2020 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
8. Tội cố ý làm
lộ bí mật công tác quân sự (Điều 404)
-
Người nào cố ý làm
lộ bí mật công tác quân sự, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định
tại các điều 110, 337 và 361 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05
năm.
-
Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp khác: Là chỉ huy hoặc sĩ quan; Trong khu vực có chiến sự; Trong chiến đấu; Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì
bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Đối tượng tác động của tội này là bí mật công tác quân sự; đó là những thông tin về vụ việc, tài liệu, địa điểm, vật, lời nói…. có
nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực quốc phòng mà chưa được cấp có thẩm quyền
công bố hoặc không công bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho công tác quân
sự quốc phòng.
Hành vi phạm tội cụ thể là: Có hành vi làm cho người khác biết về những bí
mật công tác quân sự như: Nói, giới thiệu, cho người khác ghi
chép, sao chụp...các nội dung thuộc bí mật quân sự hoặc không hành động (tức là không thực hiện các quy định về bảo quản,
giữ gìn, cất giữ...) với mục đích để cho người khác biết các nội dung thuộc bí
mật quân sự. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm khi người thứ hai không có trách
nhiệm biết được các nội dung bí mật công tác quân sự.
Người phạm tội nhận thức được hành
vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và có ý thức thực hiện hành vi đó. Động cơ
phạm tội là vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác.
Chú ý: Phân biệt giữa các hành vi cố ý làm lộ bí
mật công tác quân sự với các hành vi cố ý làm lộ bí mật khác:
+ Nếu đối
tượng tác động của tội phạm là bí mật nhà nước, thì hành vi cố ý làm lộ bí mật
đó cấu thành tội “Cố ý làm lộ bí mật nhà nước” (Điều 337 BLHS); nếu đối tượng
tác động của tội phạm là bí mật công tác (không phải là bí mật công tác quân
sự), thì hành vi đó cấu thành tội “Cố ý làm lộ bí mật công tác” (Điều 361
BLHS).
+ Trường hợp người thực hiện hành vi cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự có
mục đích chống nước CHXHCN Việt Nam thì hành vi đó cấu thành tội “Gián điệp”
(Điều 110 BLHS).
Ngoài ra, về tội “cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự”,
đề nghị các đồng chí lưu ý:
Điều 5 Thông tư số 56/2020/TT-BQP ngày 05/5/2020 của Bộ Quốc
phòng và Quyết định 1019/QĐ-BTL ngày 30/7/2020 của Bộ Tư lệnh Quân khu về ban
hành Quy chế quản lý và đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng trong Quân khu quy định 08 hành vi bị nghiêm cấm như sau: 1)
Đư trang bị công nghệ thông tin chưa được cơ quan chức năng kiểm tra an toàn
thông tin, an ninh mạng vào sử dụng; sử dụng máy tính internet, máy tính cá
nhân hược thiết bị di động thông minh có kết nối internet để tạo lập, xử lý và
lư trũ tài liệu điện tử quân sự có nội dung không được, hoặc chưa được phép phổ
biến; 2) Trao đổi thông tin mật
trên mạng mà không có giải pháp bảo mật cơ yếu; 3) Sử dụng vật mang tin điện tử không có giải pháp bảo đảm an toàn thông
tin an ninh mạng để trao đổi thông tin,
dữ liệu giữa máy tính quân sự và máy tính Internet; sử dụng thiết bị lưu trữ cá
nhân để lưu trữ, trao đổi thông tin, dữ liệu, tài liệu điện tử quân sự; 4) Kết nối, truy nhập vào mạng máy tính quân sự bằng giải pháp kết nối không
dây không có biện
pháp đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng phù hợp và chưa được Bộ Tư lệnh 86
thẩm định, cho phép; 5) Kết nối mạng máy tính
quân sự với mạng Internet; 6) Cố
ý làm mất an toàn thông tin, an ninh mạng của cơ quan, đơn vị và cá nhân khác; 7) Sử dụng mạng xã hội
thực hiện việc bình luận, đăng tải hoặc phát tán dưới mọi hình thức các thông
tin trái quan điểm, đường lối của Đảng; thông tin liên quan đến bí mật Nhà
nước, Quân đội và đơn vị; thông tin có nội dung xuyên tạc, bịa đặt, xúc phạm
danh dự cá nhân, uy tín tổ chức; thông tin kích động bạo lực, đồi trụy, mê tín
dị đoan; tạo lập hoặc tham gia các diễn đàn, nhóm liên quan đến tội phạm, các
tổ chức phản động, chống đối chính trị
và các vi phạm pháp luật khác; 8) Thực hiện hành vi vi phạm pháp luật có liên quan đến an toàn thông tin, an ninh mạng.
