I. CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH

Xuất phát từ ý nghĩa, vai trò quan trọng của gia đình và thực trạng bạo lực gia đình hiện nay. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới việc xây dựng và bảo vệ gia đình. Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21 tháng 2 năm 2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đề ra mục tiêu “mỗi gia đình Việt nam thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình, sự ra đời của Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật trẻ em năm 2016 là những cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia đình, nhất là người cao tuổi, phụ nữ và trẻ em rất dễ trở thành đối tượng, nạn nhân của bạo lực gia đình. Những văn bản Luật này đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.

Trong đó, Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 và Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình là hai văn bản điều chỉnh trực tiếp vấn nạn bạo lực gia đình .Cụ thể nội dung cơ bản của Luật và Nghị định như sau:

1. Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2007

1.1. Bố cục của luật

Luật phòng, chống bạo lực gia đình gồm 6 chương với 46 điều. Trong đó:

Chương I - Những quy định chung gồm 8 điều (từ Điều 1 đến Điều 8) quy định phạm vi điều chỉnh; các hành vi bạo lực gia đình; nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình; nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực; quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình; chính sách của Nhà nước về phòng chống bạo lực gia đình; hợp tác quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình; những hành vi bị nghiêm cấm.

Chương II- Phòng ngừa bạo lực gia đình có 3 mục, 9 điều (từ Điều 9 đến Điều 17), bao gồm các quy định về thông tin, tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình; hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình; tư vấn, góp ý và phê bình trong cộng đồng dân cư về phòng ngừa bạo lực gia đình.

Chương III- Bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình gồm 2 mục với 13 điều (từ Điều 18 đến Điều 30), quy định các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình và việc trợ giúp nạn nhân của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở bảo trợ xã hội; cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình và địa chỉ tin cậy ở cộng đồng.

Chương IV- Trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình có 11 điều (từ Điều 31 đến Điều 41), quy định trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan và tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình.

Chương V- Xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và khiếu nại, tố cáo, có 3 điều (từ điều 42 đến Điều 44) quy định về xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, áp dụng các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng;khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Chương VI- Điều khoản thi hành gồm 2 điều (Điều 45 và Điều 46) quy đinh hiệu lực thi hành của Luật này và hướng dẫn thi hành Luật.

1.2. Những nội dung quan trọng của luật

1.2.1. Phạm vi điều chỉnh

Luật phòng chống bạo lực gia đình điều chỉnh vấn đề phòng ngừa bạo lực gia đình; bảo vệ hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

1.2. Các hành vi bạo lực gia đình

Hành vi bạo lực gia đình được hiểu là hành vi sử dụng sức mạnh về thể chất hoặc sự lệ thuộc về tình cảm, tài chính để gây thương tổn cho các thành viên khác trong gia đình. Trên cơ sở đó, có thể xác định  một hành vi là hành vi bạo lực gia đình, căn cứ vào 2 điều kiện:

- Một là yếu tố “lỗi cố ý”, tức là không phải bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong gia đình cũng được coi là bạo lực gia đình;

- Hai là người bị tổn hại là thành viên gia đình, đó là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Các thành viên của gia đình khi đã ly hôn hoặc trong quan hệ hôn nhân thực tế cũng được áp dụng quy định của Luật này. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định của Luật đối với các trường hợp này không nhằm mục đích khuyến khích hoặc tạo cơ sở pháp lý cho mối quan hệ giữa những người không đăng ký kết hôn mà sống chung như vợ chồng; ở đây cần hiểu quy định như vậy có ý nghĩa đảm bảo cho tất cả nạn nhân của hành vi bạo lực gia đình được hỗ trợ và bảo vệ đặc biệt.

Trong đó, các hành vi bạo lực gia đình được phân chia thành gồm có 4 nhóm chính, cụ thể là:



- Nhóm 1: nhóm hành vi bạo lực về thể chất: bao gồm hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng.

- Nhóm 2: nhóm hành vi bạo lực về tinh thần: bao gồm các hành vi lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở; cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.

- Nhóm 3: nhóm hành vi bạo lực về kinh tế: bao gồm chiếm đoạt, hủy hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính.

