CHUYÊN
ĐỀ 1
Vị trí, vai trò, ý nghĩa và chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật
I.
Vị trí, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
1.
PBGDPL tác động vào ý thức của đối tượng
Với nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, PBGDPL giúp
nâng cao nhận thức và tác động trực tiếp đến ý thức của của người được tác động.
- Hoạt động PBGDPL tạo ra sự quan tâm đối với pháp luật.
Từ chỗ không để ý đến pháp luật, đối tượng được PBGDPL bắt đầu dành sự quan tâm
của mình đối với pháp luật, đồng thời sự hiểu biết về pháp luật cũng ngày càng
được nâng cao.
- Thông qua PBGDPL tạo
được niềm tin vào pháp luật. Khi đã có niềm tin, đối tượng sẽ biết tự điều
chỉnh hành vi của mình theo đúng các quy định của pháp luật. Không những thế,
họ còn có ý thức phê phán, lên án những hành vi vi phạm, đi ngược lại với các
quy định của pháp luật.
2. PBGDPL là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục
chính trị tư tưởng
Ý thức pháp luật là một bộ phận của
ý thức chính trị. Vì vậy, khi thực hiện PBGDPL sẽ tạo ra khả năng cho việc giáo
dục chính trị, hình thành ở đối tượng giáo dục những hiểu biết nhất định về
chính trị. Ngược lại, giáo dục chính trị có những sự đan xen nhất định trong
nội dung của mình những tư tưởng pháp lý.
3.
Giáo dục ý thức pháp luật có quan hệ chặt chẽ với đạo đức
Pháp luật là cơ sở của việc hình thành đạo đức mới. Các
nguyên tắc căn bản của đạo đức mới được thể chế hóa thành các quy phạm pháp
luật. Do đó, pháp luật bảo vệ và phát triển đạo đức, bảo vệ tính công bằng, chủ
nghĩa nhân đạo, tự do, lòng tin và lương tâm con người. Giáo dục đạo đức tạo
nên những tiền đề cần thiết để hình thành ở công dân sự tôn trọng sâu sắc đối
với pháp luật. Ngược lại, giáo dục pháp luật tạo ra khả năng thiết lập trong
đời sống thực tiễn thường ngày những nguyên tắc của đạo đức, củng cố các nghĩa
vụ đạo đức, thiết lập lập trường không dung thứ với các biểu hiện chống đối xã
hội.
Giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cùng tác động vào
lòng tin của con người đối với sự cần thiết tuân theo những nguyên tắc cơ bản
của đạo đức mới, lòng tin đối với giá trị xã hội của pháp luật và lòng tin đối
với những quy phạm đạo đức và pháp luật trong đời sống thực tế hàng ngày, hướng
đến hoàn thiện những mối quan hệ lẫn nhau giữa con người với con người.
4.
Giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thi hành pháp
luật
Việc thực thi và chấp hành pháp luật phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có yếu tố ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý
của Nhân dân. Pháp luật chỉ có thể có hiệu lực và đi vào cuộc sống khi nó được
người dân tự giác tuân thủ, chấp hành. Bởi thế có thể coi ý thức pháp luật như
là tiền đề tư tưởng cho sự củng cố và phát triển nền pháp chế. Trong thực tế,
không phải lúc nào việc chấp hành pháp luật cũng trở thành ý thức tự nguyện.
Bởi vậy, trong điều kiện hiện nay, vai trò của giáo dục pháp luật là hình thành
ý thức pháp luật, góp phần giúp mỗi người nhận ra tính công bằng của pháp luật,
chấp hành pháp luật trên cơ sở tự nguyện, xuất phát từ nhu cầu của bản thân, mà
không phải do miễn cưỡng phải chấp hành do lo sợ bị trừng phạt. Tuân thủ pháp
chế còn phụ thuộc không nhỏ vào trình độ văn hóa pháp lý của Nhân dân. Trình độ
văn hóa pháp lý không chỉ phản ánh hiểu biết các quy định của pháp luật cần
thiết cho mỗi con người, gắn liền với các nghĩa vụ của họ mà còn là sự hiểu
biết một cách sâu sắc ý nghĩa của pháp luật trong cuộc sống xã hội, sự tôn trọng
pháp luật và biết vận dụng pháp luật một cách đúng đắn.
