Lực lượng dự bị động viên là một thành phần của Quân đội nhân
dân Việt Nam; là quân nhưng được gửi ở trong dân để sẵn sàng động viên làm
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc khi cần thiết. Quy định về
lực lượng này trải qua thời gian dài áp dụng pháp lệnh về Lực lượng dự bị động viên 1996 đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, góp phần xây dựng lực lượng vũ trang nói chung và lực lượng dự bị
động viên nói riêng ngày càng hùng hậu, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tuy nhiên, quá trình thực hiện Pháp lệnh đã bộc lộ nhiều bất cập, vướng
mắc, chưa phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Để tiếp tục xây dựng lực lượng dự bị động
viên hùng hậu, có chất lượng cao làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, ngày 26/11/2019,
tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa XIV)
đã biểu quyết thông qua Luật Lực lượng dự bị động viên số 53/2019/QH14, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/7/2020, sau đây là một số nội dung
cơ bản của Luật lực lượng dự bị động viên 2019:
I. Sự cần thiết ban hành Luật Lực lượng dự bị động viên
Trải qua hơn 20 năm triển khai trên thực tiễn Pháp lệnh về Lực lượng dự
bị động viên đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần to lớn trong việc
xây dựng và phát triển lực lượng dự bị động viên. Tuy nhiên, dưới sự phát triển
của kinh tế xã hội hiện nay Pháp lệnh cũng bộc lộ nhiều hạn chế và thiếu sót
đặt ra yêu cầu ban hành Luật mới quy định về lực lượng này. Theo đó, sự cần
thiết của việc ban hành Luật Lực lượng dự bị động viên được thể hiện cụ thể như
sau;
Thứ nhất, để phù hợp với chủ
trương, quan điểm mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Từ năm 1996 đến nay, Đảng ta đã ban hành các nghị quyết, chỉ thị
với nhiều chủ trương, quan điểm mới về lực lượng dự bị động viên cần được thể
chế, như: Chỉ thị số 16-CT/TW, ngày 05/10/2002 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự
vệ và lực lượng dự bị động viên; Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22/9/2008 của Bộ
Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành
khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới; Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày
25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định mục tiêu bảo vệ
Tổ quốc có sự phát triển và khẳng định: Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng
hậu,… đủ khả năng bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ và an ninh quốc gia trong mọi tình huống.
Thứ hai, để phù hợp với Hiến
pháp và pháp luật hiện hành. Hiến pháp năm 2013 có nhiều quy định mới
về bảo vệ Tổ quốc, quốc phòng, về xây dựng lực lượng dự bị động viên; quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và một số quy định khác liên quan
đến lực lượng dự bị động viên. Trong khi đó, Pháp lệnh về Lực lượng dự bị động
viên chưa quy định hoặc quy định chưa đầy đủ để phù hợp với Hiến pháp năm 2013.
Mặt khác, một số nội dung của Pháp lệnh chưa thống nhất, đồng bộ với hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có quy định liên quan đến lực lượng dự bị
động viên; nhiều nội dung đang được điều chỉnh ở văn bản quy phạm pháp luật
tính pháp lý chưa cao, chưa được điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa đầy đủ.
Thứ ba, để khắc phục những hạn chế, thiếu sót của Pháp lệnh
về Lực lượng dự bị động viên. Qua tổng kết 20 năm thực hiện Pháp
lệnh trên phạm vi cả nước đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, như: thực hiện chế
độ, nền nếp đăng ký, quản lý, kiểm tra sức khỏe định kỳ; việc triển khai đăng
ký, quản lý phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân chưa thực sự hiệu
quả, việc xử lý vi phạm chưa nghiêm; việc tổ chức các đơn vị dự bị động viên
gặp khó khăn... Thực
tiễn đòi hỏi, huy động lực lượng dự bị động viên tham gia phòng, chống, khắc
phục hậu quả do thảm họa, dịch bệnh nguy hiểm; việc bảo đảm doanh trại, thao
trường, bãi tập cho huấn luyện tập trung đơn vị dự bị động viên gặp nhiều khó
khăn; các đơn vị bộ đội địa phương cơ bản chưa có doanh trại, thao trường, bãi
tập để tổ chức huấn luyện,... nhưng nội dung này chưa được quy định trong Pháp
lệnh. Chế độ, chính sách đối với quân nhân dự bị quy định trong Pháp lệnh không
phù hợp với thực tế mặt bằng thu nhập chung của xã hội; chưa quy định cụ thể
chế độ, chính sách đối với người được huy động phục vụ nhiệm vụ xây dựng và huy
động lực lượng dự bị động viên; chưa quy định chế độ, chính sách đối với chủ
phương tiện khi có phương tiện được huy động.