- Nhóm 4: hành vi bạo lực về tình dục: là hành vi cưỡng ép quan hệ tình dục.

1.2.3. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình:

- Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hòa giải phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

- Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật.

- Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ.

- Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình.

1.2.4. Nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình:

Người có hành vi bạo lực gia đình buộc phải thực hiện 4 nghĩa vụ sau: Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực;  Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối; Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và theo quy định của pháp luật.

1.2.5. Quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình:

Bên cạnh nghĩa vụ của người thực hành vi bạo lực gia đình, Điều 5 Luật phòng chống bạo lực gia đình có quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của nạn nhân nhân như sau: Nạn nhân có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình; áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc;  Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật; Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của Luật và có các quyền khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời, bên cạnh việc được những hưởng quyền nêu trên, nạn nhân có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu.

1.2.6. Những hành vi bị nghiêm cấm:

Căn cứ Điều 8 của Luật phòng chống bạo lực gia đình 08 nhóm hành vi sau đây bị nghiêm cấm:

Thứ nhất, các hành vi bạo lực gia đình thuộc 4 nhóm thể chất, tinh thần, kinh tế, tình dục được quy định tại mục IV.2 Luật Phòng chống bạo lực gia đình.

Thứ hai, ngoài các hành vi bạo lực tác động trực tiếp đến nạn nhân, để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của nạn nhân cũng như những người có liên quan thì 07 nhóm hành vi sau cũng nghiêm cấm, cụ thể là:

- Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình.

- Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực gia đình.

- Trả thù, đe dọa trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.

- Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình.

- Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc thực hiện hoạt động trái pháp luật.

- Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình.

1.2.7. Phòng ngừa bạo lực gia đình:

Phòng ngừa bạo lực gia đình nhằm tránh những hậu quả, thiệt hại có thể xảy ra khi có hành vi bạo lực gia đình. Luật quy định các biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình bao gồm:

- Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình: nhằm mục đích thay đổi nhận thức, hành vi về bạo lực gia đình, góp phần tiến tới xóa bỏ bạo lực gia đình và nâng cao nhận thức về truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam.

+ Việc thông tin, tuyên truyền phải đảm bảo chính xác, rõ ràng, đơn giản, thiết thực; phù hợp với từng đối tượng, trình độ, lứa tuổi, giới tính, truyền thống, văn hóa, bản sắc dân tộc, tôn giáo; không làm ảnh hưởng đến bình đẳng giới, danh dự, nhân phẩm, uy tín của nạn nhân bạo lực gia đình và các thành viên khác trong gia đình.

+ Nội dung thông tin, tuyên truyền tập trung vào: chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới, quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình; truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt nam; tác hại của bạo lực gia đình; biện pháp, mô hình, kinh nghiệm trong phòng, chống bạo lực gia đình; kiến thức về hôn nhân và gia đình; kỹ năng ứng xử, xây dựng gia đình văn hóa và các nội dung khác có liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình.

+ Hình thức thông tin, tuyên truyền: thực hiện trực tiếp; thông qua phương tiện thông tin đại chúng; lồng ghép trong việc giảng dạy, học tập tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và thông qua hoạt động văn học, nghệ thuật, sinh hoạt cộng đồng và các loại hình văn hóa quần chúng khác.

- Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình:

+ Hòa giải mâu thuẫn giữa các thành viên gia đình là trách nhiệm gia đình, người đứng đầu hoặc người có uy tín trong dòng họ, người có uy tín trong cộng đồng dân cư; của cơ quan, tổ chức nơi công tác hoặc sinh sống của các thành viên gia đình; tổ hòa giải ở cơ sở. Việc hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp tuân thủ 7 nguyên tắc quy định tại Điều 12.

+ Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các tổ chức hòa giải ở cơ sở thực hiện hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình.

- Tư vấn, góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư về phòng ngừa bạo lực gia đình:

+ Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động tư vấn về gia đình ở cơ sở cho các thành viên trong cộng đồng dân cư, trong đó tập trung vào các đối tượng: người có hành vi bạo lực gia đình; nạn nhân bạo lực gia đình; người nghiện rượu, ma túy, đánh bạc; người chuẩn bị kết hôn.