9. Tội
chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác quân sự (Điều 405)
- Người nào chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác quân
sự, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điều 110, 337 và
361 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp khác: Là chỉ huy hoặc sĩ quan; Trong khu vực có chiến sự; Trong chiến đấu; Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Đối tượng tác động của tội này là tài liệu bí mật công tác quân sự đó là
tài liệu chứa đựng những thông tin bí mật về công tác quân sự, có thể là những
bài viết, phim ảnh, băng ghi âm, ghi hình, điện báo... là bản chính hoặc bản
nháp…
Hành vi của tội này thường được thể hiện là:
+ Chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác quân sự bao gồm
các hành vi cướp, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, tham ô, trộm
cắp, lừa đảo chiếm đoạt, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt và chiếm giữ trái phép
tài liệu bí mật công tác quân sự.
+ Mua
bán tài liệu bí mật công tác quân sự là hành vi mua đi bán lại tài liệu bí mật
công tác quân sự, hoặc chỉ có một trong hai hành vi mua hoặc bán hoặc dùng vật
chất, lợi ích vật chất khác để trao đổi tài liệu bí mật công tác quân sự.
+ Tiêu
hủy tài liệu bí mật công tác quân sự là hành vi làm hư hỏng như xé nát, đốt
hoặc dùng hoá chất... làm cho tài liệu mất hẳn nội dung không thể khôi phục lại
được hoặc khôi phục rất khó khăn. Hậu quả của hành vỉ tiêu hủy là làm mất giá
trị sử dụng của tài liệu bí mật công tác quân sự.
Tội này được thực hiện do lỗi cố ý. Mục đích phạm tội không phải là dấu
hiệu bắt buộc của tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật công tác
quân sự nhưng cần phân biệt:
+ Nếu đối tượng tác động của tội phạm là tài liệu bí mật nhà nước, thì hành
vi chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật đó cấu thành tội “Chiếm
đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước” (Điều 337 BLHS);
Nếu đối tượng tác động của tội phạm là bí mật công tác (không phải là bí
mật công tác quân sự), thì hành vi chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu
bí mật đó cấu thành tội “Chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công
tác” (Điều 361 BLHS).
+ Nếu người thực hiện hành vi chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí
mật công tác quân sự có mục đích chống nước CHXHCN Việt Nam, thì hành vi đó cấu
thành tội “Gián điệp” (Điều 110 BLHS).
10. Tội vi
phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện (Điều 411)
-
Người nào không chấp
hành nghiêm chỉnh những quy định bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong
huấn luyện gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
-
Phạm tội gây hậu quả
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10
năm.
Tội này thường biểu hiện ở hành vi: Không chấp hành nghiêm
chỉnh những quy định cụ thể về thao tác, sử dụng vũ khí, khí tài, phương tiện
kỹ thuật được quy định trong điều lệnh quân đội hoặc trong các văn bản khác đối
với từng loại vũ khí, khí tài, phương tiện kỹ thật quân sự.
Hậu quả do hành vi không chấp hành nghiêm chỉnh
những quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện là yếu
tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này, bao gồm thiệt hại nghiêm trọng về tính
mạng, sức khoẻ, tài sản, vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự hoặc thiệt hại
phi vật chất khác.
