Thực tiễn xử phạt vi phạm
hành chính trong hoạt động tố tụng cho thấy, các hành vi cản trở hoạt động
tố tụng xảy ra ngày càng nhiều, có xu hướng gia tăng, gây khó khăn cho việc
giải quyết vụ việc, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giải quyết vụ việc của
cơ quan, người có thẩm quyền, tính tôn nghiêm và quyền uy của tư pháp. Trong
khi đó, pháp luật nước ta chưa có văn bản quy định có hệ thống về việc xử phạt
các hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà chỉ có một số quy định chung, chưa cụ
thể, chưa rõ ràng về xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng nằm rải rác trong
Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
Do
đó, ngày 18/8/2022, tại phiên họp chuyên đề pháp luật tháng 8, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV đã thông qua Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng (sau đây viết tắt là Pháp lệnh). Pháp lệnh này có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/9/2022.
III. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LỆNH
1.
Bố cục của Pháp lệnh
Pháp lệnh
gồm 04 chương, 48 điều; cụ thể như sau:
- Chương I về “Những quy định chung” gồm có 08
điều, từ Điều 1 đến Điều 8.
- Chương II về “Hành vi cản
trở hoạt động tố tụng, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả” gồm có
03 Mục với 16 điều, từ Điều 9 đến Điều 24.
+ Mục 1 quy định về “Hành vi cản trở hoạt động tố
tụng hình sự, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả”.
+ Mục 2 quy định về “Hành vi cản trở hoạt động tố
tụng dân sự, tố tụng hành chính, việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử
lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến
dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; hình thức xử phạt và biện pháp khắc
phục hậu quả”.
+ Mục 3 quy đinh về “Hành vi vi
phạm nội quy phiên tòa, phiên họp; hành vi khác cản trở hoạt động tố tụng; hình
thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả”.
- Chương III quy định về “Thẩm quyền, thủ tục xử
phạt, thi hành quyết định xử phạt và cướng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính” gồm 22 điều, từ Điều 25 đến Điều 46.
- Chương IV quy định về “Điều khoản thi hành” gồm
có 02 Điều, Điều 47 và Điều 48.
2.
Nội dung cơ bản của Pháp lệnh
2.1. Về phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh (Điều 1
và Điều 2)
Pháp lệnh quy định về hành vi cản trở hoạt động tố
tụng bị xử phạt vi phạm hành chính; hình thức, mức xử phạt; biện pháp khắc phục
hậu quả; biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính; thẩm quyền, thủ
tục xử phạt, thi hành quyết định xử phạt và cưỡng chế thi hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng.
Theo
đó, hành
vi cản trở hoạt động tố tụng bị xử phạt vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, cản trở hoạt động giải quyết vụ án, vụ việc của cơ
quan, người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ
luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính mà không phải là tội phạm và theo
quy định của Pháp lệnh này phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, cản trở hoạt động giải
quyết vụ việc của cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Pháp
lệnh Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính tại Tòa án nhân dân và Pháp lệnh Trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem
xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc mà không phải là tội phạm thì bị áp dụng xử phạt vi phạm hành
chính như hành vi cản trở hoạt động tố tụng theo quy định của Pháp lệnh này.
2.2. Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng (Điều 4)
Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng gồm cá nhân, tổ chức quy định tại
các điểm a, b và c khoản 1 Điều 5 của Luật Xử lý vi phạm hành chính thực hiện
hành vi vi phạm quy định tại Chương II của Pháp lệnh này. Cụ thể là:
(1) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ
16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính.
(2) Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi
phạm hành chính trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trên tàu
bay mang quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ quốc tịch Việt Nam thì bị xử phạt
vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định
khác.
(3) Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành
chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra.
Pháp lệnh cũng đặt ra một số trường
hợp ngoại lệ như sau:
- Trường hợp cán bộ, công chức, viên
chức, người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, người làm công
tác cơ yếu thực hiện hành vi cản trở hoạt động tố tụng khi đang thi hành công
vụ, nhiệm vụ và hành vi vi phạm đó thuộc công vụ, nhiệm vụ thì không bị xử phạt
theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà bị xử lý theo quy
định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức và quy định khác của pháp
luật có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 495 của Bộ luật Tố tụng dân
sự[1],
Điều 324[2] và
khoản 1 Điều 325[3] của
Luật Tố tụng hành chính.