Thứ tư, xuất phát từ thực
tiễn các cuộc chiến tranh, xung đột trên thế giới, những năm gần đây và dự báo
chiến tranh trong tương lai. Ngoài chiến tranh truyền thống còn xuất hiện
chiến tranh phi quy ước, chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh thông tin, chiến
tranh không gian mạng và việc sử dụng các loại vũ khí công nghệ cao, tác chiến điện tử. Nhằm chủ động ngăn ngừa, ngăn
chặn, đẩy lùi và đối phó thắng lợi trong mọi tình huống, đánh bại mọi hình thức
chiến tranh xâm lược nếu xảy ra, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung các quy định của
Pháp lệnh nâng thành Luật Lực lượng dự bị động viên, tạo hành lang pháp lý đầy
đủ và cao hơn nhằm đáp ứng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới.
II. Nội dung cơ bản của Luật Lực lượng dự bị động viên
1. Bố cục và phạm vi điều chỉnh
- Luật Lực lượng dự bị động
viên năm 2019, gồm: 5 chương, 41 điều, cụ thể:
+ Chương 1: Những quy định chung.
+ Chương 2: Xây dựng, huy động, tiếp
nhận lực lượng dự bị động viên.
+ Chương 3: Chế độ, chính sách và kinh
phí bảo đảm cho xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên.
+ Chương 4: Trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức trong xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên.
+ Chương 5: Điều khoản thi hành.
- Phạm vi điều chỉnh:
Phạm vi điều chỉnh được quy định tại
Điều 1 của Luật Lực lượng dự bị động viên theo đó Luật điểu chỉnh: “Quy định xây dựng, huy động lực lượng dự
bị động viên; chế độ, chính sách; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên” .
Đây là quy định mới so với Pháp lệnh về Lực lượng dự bị động
viên năm 1996 nhằm bảo
đảm kỹ thuật xây dựng văn bản theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015. Nội dung quy định tại Điều này xác định đối tượng mà các
quy định của Luật tác động là cơ quan, tổ chức, cá nhân; nội dung các Điều luật
đã liệt kê cụ thể các đối tượng áp dụng.
2. Lực lượng dự bị động viên
2.1 Định nghĩa lực lượng dự bị động
viên
Theo
khoản 1 Điều 2 Luật Lực lượng dự bị động viên 2019, lực lượng dự bị động viên
bao gồm quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật dự bị được đăng ký, quản lý và
sắp xếp vào đơn vị dự bị động viên để sẵn sàng bổ sung cho lực lượng thường
trực của Quân đội nhân dân. Cụ thể
như sau:
-
Quân nhân dự bị bao gồm sĩ quan dự bị, quân nhân chuyên nghiệp dự bị và hạ sĩ
quan, binh sĩ dự bị được đăng ký theo quy định Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân
Việt Nam 1999 (sửa đổi 2008, 2014), Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và
viên chức quốc phòng 2015, Luật Nghĩa vụ quân sự 2015. (Theo khoản 2 Điều 2
Luật Lực lượng dự bị động viên 2019.
- Phương tiện kỹ thuật dự bị là tài sản của cơ
quan, tổ chức, công dân Việt Nam bao gồm phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ, phương tiện đường thủy, phương tiện đường không dân dụng, phương tiện xây
dựng cầu đường.