Nếu hành vi của đối tượng chưa gây hậu quả nghiêm
trọng thì bị xử lý kỷ luật theo quy định tại Điều 26 “Vi phạm các quy định về
bảo đảm an toàn” Thông
tư số 16/2020/TT-BQP ngày 21/02/2020 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
11. Tội vi
phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự (Điều 412)
- Người nào vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật
quân sự gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp khác: Trong chiến đấu; Trong khu vực có chiến sự; Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Đối tượng tác động của tội phạm là vũ khí quân dụng, trang bị kỹ
thuật quân sự. Trong đó:
+ Vũ khí quân dụng là vũ khí được chế tạo, sản xuất bảo đảm tiêu
chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, được trang bị cho lực lượng
vũ trang nhân dân và các lực lượng khác theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng
vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ để thi hành công vụ, bao gồm: Súng ngắn,
súng trường, súng (tiểu liên, trung liên, đại liên, cối, ĐKZ, súng máy phòng
không, tên lửa chống tăng cá nhân, súng chống tăng, súng phóng lựu)… máy bay
chiến đấu, trực thăng vũ trang, xe tăng, xe thiết giáp, tàu chiến, tàu ngầm,
pháo mặt đất, pháo phòng không, tên lửa…bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thủy lôi;
đạn….
+ Trang bị kỹ thuật quân sự là những phương tiện vật chất được
giao cho Quân đội, dân quân tự vệ quản lý và khai thác để chiến đấu, bảo đảm
chiến đấu, huấn luyện quân sự; bao gồm vũ khí và trang bị kỹ thuật khác.
Hành vi của người được trang bị vũ khí quân dụng, trang bị kỹ
thuật quân sự nhưng sử dụng không đúng mục đích trang bị gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đó là hành vi phát huy tính năng, tác dụng của vũ khí quân dụng,
trang bị kỹ thuật quân sự không đúng với quy định về việc sử dụng vũ khí quân
dụng, trang bị kỹ thuật quân sự như: săn thú, bắn cá, dùng lựu đạn đi đánh cá...dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khoẻ, tài sản,
vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hoặc thiệt hại phi vật chất thì bị xử lý hình
sự về tội này. Tội phạm được hoàn thành từ thời điểm gây ra hậu quả nghiêm
trọng.
Nếu hành vi của đối
tượng chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử lý kỷ luật theo quy định tại Điều
27 “Vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị
kỹ thuật quân sự” Thông tư số 16/2020/TT-BQP ngày 21/02/2020 của
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Nếu hành vi không nhằm
phát huy, khai thác tính năng của vũ khí (như: Vì tò mò, nghịch,... mà bóp cò
súng vì cho rằng súng không có đạn) mà gây hậu quả nghiêm trọng (gây thương
tích, chết người, thiệt hại tài sản,...) thì bị truy cứu TNHS về tội vô ý tương
ứng (vô ý gây thương tích, vô ý làm chết người...).
Chú ý:
* Theo quy định tại Điều 22 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ thì nguyên tắc sử
dụng vũ khí quân dụng là:
- Khi thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, việc
sử dụng vũ khí quân dụng thực hiện theo quy định của pháp luật về quốc phòng.
- Khi thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
việc sử dụng vũ khí quân dụng phải tuân theo nguyên tắc sau đây: a) Phải căn cứ
vào tình huống, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà đối tượng thực hiện
để quyết định việc sử dụng vũ khí quân dụng; b) Chỉ sử dụng vũ khí quân dụng
khi không còn biện pháp nào khác để ngăn chặn hành vi của đối tượng và sau khi
đã cảnh báo mà đối tượng không tuân theo. Nếu việc sử dụng vũ khí quân dụng
không kịp thời sẽ đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của người
thi hành công vụ, người khác hoặc có thể gây ra những hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng khác thì được sử dụng ngay; c) Không sử dụng vũ khí quân dụng khi
biết rõ đối tượng là phụ nữ, người khuyết tật, trẻ em, người cao tuổi, trừ trường
hợp những người này sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc chống trả, đe dọa
tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác; d) Trong mọi
trường hợp, người sử dụng vũ khí quân dụng phải hạn chế thiệt hại do việc sử dụng
vũ khí quân dụng gây ra.