- Trường hợp Hội thẩm thực hiện hành
vi cản trở hoạt động tố tụng khi đang thực hiện nhiệm vụ của Hội thẩm thì không
bị xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà bị xử lý
theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và quy định khác của pháp luật
có liên quan.
2.3. Các hình thức xử phạt và nguyên
tắc áp dụng (Điều 5)
Phù hợp với quy định của Luật Xử lý
vi phạm hành chính, Pháp lệnh quy định các hình thức xử phạt chính đối với hành
vi cản trở hoạt động tố tụng gồm phạt cảnh cáo và phạt tiền; hình thức xử phạt
bổ sung là tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi
phạm hành chính (sau đây gọi chung là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính).
Nguyên tắc áp dụng hình thức xử phạt
vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng được thực hiện
theo quy định tại khoản 3 Điều 21 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
2.4. Mức phạt tiền,
thẩm quyền phạt tiền
(Điều 6)
Mức phạt tiền và thẩm quyền phạt
tiền được quy định đúng theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Mức phạt tiền
tối đa đối với mỗi hành vi cản trở hoạt động tố tụng của cá nhân đến 40.000.000
đồng. Mức phạt tiền tối đa đối với mỗi hành vi cản trở hoạt động tố tụng của tổ
chức đến 80.000.000 đồng.
- Mức phạt tiền quy định tại Chương II của Pháp lệnh là mức phạt được áp
dụng đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng của cá nhân. Đối với tổ chức có
cùng hành vi vi phạm thì mức phạt tiền gấp 02 lần mức phạt tiền đối với cá
nhân.
- Thẩm quyền
phạt tiền của người có thẩm quyền xử phạt được quy định tại các điều từ Điều 25
đến Điều 32 của Pháp lệnh là thẩm quyền áp dụng đối với một hành vi cản trở
hoạt động tố tụng của cá nhân, thẩm quyền xử phạt tổ chức gấp 02 lần thẩm quyền
xử phạt cá nhân.
2.5. Các biện pháp khắc phục hậu quả và nguyên
tắc áp dụng (Điều 7)
Các biện pháp khắc phục hậu
quả là những biện pháp mà theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì
những chức danh có thẩm quyền xử phạt trong Pháp lệnh được áp dụng, bao gồm:
- 02 biện pháp đã được quy
định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính: (1)
Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu và (2) Buộc nộp lại số lợi bất hợp
pháp có được do thực hiện hành vi cản trở hoạt động tố tụng.
- 06 biện pháp khác đã được
Chính phủ quy định tại các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong một số
lĩnh vực có liên quan, bao gồm: (1) Buộc xin lỗi công khai; (2) Buộc thu hồi
thông tin, tài liệu, dữ liệu, vật có chứa bí mật điều tra; (3) Buộc gỡ bỏ thông
tin, tài liệu, dữ liệu có chứa bí mật điều tra; (4) Buộc thu hồi thông tin sai
sự thật; (5) Buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật và (6) Buộc thu hồi, nộp lại tư
liệu, tài liệu, hình ảnh.
Nguyên tắc áp dụng biện pháp
khắc phục hậu quả thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 28 của Luật Xử lý vi
phạm hành chính.
2.6. Biện pháp
ngăn chặn, bảo đảm xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động
tố tụng và nguyên tắc áp dụng (Điều 8)
Trường hợp cần
ngăn chặn kịp thời vi phạm hành chính hoặc để bảo đảm việc xử lý vi phạm hành
chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng thì có thể áp dụng các biện
pháp quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 119 của Luật Xử lý vi phạm
hành chính, gồm: (1) Tạm giữ người; (2)
Áp giải người vi phạm; (3) Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính,
giấy phép, chứng chỉ hành nghề; (4) Khám người; (5) Khám phương tiện vận tải,
đồ vật và (6) Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Nguyên tắc áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành
chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng thực hiện theo quy định tại
Điều 120 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
2.7. Hành vi cản trở hoạt
động tố tụng, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả (Chương II)
Hành vi cản trở hoạt động tố tụng được quy
định trên cơ sở rà soát kỹ quy định của các đạo luật tố tụng (Bộ luật Tố tụng
hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính), Pháp lệnh Trình
tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa
án nhân dân và Pháp lệnh Trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định
việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc; bảo đảm quy định đầy đủ các hành vi cản trở các hoạt động này
của cơ quan, người có thẩm quyền, phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực và thực
tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng thực hiện nhiệm vụ. Theo đó, Pháp lệnh quy
định cụ thể hành vi cản trở hoạt động tố tụng, hình thức xử phạt và biện pháp
khắc phục hậu quả đối với 03 nhóm hành vi. Cụ thể như sau:
Thứ
nhất là nhóm các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự (Mục 1 Chương II), gồm: Hành vi tố giác,
báo tin về tội phạm sai sự thật; hành vi tiết lộ bí mật điều tra; hành vi vi
phạm quy định về sự có mặt theo giấy triệu tập; hành vi cản trở đại diện của cơ
quan, tổ chức hoặc cá nhân tham gia tố tụng; hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ; hành vi ngăn cản
việc cấp, giao, nhận, thông báo hoặc không thực hiện trách nhiệm cấp, giao,
chuyển, gửi, niêm yết, thông báo văn bản tố tụng; hành vi xúc phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín, xâm hại sức khỏe của người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng.