Tóm lại, PBGDPL tạo điều kiện cho việc nâng cao hiểu biết
pháp luật, văn hóa pháp lý của người dân. Đồng thời, sự phát triển của văn hóa
pháp lý cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động thực thi pháp luật của các
cơ quan Nhà nước. Hiệu quả tác động này lại phụ thuộc vào trình độ văn hóa pháp
lý của đội ngũ cán bộ, công chức; phụ thuộc vào việc họ thực thi đúng pháp
luật, có thái độ tôn trọng pháp luật. Bởi vậy, thực hiện nhiệm vụ nâng cao văn
hóa pháp lý đòi hỏi không chỉ nâng cao trình độ văn hóa chung của Nhân dân mà
còn phải tăng cường năng lực thực thi pháp luật cho độ ngũ cán bộ, công chức
các cơ quan Nhà nước. Một trong những nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp
luật là do trình độ văn hóa pháp lý của một bộ phận Nhân dân, trong đó có cả
cán bộ, công chức còn thấp.
Trong điều kiện xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh thì một trong những điều kiện quan trọng là làm sao để người dân được
tham gia tích cực vào các hoạt động quả lý xã hội bằng pháp luật. Tăng cường
dân chủ cũng có nghĩa là mở rộng sự tham gia của người dân vào các hoạt động
lập pháp, hành pháp và tư pháp, thực hiện giám sát hoạt động của các cơ quan
Nhà nước. Chính điều này đã nâng cao trách nhiệm của mỗi người trong xã hội.
PBGDPL góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự lớn mạnh của tính tích cực,
bảo đảm hành trang kiến thức pháp lý cần thiết cho sự tham gia vào hoạt động
xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật.
II. Chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật
1. Chủ trương, chính sách của
Đảng
Trong những năm qua, công tác PBGDPL luôn được Đảng,
Nhà nước, cấp ủy, chính quyền, địa phương quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện,
coi đây là bộ phận của công tác chính trị, tư tưởng, khâu đầu tiên của thi hành
pháp luật, là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị với nhiều chủ trương,
chính sách mới nhằm tăng cường công tác PBGDPL; bảo đảm quyền con người, quyền
công dân. Trong nhiều văn kiện, Đảng ta đều khẳng định vị trí, vai trò, ý nghĩa
của công tác PBGDPL; xác định rõ mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp tăng
cường công tác này; giao nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, các cấp và cả hệ thống
chính trị trong triển khai thực hiện.Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thức
XII đã xác định “Trong những năm tới, đẩy
mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời, đề
ra yêu cầu “tạo chuyển biến mạnh
mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp
luật" và nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ“nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân”, “… chăm lo, giải quyết tốt những vấn đề
bức thiết, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân...”.
Các yêu cầu trên cùng với các quan điểm, chủ
trương, chính sách về PBGDPL của Đảng đã được đề ra tại Chỉ thị số 32-CT/TWngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân;
Thông báo Kết luận số 74-TB/TW
ngày 11/5/2007,
Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW tạo thành cơ sở chính
trị đòi hỏi phải được kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa bằng những giải pháp đổi
mới cụ thể.
Ngày 20/6/2020, Ban
Bí thư đã ban hành Kết luận số 80-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số
32-CT/TW (Kết luận
số 80/KL-TW). Trong
đó, xác định:
- PBGDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng; là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; phát huy sự tham gia chủ
động, tích cực của Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã
hội, xã hội - nghề nghiệp và của mọi công dân trong công tác PBGDPL và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
- Đa dạng hóa nguồn lực xã hội cho công tác PBGDPL. Đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng kinh phí, ưu tiên
bố trí nguồn lực cho các nhóm đối tượng đặc thù yếu thế, đồng bào dân tộc,
người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn.