- Khi thực hiện nhiệm vụ độc lập, việc sử dụng vũ khí quân dụng
phải tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều này, Điều 23 của Luật này và quy định
khác của pháp luật có liên quan. Khi thực hiện nhiệm vụ có tổ chức, việc sử dụng
vũ khí quân dụng phải tuân theo mệnh lệnh của người có thẩm quyền. Người ra mệnh
lệnh phải tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều này, Điều 23 của Luật này, quy định
khác của pháp luật có liên quan và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
- Người được giao sử dụng vũ khí quân dụng
không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại khi việc sử dụng vũ khí quân dụng
đã tuân thủ quy định tại khoản 3 Điều này; trường hợp sử dụng vũ khí quân dụng
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, gây thiệt hại rõ ràng vượt quá yêu cầu của
tình thế cấp thiết, lợi dụng hoặc lạm dụng việc sử dụng vũ khí quân dụng để xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
* Điều 23 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ
quy định các trường hợp nổ súng quân dụng khi thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an
ninh, trật tự:
- Người thi hành nhiệm vụ độc lập phải cảnh báo bằng hành
động, mệnh lệnh lời nói hoặc bắn chỉ thiên trước khi nổ súng vào đối tượng
trong trường hợp sau đây: a) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ lực
hoặc công cụ, phương tiện khác tấn công hoặc chống trả đe dọa tính mạng, sức
khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác; b) Đối tượng đang sử dụng vũ
khí, vật liệu nổ, vũ lực hoặc công cụ, phương tiện khác gây rối trật tự công
cộng đe dọa tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác; c) Người đang bị truy
nã, bị bắt, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam, người
đang bị áp giải, xét xử hoặc chấp hành hình phạt tù đang chống trả, đe dọa tính
mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác; đối tượng đang đánh
tháo người bị dẫn giải, người bị giam, giữ, áp giải do phạm tội nghiêm trọng,
phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm;
d) Khi biết rõ đối tượng đang thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng, phạm tội
rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; đ) Được nổ súng vào phương
tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông đường thủy nội địa,
trừ phương tiện giao thông của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự
nước ngoài, cơ quan đại diện tổ chức quốc tế để dừng phương tiện đó trong
trường hợp đối tượng điều khiển phương tiện đó tấn công hoặc đe dọa trực tiếp
đến tính mạng người thi hành công vụ hoặc người khác; khi biết rõ phương tiện
do đối tượng phạm tội điều khiển cố tình chạy trốn, trừ trường hợp trên phương
tiện có chở người hoặc có con tin; khi biết rõ trên phương tiện chở đối tượng
phạm tội hoặc vũ khí, vật liệu nổ trái phép, tài liệu phản động, bí mật nhà
nước, ma túy, bảo vật quốc gia cố tình chạy trốn, trừ trường hợp trên phương
tiện có chở người hoặc có con tin.
- Người thi hành nhiệm vụ độc lập được nổ súng vào đối
tượng không cần cảnh báo trong trường hợp sau đây: a) Đối tượng đang sử dụng vũ
khí, vật liệu nổ trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội khủng bố, giết người, bắt
cóc con tin hoặc đang trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt
giữ khi vừa thực hiện xong hành vi phạm tội đó; b) Đối tượng sản xuất, mua bán,
tàng trữ, vận chuyển hoặc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trực tiếp sử
dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ; c) Đối tượng đang sử dụng vũ
khí, vật liệu nổ tấn công hoặc uy hiếp trực tiếp đến an toàn của đối tượng cảnh
vệ, công trình quan trọng về an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng được bảo vệ
theo quy định của pháp luật; d) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ
lực đe dọa trực tiếp đến tính mạng của người thi hành công vụ hoặc người khác;
đ) Đối tượng đang trực tiếp thực hiện hành vi cướp súng của người thi hành
công vụ; e) Được nổ súng vào động vật đang đe dọa trực tiếp đến tính mạng và
sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác.
* Theo quy định
tại Điều 14 Nghị định số 208/2013/NĐ-CP (17/12/2013) của Chính Phủ quy định các
biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ
thì các
biện pháp ngăn chặn hành việc chống người thi hành công vụ như sau:
- Giải thích cho người có hành vi vi phạm biết rõ là họ đã
vi phạm pháp luật và yêu cầu chấm dứt ngay hành vi vi phạm đó. Yêu cầu người vi
phạm xuất trình chứng minh nhân dân và các giấy tờ cần thiết khác để kiểm tra.
- Cưỡng chế người có hành vi vi phạm pháp luật chấm dứt
hành vi vi phạm và chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của người thi hành công vụ.