+ Các nội dung tư vấn chủ yếu là cung cấp thông tin, kiến thức, pháp luật về hôn nhân, gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; hướng dẫn kỹ năng ứng xử trong gia đình; kỹ năng ứng xử khi có mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình.

+ Việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư nhằm làm chuyển biến nhận thức của người có hành vi bạo lực gia đình để họ không tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình. Tuy nhiên, biện pháp góp ý, phê bình chỉ áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên có hành vi bạo lực gia đình đã được tổ hòa giải ở cơ sở hòa giải mà tiếp tục vi phạm. Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp này là người đứng đầu cộng đồng dân cư (trưởng thôn, làng, bản, ấp, phum, sóc, tổ trưởng tổ dân phố) hoặc người đứng đầu đơn vị.

+ Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm giúp đỡ, tạo điều kiện cho người đứng đầu cộng đồng dân cư tổ chức việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư đối với người có hành vi bạo lực gia đình.

1.2.8. Bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình:

Bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình được thực hiện thông qua:

* Các biện pháp bảo vệ, ngăn chặn như: phát hiện, báo tin về bạo lực gia đình; cấp cứu nạn nhân bạo lực gia đình; các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia đình; cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình (cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân; sử dụng điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân).

Đối với biện pháp cấm tiếp xúc nạn nhân bạo lực gia đình: đây không phải là biện pháp xử lý vi phạm hành chính và chỉ được áp dụng trong trường hợp gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe, tính mạng của nạn nhân nhằm bảo vệ nạn nhân, phòng ngừa hậu quả nghiêm trọng hơn nữa có thể xảy ra.

- Về điều kiện được áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc, gồm 3 điều kiện sau:

+ Nạn nhân bị tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe, tính mạng.

+ Có đơn yêu cầu của nạn nhân, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có đơn yêu cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình.

+ Người có hành vi bạo lực gia đình và nạn nhân bạo lực gia đình có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp xúc.

- Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp này là: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra bạo lực gia đình; Tòa án đang thụ lý hoặc giải quyết vụ án dân sự giữa nạn nhân bạo lực gia đình và người có hành vi bạo lực gia đình.

- Về thời hạn áp dụng: tối đa 3 ngày đối với trường hợp do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã áp dụng, không quá 4 tháng đối với trường hợp do Tòa án áp dụng.

- Về hủy hỏ quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc: khi có đơn yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình hoặc khi người ra quyết định cấm tiếp xúc nhận thấy biện pháp này không còn cần thiết.

- Về trình tự, thủ tục áp dụng: việc áp dụng, hủy bỏ biện pháp cấm tiếp xúc và xử lý người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã sẽ được thực hiện theo quy định của Chính phủ; còn trình tự, thủ tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp này thuộc thẩm quyền của Tòa án thì được thực hiện tương tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự về các biện pháp khẩn cấp tạm thời.

* Chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

* Tư vấn cho nạn nhân bạo lực gia đình về chăm sóc sức khỏe, ứng xử trong gia đình, pháp luật và tâm lý để giải quyết tình trạng bạo lực gia đình.

* Hỗ trợ khẩn cấp các nhu cầu thiết yếu và nơi tạm lánh.

Ngoài ra, Luật còn quy định về cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình: là nơi chăm sóc, tư vấn, tạm lánh, hỗ trợ những điều kiện cần thiết khác cho họ. Các cơ sở này gồm cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở bảo trợ xã hội; cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình và địa chỉ tin cậy ở cộng đồng.

1.2.9. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng chống bạo lực gia đình:

- Cá nhân có trách nhiệm chấp hành pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội; ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và thông báo cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.

- Gia đình có trách nhiệm giáo dục, nhắc nhở thành viên gia đình thực hiện pháp luật liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình, can ngăn người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt hành vi bạo lực, chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, phối hợp với cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng, chống bạo lực gia đình và thực hiện các biện pháp khác phòng, chống bạo lực gia đình.

- Các tổ chức đoàn thể: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thực hiện tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích, động viên hội viên và nhân dân chấp hành pháp luật liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, kiến nghị những biện pháp cần thiết với cơ quan nhà nước có liên quan để thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, tham gia phòng chống bạo lực gia đình, chăm sóc, hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình và tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

2. Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ.