-Kết hợp chặt chẽ công tác PBGDPL với nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật; ý thức chấp hành pháp luật là thước đo
hiệu quả công tác PBGDPL. Bảo đảm tính đồng bộ, xuyên suốt, hiệu quả giữa
PBGDPL với xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật.
-Triển khai công tác PBGDPL gắn với việc xây
dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật;phát huy mạnh mẽ vai trò, trách nhiệm của các lực
lượng Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng; Mặt trận và đoàn thể nhân dân trong
công tác PBGDPL.
- Đổi mới tổ chức, hoạt động của cơ quan, đơn vị tham mưu, thực hiện quản lý
nhà nước về PBGDPL. Kiện
toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL các cấp. Chú ý củng cố đội ngũ người làm công tác PBGDPL; có chính sách thích hợp để sử dụng đội ngũ người
biết tiếng dân tộc thiểu số, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp thực
hiện PBGDPL kịp
thời, thực chất, hiệu quả.
-Nội dung PBGDPL cần bám sát thực tiễn cuộc
sống và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong từng giai
đoạn, địa bàn, đối tượng cụ thể; Kịp
thời thông tin đầy đủ ngay từ khi soạn thảo các vấn đề có tác động lớn
đến xã hội, các vấn đề được xã hội
quan tâm hoặc cần định hướng dư luận xã hội để tạo sự đồng thuận cao trong thực
thi chính sách, pháp luật.Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức, cách thức PBGDPL, bảo đảm phù hợp với nhu cầu xã hội và từng nhóm đối
tượng. Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT, kỹ thuật số, mạng xã hội trong công tác PBGDPL; phát huy sức mạnh của các
phương tiện thông tin đại chúng; ưu tiên khung giờ thu hút đông đảo khán, thính
giả đối với các chuyên trang, chuyên mục
về pháp luật;nâng cao chất lượng các hoạt
động đối thoại, giải đáp, tư vấn pháp luật.Xây dựng và nhân rộng các mô
hình hay, cách làm hiệu quả gắn với từng
chủ đề nội dung, đối tượng, đổi mới
toàn diện công tác PBGDPL trong nhà trường.Những chủ trương, chính sách của Đảng đối với công tác PBGDPL, tổ chức thi
hành pháp luật là một trong những yếu tố quyết định tạo nên sự chuyển biến và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này.
2. Pháp luật hiện hành của Nhà nước về công tác PBGDPL
Thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, ngày 20/6/2012, Quốc hội khóa XII thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu
lực thi hành ngày 01/01/2013; tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất, góp phần đưa công tác PBGDPL đi vào
nề nếp, bài bản, tạo nên những bước phát triển mới.Để thi hành Luật, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số
28/2013/NĐ-CP ngày 04/4/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật PBGDPL; Nghị định số 52/2015/NĐ-CP ngày 28/5/2015 về cơ sở dữ liệu
quốc gia về pháp luật. Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng đã ban hành các văn
bản để quy định chi tiết trong ngành, lĩnh vực quản lý[1].
Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các Nghị định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp đều xác định trách nhiệm của các cơ quan
hành chính nhà nước trong bảo đảm triển khai thực hiện công tác PBGDPL.
Luật PBGDPL năm 2012 xác
định PBGDPL là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước
giữ vai trò nòng cốt. Nhà nước bảo đảm nguồn lực cần thiết cho công tác
PBGDPL; quan tâm PBGDPL cho một số đối tượng đặc thù, bao gồm: người dân ở vùng
dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân; người lao động
trong các doanh nghiệp; nạn nhân bạo lực gia đình; người khuyết tật; người đang
chấp hành hình phạt tù, người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người đang bị áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng
án treo.