- Bắt giữ người có hành
vi chống người thi hành công vụ; khám người, phương tiện vi phạm; tước bỏ, vô
hiệu hóa hung khí, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
Trình tự, thủ tục bắt giữ, khám xét người có hành vi chống
người thi hành công vụ, khám phương tiện vi phạm được thực hiện theo quy định của
pháp luật.
- Trường hợp tập trung đông người chống người thi hành
công vụ thì tiến hành các biện pháp vận động, thuyết phục đối tượng chấm dứt
hành vi vi phạm; trường hợp cần thiết phải tiến hành các biện pháp cưỡng chế
theo quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự công cộng nhằm giải tán đám đông;
ngăn chặn, bao vây, khống chế, cô lập, bắt giữ đối tượng cầm đầu, tổ chức, xúi
giục.
- Trong trường hợp cần thiết, cấp bách hoặc người có hành
vi chống người thi hành công vụ sử dụng vũ khí quân dụng hoặc vũ khí thô sơ tấn
công người thi hành công vụ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm và từng trường
hợp cụ thể, người thi hành công vụ được sử dụng vũ lực, công cụ hỗ trợ và các
phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hoặc nổ súng để phòng vệ chính đáng, tấn
công, khống chế, bắt giữ người có hành vi chống người thi hành công vụ. Việc nổ
súng trong khi thi hành nhiệm vụ được thực hiện theo quy định tại Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và
các quy định khác của pháp luật có liên quan.
12. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, trang
bị kỹ thuật quân sự (Điều 413)
- Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật
quân sự, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 114 và Điều
303 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp khác: Trong chiến đấu; Trong khu vực có chiến sự; Lôi kéo người khác phạm tội; Gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm; Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Hủy hoại vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự là hành vi làm mất
hoàn toàn giá trị sử dụng của vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự và
không thể khôi phục lại được giá trị sử dụng của các đối tượng đó. Hình thức
hủy hoại có thể là đập phá, đốt cháy, dùng hoá chất, vứt bỏ xuống nước...
Cố ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự là hành vi làm
mất một phần giá trị sử dụng của vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự và
có thể khôi phục lại được giá trị sử dụng của các đối tượng đó.
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý và hoàn thành từ thời điểm có thiệt hại
xảy ra. Tuy nhiên cần chú ý là:
+ Nếu
đối tượng bị hủy hoại là cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước CHXHCN Việt Nam
trong các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học - kỹ
thuật, văn hóa, xã hội và mục đích của việc hủy hoại là nhằm chống chính quyền
nhân dân, thì hành vi đó cấu thành tội “Phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của
nước CHXHCN Việt Nam (Điều 114 BLHS).
+ Nếu
đối tượng bị hủy hoại là công trình, cơ sở, phương tiện giao thông vận tải,
thông tin - liên lạc, công trình điện lực, dẫn chất đốt, công trình thủy lợi
hoặc công trình quan trọng khác về quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học - kỹ thuật,
văn hóa và xã hội và không nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân thì hành vi
đó cấu thành tội “Phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh
quốc gia” (Điều 303 BLHS).
13. Tội làm mất hoặc vô ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng,
phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 414)
-
Người nào được giao
quản lý, được trang bị vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mà làm
mất hoặc vô ý làm hư hỏng gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
-
Phạm tội gây hậu quả
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07
năm.
Hành vi của tội này thường là:
+ Vi phạm
các quy định về bảo quản, giữ gìn, sửa chữa, vận chuyển vũ khí quân dụng,
phương tiện kỹ thuật quân sự làm cho chúng thoát ly khỏi sự quản lý của đơn vị
hoặc người được giao quản lý, sử dụng.
+ Vô ý để
làm cho vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự bị hư hỏng, mất một phần bộ phận cấu
tạo và nếu muốn sử dụng thì phải sửa chữa khắc phục.
Các hành vi
trên phải gây hậu quả nghiêm trọng. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự bị mất hoặc bị hư hỏng.
Nếu hành vi chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử lý
kỷ luật theo quy định tại Điều 28 “Vô ý làm mất hoặc làm hư hỏng vũ khí quân
dụng, trang bị kỹ thuật quân sự” Thông tư số
16/2020/TT-BQP ngày 21/02/2020 của Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng
Ví dụ: Vụ Đỗ Thế H, Trung úy QNCN - Thủ kho quân khí 01 Ban CHQS thành phố.