 Từ ngày 01/01/2022, Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình có hiệu lực thi hành và thay thế Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ . Theo đó, Nghị định quy định cụ thể các hành vi bị xử phạt hành chính bao gồm: Hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình (Điều 52), hành vi hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình (Điều 53), hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình (Điều 54), hành vi cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý (Điều 55), hành vi ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau (Điều 56), Hành vi vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng (Điều 57), hành vi bạo lực về kinh tế (Điều 58), hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp của họ (Điều 59), hành vi bạo lực đối với người ngăn chặn, phát hiện, báo tin bạo lực gia đình, người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình (Điều 60), hành vi cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình (Điều 61), hành vi cố ý không ngăn chặn, báo tin hành vi bạo lực gia đình và cản trở việc ngăn chặn, báo tin hành vi bạo lực gia đình (Điều 62), hành vi sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động hành vi bạo lực gia đình (Điều 63), Hành vi vi phạm quy định về tiết lộ thông tin về nạn nhân bạo lực gia đình (Điều 64), hành vi lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi (Điều 65), hành vi vi phạm quy định về đăng ký hoạt động đối với cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 66),  hành vi phạm quy định về quyết định cấm tiếp xúc của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã (Điều 67).

Trong đó, có rất nhiều hành vi vi phạm đã được điều chỉnh tăng mức phạt tiền so với Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013, cụ thể như hành vi:

Hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình: “1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình. 2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: a) Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình; b) Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối. 3. Biện pháp khắc phục hậu quả: a) Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với các hành vi quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này; b) Buộc chi trả toàn bộ chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với hành vi quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều này.”

Hành vi hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình: “1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: a) Đối xử tồi tệ với thành viên gia đình như: bắt nhịn ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, mặc rách, không cho hoặc hạn chế vệ sinh cá nhân; b) Bỏ mặc không chăm sóc thành viên gia đình là người cao tuổi, yếu, khuyết tật, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ. 2. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với hành vi quy định tại khoản 1 Điều này.”

Hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình: “1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi lăng mạ, chì chiết, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình. 2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: a) Tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm; b) Sử dụng các phương tiện thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình; c) Phổ biến, phát tán tờ rơi, bài viết, hình ảnh nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nạn nhân. 3. Biện pháp khắc phục hậu quả: a) Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với hành vi quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này; b) Buộc thu hồi tư liệu, tài liệu, tờ rơi, bài viết, hình ảnh đối với hành vi quy định tại các điểm a và c khoản 2 Điều này.

Hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp của họ:“1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp của họ. 2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi đe dọa bằng bạo lực để buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp của họ.”

Xử phạt đối với các hành vi vi phạm về bạo lực gia đình là một trong những giải pháp nhằm răn đe, phòng ngừa và hạn chế tình trạng bạo lực gia đình trong xã hội hiện nay, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, nơi có nhiều điều kiện phát sinh tình trạng bạo lực gia đình.

II. THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA BẠO LỰC GIA ĐÌNH

1. Thực trạng

Gia đình là nơi mỗi thành viên đều được yêu thương, đùm bọc, che chở và hơn hết gia đình là chiếc nôi để hình thành, giáo dục, nuôi dưỡng nhân cách con người từ khi sinh ra đến lúc trưởng thành. Tuy nhiên, hiện nay, một số giá trị văn hóa gia đình đã có những biến đổi nhất định thậm chí đang dần bị mai một. Minh chứng tiêu biểu cho điều này là những con số thống kê về bạo lực gia đình đã rúng lên hồi chuông cảnh báo về sự suy thoái về giá trị gia đình, đang và đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển thể chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em.

Theo kết quả điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 (công bố năm 2020) cho thấy, cứ 3 phụ nữ thì có gần 2 phụ nữ từng chịu ít nhất một hình thức bạo lực thể xác, tình dục, tinh thần, kinh tế hay kiểm soát hành vi do chồng/bạn tình gây ra trong đời. Thêm vào đó, bạo lực gia đình là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình trạng ly hôn ở nước ta, theo thống kê của ngành tòa án, từ ngày 01/7/2008 đến ngày 31/7/2018 TAND các cấp đã giải quyết 1.384.660 vụ ly hôn, trong đó có gần 1.060.770 vụ có nguyên nhân từ bạo lực gia đình hoặc liên quan đến bạo lực gia đình (chiếm 76,6%).