Thứ
hai là nhóm các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính,
việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân
dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc (Mục 2 Chương II),
gồm: Hành vi cố ý không có mặt theo giấy triệu tập
của Tòa án; hành vi cản trở đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tham gia
tố tụng theo yêu cầu của Tòa án; hành
vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của cơ quan, người có thẩm
quyền; hành vi cản trở việc cấp, giao, nhận, tống đạt, thông báo văn bản tố
tụng của Tòa án; hành vi can thiệp vào việc giải quyết vụ án, vụ việc;
hành vi xúc phạm, xâm hại đến sự tôn nghiêm, uy tín của Tòa án; xúc phạm danh
dự, nhân phẩm, uy tín, xâm hại sức khỏe của người có thẩm quyền hoặc những
người khác thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của Tòa án và hành vi đưa tin sai sự
thật.
Thứ ba là hành vi vi phạm nội quy phiên tòa, phiên
họp; hành vi khác cản trở hoạt động tố tụng; hình thức xử phạt và biện pháp
khắc phục hậu quả (Mục 3 Chương III), gồm: Hành vi vi phạm nội quy phiên tòa,
phiên họp và hành vi khác cản trở hoạt động tố tụng.
Tùy tính chất,
mức độ của hành vi mà Pháp lệnh có quy định khác nhau về hình thức xử phạt, mức
phạt tiền và có áp dụng hình thức xử phạt bổ sung hoặc biện pháp khắc phục hậu
quả hay không. Theo đó:
- Các hành vi
bị áp dụng mức phạt tiền cao nhất (từ 30 đến 40 triệu động) được áp dụng đối
với:
+ Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành
vi tác động dưới bất kỳ hình thức nào với Thẩm phán, thành viên Hội đồng
xét xử nhằm làm cho việc giải quyết vụ án, vụ việc không khách quan, không đúng
pháp luật (khoản 3 Điều 20).
+ Luật sư (khi
tham gia tố tụng với tư cách hành nghề luật sư) có hành vi như: Lừa dối, đe
dọa, mua chuộc hoặc sử dụng vũ lực buộc người bị hại khai báo
gian dối hoặc buộc người khác ra làm chứng gian dối (khoản 5 Điều 13); đe dọa, sử dụng vũ lực hoặc có hành vi khác xâm hại sức khỏe của người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng (khoản 4 Điều 15, khoản 4 Điều 21); cản trở hoạt
động xác minh, thu thập chứng cứ của cơ quan, người có thẩm quyền (khoản 5 Điều
18); đưa tin sai sự thật (khoản 4 Điều 22).
- Các hành vi
bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung “Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính”, gồm: Hành vi tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật (Điều 9);
cản trở đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tham gia tố tụng hình sự
(Điều 12); cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ (Điều 13 và Điều 18);
xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, xâm hại sức khỏe của người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng (Điều 15); cản trở đại diện của cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân tham gia tố tụng theo yêu cầu của Tòa án (Điều 17); cản
trở việc cấp, giao, nhận, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án (Điều
19); xúc phạm, xâm hại đến sự tôn nghiêm, uy tín của Tòa án; xúc phạm danh dự,
nhân phẩm, uy tín, xâm hại sức khỏe của người có thẩm quyền hoặc những người
khác thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của Tòa án (Điều 21); đưa tin sai sự thật
(Điều 22); vi phạm nội quy phiên tòa, phiên họp (Điều 23) và hành vi khác cản
trở hoạt động tố tụng (Điều 24).