Ngoài
ra còn có phương tiện xây dựng công trình, phương tiện xếp dỡ hàng hóa, phương
tiện thông tin liên lạc, thiết bị vật tư y tế và một số loại phương tiện, thiết
bị khác được đăng ký theo yêu cầu biên chế của Quân đội nhân dân. (Theo khoản 3
Điều 2 Luật Lực lượng dự bị động viên 2019).
2.2 Độ tuổi quân nhân dự bị sắp xếp vào lực lượng
dự bị động viên trong thời bình
Độ tuổi để quân nhân dự bị sắp xếp vào lực lượng dự bị
động viên trong thời bình được quy định tại Điều 17 Luật Lực lượng dự bị động
viên 2019 như sau:
- Độ tuổi sĩ quan dự bị sắp xếp vào đơn vị dự bị động
viên thực hiện theo quy định của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 1999
(sửa đổi 2008, 2014).
-
Độ tuổi quân nhân chuyên nghiệp dự bị và hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị sắp xếp vào
lực lượng dự bị động viên được quy định như sau:
+
Nam quân nhân chuyên nghiệp dự bị không quá 40 tuổi; hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị
không quá 35 tuổi được sắp xếp vào đơn vị chiến đấu;
+
Nam quân nhân chuyên nghiệp dự bị và hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị không quá 45
tuổi; nữ quân nhân dự bị không quá 40 tuổi được sắp xếp vào đơn vị bảo đảm
chiến đấu.
2.3 Trách nhiệm của quân nhân dự bị
được xếp trong lực lượng dự bị động viên
Khi
được xếp vào trong lực lượng dự bị động viên, quân nhân dự bị phải có các trách
nhiệm như sau:
-
Kiểm tra sức khỏe;
-
Thực hiện lệnh gọi huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng
chiến đấu;
-
Thực hiện chế độ sinh hoạt đơn vị dự bị động viên và nhiệm vụ do người chỉ huy
giao;
-
Thực hiện lệnh huy động để bổ sung cho lực lượng thường trực của Quân đội nhân
dân.
2.4 Các trường hợp huy động lực lượng
dự bị động viên
Cụ
thể tại Điều 24 Luật Lực lượng dự bị động viên 2019, các trường hợp huy động
lực lượng dự bị động viên như sau:
-
Khi thực hiện lệnh tổng động viên hoặc lệnh động viên cục bộ.
-
Khi thi hành lệnh thiết quân luật.
-
Khi có nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến
mức ban bố tình trạng khẩn cấp.
- Để phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, thiên
tai, dịch bệnh nguy hiểm.
2.5 Chế độ, chính sách đối với quân
nhân dự bị trong lực lượng dự bị động viên
Theo
Điều 30 Luật Lực lượng dự bị động viên 2019, chế độ, chính sách đối với quân
nhân dự bị trong lực lượng dự bị động viên, cụ thể như sau:
-
Chế độ tiền lương và phụ cấp đối với quân nhân dự bị:
+
Quân nhân dự bị đang lao động, học tập, làm việc trong cơ quan, tổ chức và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước được cơ quan, tổ chức nơi đang lao động, học
tập, làm việc trả nguyên lương và các khoản phụ cấp, trợ cấp, phúc lợi, phụ cấp
đi đường và tiền tàu xe.
Trường
hợp mức lương, phụ cấp thấp hơn mức lương, phụ cấp áp dụng trong Quân đội nhân
dân thì đơn vị Quân đội nhân dân trả phần chênh lệch; Quân nhân dự bị không thuộc các đối tượng
theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 30 Luật Lực lượng dự bị động viên 2019
được đơn vị Quân đội nhân dân cấp một khoản phụ cấp theo ngày làm việc trên cơ
sở mức tiền lương cơ bản của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, tại ngũ. Ngoài
ra, có thể bằng mức phụ cấp theo cấp bậc quân hàm của hạ sĩ quan, binh sĩ tại
ngũ; tiền tàu xe và phụ cấp đi đường như đối với quân nhân tại ngũ.
-
Quân nhân dự bị được cấp hoặc mượn quân trang, đồ dùng sinh hoạt và bảo đảm
tiền ăn theo chế độ hiện hành đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ
quan, binh sĩ tại ngũ.