Bạo lực gia đình diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, như đánh đập, hành hạ, gây thương tích, cưỡng hiếp, khủng bố tinh thần, cô lập nạn nhân trước những mối quan hệ gia đình và xã hội, bao vây kinh tế, kiểm soát tiền bạc. Bạo lực gia đình đã và đang là vấn nạn lớn mà xã hội phải đối mặt, nó gây ra nhiều hậu quả nặng nề về thể chất, sức khỏe, tinh thần. Trước hết, bạo lực gia đình đã đi ngược lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta khi mà những quan hệ thiêng liêng, bền vững (tình cảm vợ chồng, sự hiếu thảo với cha mẹ, tình nghĩa anh em…) bị xâm phạm một cách thô bạo. Bên cạnh đó, hành vi bạo lực còn tác động xấu đến trật tự xã hội và để lại nhiều thiệt hại về kinh tế như làm giảm năng suất lao động, tốn kém chi phí để chữa bệnh, phục hồi sức khỏe cho nạn nhân, chi phí để điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc.

 


2. Nguyên nhân bạo lực gia đình

Bạo lực được hiểu là dùng sức mạnh để cưỡng bức, trấn áp hoặc lật đổ. Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới những hành vi sử dụng sức mạnh thể chất với mục đích gây thương vong, tổn hại đến người khác, nhưng trên thực tế, bạo lực được coi như một phương thức hành xử trong các quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú được chia thành nhiều dạng khác nhau tùy theo từng góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy được; bạo lực với phụ nữ, trẻ em. Trong đó, bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là: “hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình” (Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007). Nhìn nhận toàn cảnh về vấn nạn bạo lực gia đình có thể nhận thấy nguyên nhân từ các khía cạnh sau:

Thứ nhất, từ nhận thức của mỗi người. Tư tưởng trọng nam khinh nữ tồn tại từ thời kỳ phong kiến và in sâu vào nhận thức của nhiều thế hệ. Cho đến nay, tư tưởng này đã được xóa bỏ và thay vào đó là tư tưởng bình đẳng giới tiến bộ, văn minh. Tuy nhiên, trên thực tế, những quan niệm vẫn đang tồn tại trong một số gia đình, người phụ nữ có vị thế và quyền lực không ngang bằng với nam giới, vì thế đã tạo điều kiện cho các hành vi bạo hành phụ nữ, bạo hành trẻ em trong gia đình. Thêm vào đó, đa phần nạn nhân lựa chọn kiềm chế, nhận nhịn, không tố cáo hành vi. Cộng đồng và xã hội vẫn coi bạo lực gia đình là vấn đề riêng tư trong mỗi gia đình và xã hội không nên can thiệp từ đó, đã tạo điều kiện cho hành vi bạo lực gia đình diễn ra.

          Thứ hai, từ nền kinh tế. Khó khăn về kinh tế là một trong những nguyên nhân dẫn tới bạo lực gia đình. Liên tục đối mặt với các vấn đề tài dễ nảy sinh mâu thuẫn, căng thẳng, áp lực, bế tắc đối với thành viên gia đình dẫn tới các tranh chấp gây nên bạo lực gia đình. Thêm vào đó, sự chênh lệch trong thu nhập giữa các thành viên cũng là một trong những nguyên nhân nảy sinh hành vi bạo lực.

Thứ ba, từ tệ nạn xã hội. Các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, nghiện hút, mại dâm là những nguyên nhân trực tiếp dẫn tới bạo lực gia đình.Thống kê cho thấy 60% nạn bạo hành gia đình xảy ra sau khi người chồng uống rượu hay dùng các chất kích thích. Các chất kích thích làm giảm sự kiềm chế cũng như nhận thức từ đó xuất hiện các hành vi bạo lực thể chất, tinh thần đối với những thành viên khác trong gia đình.