- Các hành vi
bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, gồm:
+ Hành vi tiết
lộ bí mật điều tra (Điều 10): tùy từng trường hợp bị áp dụng các biện pháp (1) Buộc thu hồi
thông tin, tài liệu, dữ liệu, vật có chứa bí mật điều tra; (2) Buộc gỡ bỏ
thông tin, tài liệu, dữ liệu có chứa bí mật điều tra; (3) Buộc nộp lại số
lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi.
+ Hành vi đưa
tin sai sự thật (Điều 22): tùy từng trường hợp bị áp dụng các biện pháp: (1) Buộc xin lỗi
công khai; (2) Buộc thu hồi thông tin sai sự thật; (3) Buộc gỡ bỏ
thông tin sai sự thật; (4) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có
được do thực hiện hành vi.
+ Hành vi vi
phạm nội quy phiên tòa, phiên họp (Điều 23): tùy từng trường hợp bị áp dụng các
biện pháp: (1) Buộc thu hồi, nộp lại tư liệu, tài liệu, hình ảnh; (2) Buộc nộp
lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi; (3) Buộc khôi phục lại
tình trạng ban đầu.
2.8. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản
trở hoạt động tố tụng (Chương III)
a) Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản
trở hoạt động tố tụng (từ Điều 25 đến Điều 32)
Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi cản trở hoạt động tố tụng bao gồm:
- Các chức danh có thẩm quyền xử phạt của Tòa án
nhân dân (Điều 25), gồm: (1) Thẩm phán chủ tọa phiên tòa; (2) Chánh án Tòa án
nhân dân cấp huyện; (3) Chánh tòa chuyên trách Tòa án nhân dân
cấp tỉnh; (4) Chánh án Tòa án quân sự khu vực; (5) Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh; (6) Chánh tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao; (7) Chánh án Tòa án quân sự quân khu và
tương đương.
- Các chức danh có thẩm quyền xử phạt của Công an nhân dân, Bộ đội biên
phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư (các điều từ Điều 26 đến
Điều 31), gồm những chức danh trong các cơ quan này có thẩm quyền xử phạt theo
Luật Xử lý vi phạm hành chính và có thẩm quyền giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm, điều tra hoặc được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp (Điều 32).
b) Xác định thẩm quyền xử phạt (Điều 33 đến Điều 40)
Để thuận tiện cho việc áp dụng Pháp lệnh, giúp chủ thể có thẩm quyền và cá
nhân, tổ chức bị áp dụng các biện pháp xử phạt dễ dàng kiểm tra tính đúng đắn
của việc áp dụng pháp luật, Pháp lệnh quy định rõ việc xác định thẩm quyền xử
phạt của Tòa án nhân dân, Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển,
Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp (các điều từ
Điều 33 đến Điều 40) theo hướng chỉ rõ đến từng điểm, khoản/hành vi mà các chủ
thể có thẩm quyền xử phạt.
c) Phân định thẩm quyền xử phạt (Điều 41)
Để phù hợp với đặc thù về thẩm quyền của các cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; đồng thời, để khắc phục vướng mắc của thực tiễn[4], bảo đảm mọi hành vi cản trở
hoạt động tố tụng phải được xử lý nghiêm minh, thì ngoài việc quy định thẩm
quyền xử phạt của các cơ quan có thẩm quyền xử phạt theo Luật Xử lý vi phạm
hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng các cơ quan này, Pháp lệnh
phân định thẩm quyền xử phạt cho người có thẩm quyền của Công an nhân dân, Tòa
án nhân dân, Tòa án quân sự, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp xử phạt đối với
hành vi cản trở hoạt động tố tụng khi Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự, Cơ quan điều tra của
Viện kiểm sát quân sự Trung ương và Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân
thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động tố tụng (là những cơ quan không được Luật Xử
lý vi phạm hành chính quy định có thẩm quyền xử phạt). Cụ thể như sau:
- Người có thẩm quyền xử phạt trong Tòa án nhân dân có thẩm quyền xử phạt
theo quy định tại Điều 25 và Điều 33 của Pháp lệnh đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng kể từ thời điểm
Tòa án nhân dân nhận, thụ lý vụ án, vụ việc.