Luật quy định công dân có quyền được
thông tin pháp luật và có trách nhiệm chủ động tìm hiểu,
học tập pháp luật. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm quyền được thông tin, tìm
hiểu, học tập pháp luật của công dân. Nhà nước thực hiện xã hội hóa công tác
PBGDPL, khuyến khích và có chính sách để các tổ chức, cá nhân tham gia,
đóng góp cho PBGDPL; phát triển các dịch vụ pháp lý hỗ trợ công tác này.
Đây chính là những điểm mới, tiến bộ của Luật PBGDPL năm 2012.
Bên cạnh đó, Luật PBGDPL
lấy ngày 09 tháng 11 hàng năm là
Ngày Pháp luật nước Cộng hoà XHCN Việt Nam nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật,
giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức, nhân dân
và doanh nhân.
Luật PBGDPL năm 2012 xác
định vai trò tầm quan trọng của công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường trong việc đào tạo thế hệ công
dân trẻ của đất nước, trong đó khẳng định giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục
của hệ thống giáo dục quốc dân được lồng ghép trong chương trình giáo dục của
các cấp học và trình độ đào tạo; là một nội dung trong chương trình giáo dục
trung học cơ sở, trung
học phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học.Theo đó nội dung giáo dục
pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân được xây dựng
phù hợp với từng cấp học và trình độ đào tạo, phù hợp với mục tiêu giáo dục,
ngành nghề đào tạo, bảo đảm tính thống nhất, phổ thông, cơ bản, thiết thực,
đồng bộ và có hệ thống.
Nhằm huy động sức
mạnh cũng như nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong công tác
PBGDPLLuật quy định trách nhiệm chung của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, đồng thời quy định thêm trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành chương trình giáo dục pháp luật trong các cấp học và trình độ đào tạo; quy định thời
gian, lộ trình hoàn thành việc chuẩn hóa giáo viên dạy môn giáo dục công dân,
giáo viên, giảng viên dạy pháp luật; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban
hành chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở dạy nghề. Bên cạnh đó,
trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, Luật quy định trách nhiệm của Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
các cấp, cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên
chức, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức hành
nghề về pháp luật, tổ chức xã hội nghề nghiệp về pháp luật, cơ sở đào tạo luật,
cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp, cơ sở giáo dục của hệ thống giáo
dục quốc dân và gia đình.
Có thể đánh giá, thể chế, chính sách về PBGDPL về cơ bản đã hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp
lý thống nhất, đồng bộ xác định rõ quyền được thông tin pháp luật của người dân
cũng như trách nhiệm của các cấp, các ngành, nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu
quả công tác tổ chức thực thi pháp luật, gắn kết với công tác xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống; nâng cao nhận thức pháp
luật, dân trí pháp lý, từng bước bảo đảm quyền được thông tin pháp luật của
công dân, xây dựng lối sống tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật trong
mỗi người dân. Nhờ đó, công tác PBGDPL được triển khai bài bản, hiệu quả và thực
chất hơn, nội dung và hình thức phong phú hơn, bám sát nhu cầu của người dân và
yêu cầu của việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của các Bộ, ngành,
địa phương; gắn với những vấn đề dư luận xã hội quan tâm, góp phần nâng cao ý
thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, gắn kết chặt chẽ giữa công tác xây dựng,
thi hành với bảo vệ pháp luật. Những kết quả mang lại từ thực tiễn đã khẳng
định vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác PBGDPL trong đời sống pháp luật,
không chỉ nâng cao nhận thức pháp luật, văn hóa pháp lý của người dân mà còn
góp phần vào việc đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật,
góp phần hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt nam XHCN.
CHUYÊN
ĐỀ 2
Kỹ
năng xây dựng kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật
I.
SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PBGDPL
Xây dựng kế hoạch là việc đề ra một cách có hệ thống
những công việc dự định làm trong một thời gian nhất định, với cách thức, trình
tự, thời hạn tiến hành cụ thể.