3. Hậu quả của bạo lực gia đình

Bạo lực gia đình đã để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Không chỉ riêng nạn nhân mà cả chính kẻ bạo hành và những thành viên khác trong gia đình cũng phải đối mặt với những hậu quả nặng nề. Sự hiện diện của bạo lực trong mỗi gia đình cũng là rào cản cho sự phát triển văn minh và tiến bộ của xã hội.Theo đó, có thể tóm gọn hậu quả của bạo lực gia đình với từng đối tượng như sau:

Thứ nhất, đối với chính nạn nhân- người chịu tác động trực tiếp và hậu quả nặng nề nhất của hành vi bạo lực gia đình. Nạn nhân không chỉ chịu những thương tổn về mặt thể chất mà còn bị ám ảnh về tinh thần. Bạo lực càng tiếp diễn lâu ngày thì càng nghiêm trọng hơn đối với nạn nhân thậm chí có thể dẫn đến cái chết đối với nạn nhân, nạn nhân có thể bị hoảng loạn về tinh thần, mắc chứng trầm cảm và các dạng tiêu cực khác.

Thứ hai, đối với người gây bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình không chỉ gây thiệt hại cho nạn nhân mà ngay cả người gây bạo lực cũng phải trả một cái giá khá đắt. Chính hành vi của mình, người gây bạo lực đang tự phá hỏng mối quan hệ vợ – chồng, cha mẹ – con cái, ông bà-cháu, anh-chị-em trong gia đình. Cùng với đó, người này phải đóng tiền nộp phạt vi phạm hành chính cho hành vi sai trái của mình khi gây ra bạo lực gia đình với người thân trong gia đình. Và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng với nạn nhân.

Thứ ba, đối với trẻ em. Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng hình thành nhân cách con người, xuất hiện hành vi bạo lực gia đình sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình phát triển thể chất và trí tuệ đối với trẻ em- những mầm non tương lai của đất nước. Khi chứng kiến hoặc là đối tượng bị bạo lực gia đình, trẻ bị ảnh hưởng đến sức khỏe, sự hình thành nhân cách, dễ trở nên lì lợm, phá phách, bỏ học và có  nguy cơ dấn thân vào con đường sai trái.

Thứ tư, đối với xã hội. Gia đình là tế bào của xã hội, nơi thực hiện đồng thời thực hiện hai loại tái sản xuất là tái sản xuất ra của cải vật chất và tái sản xuất ra bản thân con người, làm cho xã hội tồn tại và phát triển lâu dài. Khi bạo lực xảy ra trong gia đình sẽ giảm sự đóng góp của các thành viên tới xã hội. Tạo ra lực lượng lao động tương lai có sức khỏe thể chất và tinh thần yếu, thiếu sáng tạo, thiếu sự chủ động. Ngoài ra, sự hiện diện của bạo lực gia đình sẽ kìm hãm xã hội phát triển văn minh và hiện đại.

III. ĐIỂM MỚI LUẬT PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH 2022

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có hiệu lực thi hành từ 1-7-2008 nhằm phòng ngừa và hỗ trợ, bảo vệ các nạn nhân bị bạo lực gia đình. Tuy nhiên, sau gần 15 năm triển khai, thi hành, Luật cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được bổ sung, điều chỉnh. Một số quy định, chính sách của Luật hiện hành không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Bên cạnh đó, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quan trọng cần được cụ thể hóa trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, đặc biệt là những quy định mang tính nhân văn, bảo vệ các thành viên yếu thế như người cao tuổi, trẻ em, người khuyết tật, phụ nữ có thai và các thành viên khác trong gia đình. Đồng thời duy trì truyền thống văn hóa tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc.

Do đó, việc sửa đổi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình hiện hành là cần thiết nhằm cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khóa XIII; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 24-6-2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới; Hiến pháp năm 2013).