- Người có thẩm quyền xử phạt trong
Tòa án quân sự có thẩm quyền xử phạt theo quy định tại Điều 25 và Điều 33 của
Pháp lệnh này đối với: (1) Hành vi cản trở hoạt động tố tụng kể từ thời điểm Tòa
án quân sự nhận, thụ lý vụ án; (2) Hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong giai
đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra của cơ quan, người có
thẩm quyền trong Viện kiểm sát quân sự, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát quân
sự trung ương, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và các cơ quan trong
Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trừ
Bộ đội Biên phòng và Cảnh sát biển; (3) Hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong
giai đoạn truy tố của cơ quan, người có thẩm quyền trong Viện kiểm sát quân sự.
- Người có thẩm quyền xử phạt trong Công an nhân dân có
thẩm quyền xử phạt theo quy định tại Điều 26 và Điều 34 của Pháp lệnh này đối
với: (1) Hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong giai đoạn giải quyết nguồn tin
về tội phạm, khởi tố, điều tra của cơ quan, người có thẩm quyền trong Công an
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao; (2) Hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong giai đoạn truy tố của cơ
quan, người có thẩm quyền trong Viện kiểm sát nhân dân.
- Người có thẩm quyền xử phạt trong Bộ đội Biên phòng có
thẩm quyền xử phạt theo quy định tại Điều 27 và Điều 35 của Pháp lệnh này đối
với hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về
tội phạm, khởi tố, điều tra của cơ quan, người có thẩm quyền trong Bộ đội Biên
phòng.
- Người có thẩm quyền xử phạt trong Cảnh sát biển có thẩm
quyền xử phạt theo quy định tại Điều 28 và Điều 36 của Pháp lệnh này đối với
hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội
phạm, khởi tố, điều tra của cơ quan, người có thẩm quyền trong Cảnh sát biển.
- Người có thẩm quyền xử phạt trong Hải quan có thẩm
quyền xử phạt theo quy định tại Điều 29 và Điều 37 của Pháp lệnh này đối với
hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội
phạm, khởi tố, điều tra của cơ quan, người có thẩm quyền trong Hải quan.
- Người có thẩm quyền xử phạt trong Kiểm lâm có thẩm
quyền xử phạt theo quy định tại Điều 30 và Điều 38 của Pháp lệnh này đối với
hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội
phạm, khởi tố, điều tra của cơ quan, người có thẩm quyền trong Kiểm lâm.
- Người có thẩm quyền xử phạt trong
Kiểm ngư có thẩm quyền xử phạt theo quy định tại Điều 31 và Điều 39 của Pháp
lệnh này đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong giai đoạn giải quyết
nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra của cơ quan, người có thẩm quyền trong
Kiểm ngư.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân có thẩm quyền xử phạt theo quy định tại Điều
32 và Điều 40 của Pháp lệnh này đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong
giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
của cơ quan, người có thẩm quyền, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền của Tòa án quân sự.
2.9. Thủ tục xử
phạt vi phạm hành chính (Điều 42)
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản
trở hoạt động tố tụng được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 55 đến
Điều 68 của Luật Xử lý vi phạm hành chính và quy định khác của pháp luật có
liên quan.
Riêng đối với
cá nhân, tổ chức có hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát nhân
dân, Viện kiểm sát quân sự, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát quân sự trung ương, Cơ quan điều tra
trong Quân đội nhân dân, các cơ quan trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra (trừ Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển) thì
do không có thẩm quyền xử phạt mà chỉ có thẩm quyền lập biên bản nên người có
thẩm quyền lập biên bản phải gửi biên bản và các tài liệu khác có liên quan cho
người có thẩm quyền xử phạt (theo phân định thẩm quyền tại Điều 41 của Pháp
lệnh) để xem xét xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi
phạm hành chính, Pháp lệnh và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2.10. Lập biên
bản vi phạm hành chính (Điều 43)
Điều 43 của
Pháp lệnh quy định người có thẩm quyền lập biên bản về hành vi cản trở hoạt
động tố tụng của từng cơ quan Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự, Viện kiểm sát
nhân dân, Viện kiểm sát quân sự, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát quân sự trung ương, Công an nhân
dân, Quân đội nhân dân, Bộ đội Biên phòng,
Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư theo hướng bảo đảm những người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người đang thi hành công vụ kịp thời lập biên bản
về hành vi cản trở hoạt động tố tụng. Việc lập biên bản vi phạm hành chính thực hiện theo quy định tại Điều 58 của Luật
Xử lý vi phạm hành chính và quy định khác của pháp luật có liên quan và người
có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức liên quan nếu
có lỗi trong việc lập biên bản, chuyển biên bản vi phạm hành chính, chuyển hồ
sơ vụ vi phạm thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
2.11. Chuyển hồ sơ vụ vi phạm có
dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, chuyển hồ sơ vụ vi phạm để
xử phạt hành chính (Điều 44)
Để bảo đảm nguyên tắc
mọi hành vi vi phạm pháp luật phải được xử lý đúng với tính chất, mức độ vi
phạm thì Pháp lệnh quy định: Khi xem xét vụ vi phạm để quyết định xử phạt vi
phạm hành chính, nếu xét thấy hành vi vi phạm quy định tại Pháp lệnh này có dấu
hiệu tội phạm thì người có thẩm quyền xử phạt phải chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm
cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự.
Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng hình sự có trách nhiệm xem xét, kết luận vụ việc và trả
lời kết quả giải quyết bằng văn bản cho người có thẩm quyền đã chuyển hồ sơ
trong thời hạn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự; trường hợp không
khởi tố vụ án hình sự thì trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày có quyết định
không khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải trả
hồ sơ vụ việc cho người có thẩm quyền xử phạt đã chuyển hồ sơ đến.
Việc chuyển hồ sơ vụ
vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính được thực hiện theo quy định tại Điều 62 và
Điều 63 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
2.12. Thi hành
quyết định xử phạt và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
(Điều 45)
Việc thi hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
vi phạm hành chính được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 69 đến
Điều 88 của Luật Xử lý vi phạm hành chính và quy định khác của pháp luật có
liên quan.
Pháp lệnh quy định người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế bao gồm:
(1) Chủ tịch Ủy
ban nhân dân các cấp;
(2) Chánh án
Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án
quân sự khu vực, Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Chánh tòa
chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao;
(3) Người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế trong Công an nhân dân, Bộ
đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư được thực hiện theo
quy định tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 1 Điều 87 của Luật Xử lý vi phạm
hành chính.
2.13. Nguyên tắc,
thẩm quyền, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm
hành chính (Điều 46)
Nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục áp dụng, việc hủy bỏ hoặc thay thế các biện
pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt
động tố tụng được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 120 đến Điều 129
của Luật Xử lý vi phạm hành chính và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Pháp lệnh quy
định lực lượng Công an nhân dân đang tham gia bảo vệ phiên tòa có trách nhiệm
buộc người vi phạm nội quy phiên tòa rời khỏi phòng xử án hoặc bắt giữ, áp giải
theo quyết định của chủ tọa phiên tòa.
[1] Bộ luật Tố
tụng dân sự: “Điều 495. Xử lý hành vi không thi hành quyết định của
Tòa án về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án hoặc đưa tin sai sự thật
nhằm cản trở việc giải quyết vụ án của Tòa án
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thi hành quyết định
của Tòa án về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó
đang quản lý, lưu giữ thì có thể bị Tòa án xử phạt hành chính theo quy định của
pháp luật.
2. Người có hành vi đưa tin sai sự thật nhằm cản trở
Tòa án giải quyết vụ án thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.
[2] Luật Tố
tụng hành chính: “Điều 324. Xử lý hành
vi đưa tin sai sự thật nhằm cản trở việc giải quyết vụ án của Tòa án
Người có hành vi đưa tin sai sự thật nhằm cản trở Tòa
án giải quyết vụ án thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi
phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật”.
[3] Luật Tố
tụng hành chính: “Điều 325. Xử lý hành
vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân không thi hành quyết định của Tòa án về việc
cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thi hành quyết định
của Tòa án về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó
đang quản lý, lưu giữ thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật”.
[4] Luật Xử
lý vi phạm hành chính không quy định về người có thẩm quyền xử phạt của Viện kiểm
sát nhân dân, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát quân sự, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát quân sự Trung ương và Cơ quan
điều tra trong Quân đội nhân dân, vì vậy đã dẫn đến khó khăn, vướng mắc về việc
xác định thẩm quyền xử phạt đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng của các
cơ quan này.
0 Nhận xét