-
Quân nhân dự bị đang lao động, học tập, làm việc trong cơ quan, tổ chức nếu
đang nghỉ phép năm mà được gọi huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động
viên, sẵn sàng chiến đấu, huy động khi chưa đến mức tổng động viên.
Trong
trường hợp động viên cục bộ thì những ngày phép còn lại được nghỉ tiếp sau khi
kết thúc nhiệm vụ hoặc được nghỉ bù vào thời gian thích hợp.
-
Quân nhân dự bị khi thực hiện nhiệm vụ bị thương hoặc hy sinh được công nhận là
thương binh hoặc liệt sĩ thì bản thân và gia đình quân nhân được hưởng chế độ,
chính sách theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng.
-
Quân nhân dự bị khi thực hiện công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, đặc biệt
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật về lao động được
hưởng chế độ, chính sách như đối với người lao động làm cùng công việc.
-
Quân nhân dự bị tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế mà bị ốm đau, bị tai
nạn, chết hoặc bị suy giảm khả năng lao động thì được hưởng chế độ, chính sách
theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; trường hợp không
tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế thì được hưởng chế độ, chính sách theo
quy định của Chính phủ.
3. Nguyên
tắc xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên.
Điều 3 của Luật
Lực lượng dự bị động viên quy định về các
nguyên
tắc xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên cụ thể như sau:
- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch
nước, sự quản lý tập trung, thống nhất của Chính phủ và sự chỉ huy, chỉ đạo của
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
- Xây dựng lực lượng dự bị động
viên vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có trình độ chiến đấu cao và
được quản lý chặt chẽ.
- Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân.
- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
- Xây dựng, huy động đơn vị dự bị
động viên bảo đảm đủ quân số, phương tiện kỹ thuật dự bị; đúng tiêu chuẩn, thời
gian; bảo đảm bí mật, an toàn theo quy định của pháp luật và kế hoạch được phê
duyệt.
- Ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ trong xây dựng, huy
động lực lượng dự bị động viên.
4. Quyền và nghĩa vụ về tài sản của tổ chức, công dân
Cụ
thể hóa quy định của Hiến pháp 2013 về quyền tài sản, Luật Lực lượng dự bị động viên đã quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ
phương tiện kỹ thuật dự bị, người vận hành, điều khiển phương tiện kỹ thuật dự
bị
và bồi thường
thiệt hại do việc huy động, điều động phương tiện kỹ thuật dự bị gây ra. Theo đó, việc quy định bồi thường
thiệt hại, viện dẫn mức bồi thường, chi trả tiền bồi thường thiệt hại cho chủ
phương tiện thực hiện như đối với người có tài sản trưng dụng theo quy định của
pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản là cần thiết, phù hợp, rõ ràng, minh bạch
và bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.
5. Các hành vi bị nghiêm cấm.
Căn cứ quy định tại Điều 7 Luật Lực
lượng dự bị động viên, 05 hành vi bị nghiêm cấm trong xây dựng, huy động lực lượng
dự bị động viên, cụ thể:
- Trốn tránh thực hiện trách
nhiệm của quân nhân dự bị, nghĩa vụ của chủ phương tiện kỹ thuật dự bị được huy
động, điều động.
- Chống
đối, cản trở việc xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên.
- Huy
động, điều động lực lượng dự bị động viên không có trong kế hoạch được phê
duyệt.
- Lợi
dụng, lạm dụng việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, huy động lực lượng dự bị động
viên xâm phạm lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân.
- Phân biệt đối xử về giới trong xây dựng,
huy động lực lượng dự bị động viên.
6. Kế hoạch xây dựng, huy động, tiếp nhận lực lượng dự bị động viên.
Mục 1, Chương II của Luật (từ Điều 8 đến Điều 11), quy định
cụ thể thẩm quyền lập kế hoạch, nội dung kế hoạch, thẩm định, phê duyệt và rà
soát, điều chỉnh lập mới kế hoạch, nhằm đảm bảo thống nhất hệ thống kế hoạch
xây dựng, huy động, tiếp nhận lực lượng dự bị động viên các cấp từ Trung ương
đến địa phương, cũng như trong Quân đội được giao bảm đảm tính kế hoạch trong
xây dựng lực lượng dự bị động viên từ thời bình để sẵn sàng bổ sung lực lượng
thường trực của Quân đội khi có tình huống xảy ra kịp thời, hiệu quả.