Khi Đoàn kiểm tra của Quân khu tiến hành kiểm tra toàn diện đơn vị thì phát
hiện 06 khẩu súng ngắn (04 khẩu K54 + 02 khẩu K59) để trong két sắt trong kho
súng đã bị mất. Chỉ huy đơn vị yêu cầu H báo cáo nhưng H không làm rõ được nguyên nhân và không biết mất từ bao giờ. Trong thời
gian điều tra, thì một số cán bộ chiến sĩ của đơn vị phát hiện thấy 02 khẩu
súng ngắn K54 được để tại luống rau ở vườn của đơn vị- sau này xác định là 02
khẩu súng ngắn của đơn bị bị mất.
Quá trình thực hiện chức trách nhiệm vụ, H đã thực hiện không đầy đủ các
quy định về quản lý vũ khí, đạn. Không kiểm tra nắm chắc số lượng vũ khí trang
bị trong kho thường xuyên. Do vậy không phát hiện được súng bị mất vào thời
gian nào. Không ghi chép đầy đủ vào sổ theo dõi người ra, vào kho; chìa khóa
kho và chìa khóa tủ súng để không đúng quy định, cuối giờ làm việc không để vào
trong cặp số để gửi bảo mật đơn vị; khi bàn giao cho người khác không cụ thể số
lượng bằng văn bản mà chỉ giao chìa khóa gián tiếp cho người được bàn giao.
TAQS Khu vực 2 đã xử phạt H 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội "Làm mất vũ khí quân dụng" và bị cáo đã tự nguyện bồi thường giá
trị 04 khẩu súng bị mất là hơn 13 triệu đồng.
PHẦN THỨ BA
Một
số biện pháp đấu tranh phòng, chống tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân
1. Quán triệt và tổ chức thực
hiện nghiêm túc các quy định của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, Quân khu trong
việc quản lý, giáo dục và bảo đảm các chế độ đối với quân nhân như: Chỉ thị số
12/CT-TTg ngày 25/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường phòng ngừa, đâu
tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động “tín dụng đen”;
Chỉ thị số 103/CT-BQP ngày 28/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về tiếp tục
tăng cường quản lý, giáo dục chấp hành kỷ luật và bảo đảm an toàn trong Quân
đội nhân dân Việt Nam; Chỉ thị số 53-CT/ĐU ngày 16/5/2018 của Ban Thường vụ
Đảng ủy Quân khu về nâng cao trách nhiệm của cán bộ chủ trì các cấp trong LLVT
Quân khu; Chỉ thị số 37-CT/ĐU ngày 06/11/2021 của Ban Thường vụ Đảng ủy Quân
khu về việc tăng cường lãnh đạo, quản lý, duy trì chấp hành kỷ luật trong LLVTQK;
Hướng dẫn số 2755/HD-CCT ngày 09/11/2021 của Cục Chính trị Hướng dẫn thực hiện
Chỉ thị số 37-CT/ĐU ngày 06/11/2021 của Ban Thường vụ Đảng ủy Quân khu để tạo
sự đồng thuận, thống nhất cao trong nhận thức và hành động.
2. Xây dựng mối quan hệ bình
đẳng, đoàn kết trong tập thể quân nhân; quan hệ cấp trên với cấp dưới,
cán bộ và chiến sĩ, giữa các quân nhân với nhau. Giải quyết đúng đắn các mối
quan hệ trên tinh thần đồng chí đồng đội, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau cùng hoàn
thành nhiệm vụ. Khi phát sinh mâu thuẫn phải bình tĩnh, báo cáo tập thể và chỉ
huy đơn vị để tìm phương pháp giải quyết phù hợp theo quy định của Điều lệnh và
pháp luật.
Nêu cao tinh thần
phê và tự phê bình, kiên quyết đấu tranh
chống hành vi sai trái xâm phạm tình đoàn kết. Đồng thời, thông qua hoạt
động thực tiễn trong huấn luyện, chiến đấu, lao động sản xuất và sinh hoạt để
xây dựng mối quan hệ, tình đoàn kết giữa các quân nhân với nhau.