Đồng thời, cũng khắc phục những bất cập của Luật hiện hành: việc phòng ngừa, bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình còn chưa cụ thể, chưa bao quát, nhiều biện pháp còn nặng về thủ tục hành chính nên thiếu tính khả thi, đặc biệt là người cao tuổi, trẻ em, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ và những người khuyết tật trong gia đình; các biện pháp xử lý, giáo dục người có hành vi bạo lực gia đình còn thiếu tính đặc thù, chủ yếu dựa vào các biện pháp, chế tài trong Bộ luật Hình sự, Luật xử lý vi phạm hành chính; chưa có quy định về bảo vệ, hỗ trợ người tham gia phòng, chống bạo lực gia đình; việc xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành, về điều kiện bảo đảm để thực hiện phòng, chống bạo lực gia đình và khuyến khích xã hội hóa công tác phòng, chống bạo lực gia đình chưa phù hợp.

Trên cơ sở đó, ngày 14/11/2022 tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật Phòng, chống bạo  lực gia đình (sửa đổi). Luật gồm 06 chương, 56 điều, quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống bạo lực gia đình; điều kiện bảo đảm phòng, chống bạo lực gia đình; quản lý Nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong phòng, chống bạo lực gia đình. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2023. Căn cứ theo dự thảo Luật đã được công bố trước đó, Luật có 05 nhóm điểm mới như sau:

Thứ nhất, với phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người và lấy người bị bạo lực gia đình làm trung tâm, sửa đổi, bổ sung các hành vi bạo lực gia đình; sửa đổi, bổ sung nhóm đối tượng được áp dụng tương tự; bổ sung quy định để tăng tính khả thi áp dụng Luật đối với người nước ngoài cư trú ở Việt Nam. Theo đó, hành vi bạo lực gia đình bao gồm:

- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập, đe dọa hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng;

-  Lăng mạ, chì chiết hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

-  Cưỡng ép chứng kiến bạo lực đối với người, con vật nhằm gây áp lực thường xuyên về tâm lý;

- Bỏ mặc, không quan tâm; không nuôi dưỡng, chăm sóc thành viên gia đình là trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc; không giáo dục thành viên gia đình là trẻ em;

- Kỳ thị, phân biệt đối xử về hình thể, giới, giới tính, năng lực của thành viên gia đình;

- Ngăn cản thành viên gia đình gặp gỡ người thân, có quan hệ xã hội hợp pháp, lành mạnh hoặc hành vi khác nhằm cô lập, gây áp lực thường xuyên về tâm lý;

- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;

-  Tiết lộ hoặc phát tán thông tin thuộc đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

-  Cưỡng ép thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái ý muốn của vợ hoặc chồng;

-  Cưỡng ép trình diễn hành vi khiêu dâm; cưỡng ép nghe âm thanh, xem hình ảnh, đọc nội dung khiêu dâm, kích thích bạo lực;

-   Cưỡng ép tảo hôn, kết hôn, ly hôn hoặc cản trở kết hôn, ly hôn hợp pháp;

-   Cưỡng ép mang thai, phá thai, lựa chọn giới tính thai nhi;

-   Chiếm đoạt, hủy hoại tài sản chung của gia đình hoặc tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình;

-  Cưỡng ép thành viên gia đình học tập, lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát tài sản, thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng lệ thuộc về mặt vật chất, tinh thần hoặc các mặt khác;

-  Cô lập, giam cầm thành viên gia đình;

-   Cưỡng ép thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp trái pháp luật.

 Các hành vi nêu trên được thực hiện giữa người đã ly hôn; người chung sống như vợ chồng; người là cha, mẹ, con riêng, anh, chị, em của người đã ly hôn, của người chung sống như vợ chồng; người đã từng có quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi với nhau cũng được xác định là hành vi bạo lực gia đình theo quy định của Chính phủ.

Thứ hai, thực hiện phòng ngừa bạo lực gia đình chủ động, trong "phòng" có "chống", trong "chống" có "phòng".

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống bạo lực gia đình để khắc phục những bất cập của Luật hiện hành, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

Thứ tư, khuyến khích xã hội hóa công tác phòng, chống bạo lực gia đình, đồng thời nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong bố trí nguồn lực cho phòng, chống bạo lực gia đình để hướng tới xây dựng và phát triển các cơ sở trợ giúp về phòng, chống bạo lực gia đình hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả.

Thứ năm, sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình và cơ quan, tổ chức có liên quan trong phòng, chống bạo lực gia đình.