7. Xây dựng lực lượng dự bị động viên.
Quy định tại Mục II, Chương II (từ Điều 12 đến Điều 23) về đăng
ký, quản lý quân nhân dự bị; đăng ký, quản lý phương tiện kỹ thuật dự bị; thẩm
quyền giao chỉ tiêu xây dựng lực lượng dự bị động viên; tổ chức biên chế đơn vị
dự bị động viên; tiêu chuẩn về sức khỏe, chuyên nghiệp quân sự, vùng, địa bàn,
nguyên tắc, thứ tự sắp xếp quân nhân dự bị vào đơn vị dự bị động viên; về độ
tuổi quân nhân dự bị sắp xếp vào đơn vị dự bị động viên trong thời bình; về
thẩm quyền sắp xếp quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật dự bị vào đơn vị dự bị
động viên; về huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến
đấu quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật dự bị, đơn vị dự bị động viên và chế
độ sinh hoạt của quân nhân dự bị. Trong đó, có một số quy định đáng chú ý, như sau:
- Điều
12 Luật quy định về đăng ký,
quản lý quân nhân dự bị, Luật giao Chính phủ quy định trình tự, thủ tục đăng ký
quân nhân dự bị; việc đăng ký quân nhân dự bị giao Ban Chỉ huy Quân sự cấp xã,
Ban Chỉ huy Quân sự cấp huyện nơi không có đơn vị hành chính cấp xã. Việc quản
lý quân nhân dự bị giao cho UBND cấp xã, cơ quan, tổ chức nhằm thực
hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính và gắn trách
nhiệm của chính quyền địa phương cấp xã, cơ quan, tổ chức trong quản lý công
dân.
- Điều 13, quy định đăng ký, quản lý phương tiện kỹ thuật dự bị, giao cho cơ quan chức năng nhà nước thực hiện trên cơ sở cung cấp thông tin của cơ quan đăng ký quyền sở hữu, cơ quan quản lý phương tiện và Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức báo cáo, cung cấp thông tin về phương tiện kỹ thuật dự bị không thuộc diện đăng ký quyền sở hữu phương tiện kỹ thuật dự bị. Quy định trên không ảnh hưởng quyền tài sản của công dân, tổ chức, tránh phiền hà đến chủ phương tiện có phương tiện kỹ thuật dự bị thuộc diện đăng ký, quản lý.
- Điều 15, quy định về tổ chức biên chế
đơn vị dự bị động viên, như sau: Quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật dự bị đã xếp trong kế
hoạch bổ sung cho lực lượng thường trực của Quân đội nhân dân được tổ chức
thành các đơn vị dự bị động viên. Đơn vị dự bị động viên phải duy trì
đủ quân số quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật dự bị, có số lượng dự phòng từ
10% đến 15% và dự trữ vũ khí, trang bị kỹ thuật theo phân cấp.
- Điều 22, Luật quy định, Thủ tướng Chính phủ quyết định chỉ tiêu huấn
luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu quân nhân dự
bị, phương tiện kỹ thuật dự bị, đơn vị dự bị động viên hằng năm cho Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ giao chỉ tiêu huấn
luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu cho cơ quan,
đơn vị thuộc quyền. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao chỉ tiêu huấn luyện,
diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu cho Ủy ban nhân dân
cấp huyện. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giao chỉ tiêu cụ thể cho Ủy ban
nhân dân cấp xã. Việc gọi quân nhân dự bị huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn
sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu thực hiện theo quy định của Luật Sĩ quan
Quân đội nhân dân Việt Nam; Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên
chức quốc phòng; Luật Nghĩa vụ quân sự.