3. Tăng cường công tác tổ chức, quản lý quân nhân theo đúng quy định của
Điều lệnh quân đội. Tích cực tổ chức cho quân nhân học tập kiến thức pháp luật
để xây dựng ý thức sống, hành xử và làm việc theo đúng Điều lệnh và pháp luật;
áp dụng các biện pháp giáo dục khéo léo, phù hợp với đặc điểm của từng đối
tượng chiến sĩ. Duy trì nghiêm các chế độ, điều lệnh, điều lệ, tăng cường kiểm
tra, giám sát các hoạt động của đơn vị; quản lý chặt chẽ bộ đội, nhất là các
ngày nghỉ, giờ nghỉ.
4. Tổ chức quán
triệt và thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước, của quân đội về quản
lý, sử dụng, bảo vệ vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự, vật liệu nổ. Thường
xuyên kiểm kê, kiểm tra, giám sát vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự, vật
liệu nổ theo định kỳ. Kiện toàn hệ thống kho tàng, canh gác…đáp ứng yêu cầu
chuyên môn, bảo đảm tốt cho việc quản lý, sử dụng, bảo vệ và khai thác phương
tiện kỹ thuật quân sự, vật liệu nổ.
5. Phát huy vai trò
nêu gương của cán bộ, đảng viên trong việc tự giác chấp hành nghiêm Điều lệnh,
pháp luật; phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm mà không bao che, giấu giếm
đồng thời tích cực phát hiện và biểu dương, nhân rộng điển hình tiên tiến trong
việc chấp hành kỷ luật, pháp luật ở mỗi đơn vị. Khi có vụ việc xảy ra, đơn vị
cần khẩn trương phối hợp với cơ quan bảo vệ pháp luật để điều tra, truy tố và
xét xử kịp thời./.
HƯỚNG DẪN THẢO LUẬN, ÔN
TẬP VÀ HOẠT ĐỘNG BỔ TRỢ
A. HƯỚNG DẪN THẢO LUẬN
I. NỘI
DUNG
Câu 1. Đồng chí cho biết những đối tượng nào khi có hành vi vi
phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân được quy định tại Chương XXV của Bộ
luật Hình thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Chương này?
Câu 2. Đồng chí cho biết các dấu hiệu của hành vi “Đào ngũ” và bị
xử lý hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự?
Câu 3.
Đồng chí cho biết các dấu hiệu của hành vi “Hành hung đồng đội” và bị xử lý hình
sự quy định của Bộ luật Hình sự
II. PHƯƠNG PHÁP: Đối thoại trực tiếp hoặc thông qua kiểm tra
thu hoạch do Ban tổ chức lớp học tổ chức.
III. THỜI GIAN: 20 phút.
IV. ĐỊA ĐIỂM: tại các cơ quan, đơn vị.
V. PHỤ TRÁCH: Giáo viên lớp học.
VI. TÀI LIỆU:
- Bộ luật Hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Luật quản lý, sử dụng
vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ
- Chỉ thị số 91/CT-BQP ngày
22/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc tăng cường quản lý, giáo dục và
chấp hành kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Thông tư 16/2020/TT-BQP ngày 21/02/2020 của
Bộ Quốc phòng quy định việc áp dụng các hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục,
thời hiệu, thời hạn và thẩm quyền xử lý kỷ luật trong Bộ Quốc phòng.
- Thông tư số
56/2020/TT-BQP ngày 05/5/2020 của Bộ Quốc phòng quy định về bảo đảm an toàn
thông tin, an ninh mạng trong Bộ Quốc phòng; Quyết định 1019/QĐ-BTL ngày
30/7/2020 của Bộ Tư lệnh Quân khu về ban hành Quy chế quản lý và đảm bảo an
toàn thông tin, an ninh mạng trong Quân khu.
- Chỉ thị số 37-CT/ĐU ngày 06/11/2021 của Ban Thường vụ
Đảng ủy Quân khu về việc tăng cường lãnh đạo, quản lý, duy trì chấp hành kỷ
luật trong LLVTQK....
B. HOẠT ĐỘNG BỔ TRỢ: Không.
0 Nhận xét