Quân nhân dự bị
được hoãn tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng
chiến đấu trong
trường hợp: trùng với thời gian thi tuyển công chức, viên chức; thi nâng bậc
thợ, nâng ngạch công chức, viên chức; thi kết thúc học kỳ, thi kết thúc khóa
học được cơ quan, tổ chức nơi quân nhân dự bị đang lao động, học tập, làm việc
xác nhận. Bị ốm đau hoặc hoàn cảnh gia đình, bản thân khó khăn đột xuất không
thể tham gia, được Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi không
có đơn vị hành chính cấp xã nơi quân nhân dự bị cư trú hoặc cơ quan, tổ chức
nơi quân nhân dự bị đang lao động, học tập, làm việc xác nhận.
- Điều 23, quy định về chế độ sinh hoạt
của quân nhân dự bị, Luật giao cho cấp huyện, cấp xã tổ chức sinh hoạt là cấp
trực tiếp đăng ký, quản lý quân nhân dự bị, thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo,
chính quyền điều hành, cơ quan quân sự chủ trì phối hợp với các ban, ngành làm
tham mưu.
8. Huy động, tiếp nhận lực lượng dự bị động viên.
Mục III, Chương II (từ Điều 24 đến Điều 28), quy định về
các trường hợp huy động lực lượng dự bị động viên; huy động lực lượng dự bị
động viên khi thực hiện lệnh tổng động viên hoặc lệnh động viên cục bộ; huy
động lực lượng dự bị động viên khi chưa đến mức tổng động viên hoặc động viên
cục bộ; thông báo quyết định, lệnh huy động lực lượng dự bị động viên và quy
định về tập trung, vận chuyển, giao nhận lực lượng dự bị động viên. Trong
đó, Điều 24,
quy định các trường hợp huy động lực lượng dự bị động viên, như sau:
- Khi
thực hiện lệnh tổng động viên hoặc lệnh động viên cục bộ.
- Khi thi hành lệnh thiết quân luật.
- Khi có nguy cơ đe dọa an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn
cấp.
- Để phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, thiên tai, dịch
bệnh nguy hiểm. Việc quy định như trên thống nhất với Luật Quốc phòng trong sử
dụng lực lượng vũ trang có hiệu quả cao nhất khi có tình huống để phòng, chống,
khắc phục hậu quả, ổn định tình hình.
9. Chế độ, chính sách bảo đảm cho xây dựng, huy động lực lượng dự bị
động viên.
Từ Điều 29 đến
Điều 32, Luật quy định chế độ phụ cấp đối
với quân nhân dự bị được xếp vào đơn vị dự bị động viên, quân nhân dự bị được
bổ nhiệm chức vụ chỉ huy đơn vị dự bị động viên; chế độ, chính sách đối với
quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn
sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu và huy động khi chưa đến mức tổng động viên
hoặc động viên cục bộ; chế độ trợ cấp đối với gia đình quân nhân dự bị; chế độ,
chính sách đối với người vận hành, điều khiển phương tiện kỹ thuật dự bị trong
thời gian huy động. Giao Chính phủ quy định chi tiết chế độ, chính sách nhằm
bảo đảm phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của từng thời kỳ, từng giai đoạn
để xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Quy định trên đã được rà soát chặt chẽ đảm bảo đầy đủ đối tượng, trách nhiệm, quyền
lợi, thể hiện quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với đối tượng
được thụ hưởng, thống nhất quy định của pháp luật.
10. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong xây dựng, huy động lực lượng dự
bị động viên.
Cơ
quan, tổ chức nơi quân nhân dự bị đang lao động, học tập, làm việc có trách
nhiệm phối hợp với địa phương bố trí thời gian cho quân nhân dự bị tập trung
huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu và thực
hiện nhiệm vụ khi chưa đến mức tổng động viên hoặc động viên cục bộ; tiếp nhận,
bố trí công việc cho quân nhân dự bị khi kết thúc huấn luyện, diễn tập, kiểm
tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu và thực hiện xong nhiệm vụ.Việc quy
định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đã bảo đảm quyền lợi của quân nhân dự bị
khi thực hiện các nhiệm vụ được giao, tạo điều kiện để quân nhân dự bị yên tâm
tư tưởng phục vụ trong ngạch dự bị.
0 Nhận xét