Kết quả của từng lĩnh vực công tác, từng hoạt động phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có một phần không nhỏ là việc
lập kế hoạch triển khai các mặt công tác và hoạt động đó. Việc xây dựng kế
hoạch PBGDPL là xuất phát từ chính những đặc thù của công tác này.
Thứ nhất, đặc thù về đối tượng cần được PBGDPL
Đó là cán bộ, chiến sĩ trong quân đội cần được phổ biến,
giáo dục pháp luật là rất đa dạng.
Về trình độ văn hóa, có những người có trình độ văn hóa
tốt nghiệp phổ thông, có người tốt nghiệp cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ ở những
lĩnh vực khác nhau và đang công tác tại những địa bàn khác nhau ở trung ương,
thành phố, thị xã, biên giới, cửa khẩu, hải đảo…
Các lĩnh vực quản lý khác nhau, địa bàn khác nhau đã tạo
ra sự đa dạng về kiến thức trong các đối tượng cần được phổ biến. Sự khác nhau
về trình độ và lĩnh vực, địa bàn quản lý trong lực lượng quân đội đòi hỏi phải
có kế hoạch để xác định nội dung pháp
luật, hình thức chuyển tải thông tin, kiến thức pháp luật đến họ cho phù hợp.
Thứ hai, đặc thù về chủ thể tham gia PBGDPL
PBGDPL được xác định là nhiệm vụ chung của các cấp, các
ngành, chính vì vậy PBGDPL không chỉ là trách nhiệm của riêng của cơ quan, đơn
vị, mà là trách nhiệm của từng cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nhân dân. Kế
hoạch PBGDPL là cơ sở để huy động các cán bộ, chiến sĩ tham gia triển khai công
tác PBGDPL.
Thứ ba, công tác PBGDPL đòi hỏi tính tổ chức cao, cần được triển khai
kịp thời, thường xuyên, liên tục và yêu cầu kết hợp giữa việc triển khai đại
trà với thực hiện có trọng tâm, trọng điểm
Một trong những yêu cầu đầu tiên để một văn bản nào đó
được thực thi trong cuộc sống là văn bản đó phải được kịp thời phổ biến, giới
thiệu đến các đối tượng chịu sự điều chỉnh của văn bản đó. Đồng thời, PBGDPL là
cả một quá trình mà hiệu quả của nó không thể nhìn thấy ngay tức thời. Do đó,
PBGDPL phải được làm liên tục, thường xuyên với phương châm “mưa dầm, thấm
lâu”.
Từ những đặc thù nêu trên, cho thấy việc xây dựng kế
hoạch PBGDPL là hết sức cần thiết, cụ thể là:
- Với việc xác định rõ đối tượng, nội dung, hình thức,
biện pháp, tiến độ và phân công thực
hiện cụ thể, kế hoạch PBGDPL góp phần triển khai công tác PBGDPL được thực hiện
thường xuyên, liên tục, khắc phục tình trạng tùy tiện, lúc làm không thường
xuyên.
- Trong khi phải thực hiện cùng lúc các nhiệm vụ chính
trị, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, giữ vững độc lập chủ quyền và thực hiện công tác
quản lý nhà nước, kế hoạch PBGDPL tạo điều kiện cho cán bộ, chiến sĩ làm công
tác PBGDPL chủ động hơn trong tổ chức công việc.
- Kế hoạch PBGDPL là cơ sở để các cơ quan, đơn vị thuộc
Bộ Quốc phòng bố trí kinh phí cho công tác này.
- Kế hoạch PBGDPL là căn cứ để kiểm tra, đánh giá, khen
thưởng việc thực hiện nhiệm vụ PBGDPL ở cơ quan, đơn vị trong từng giai đoạn.
II.
YÊU CẦU VÀ CĂN CỨ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PBGDPL
1. Yêu cầu đối với kế hoạch PBGDPL
Kế hoạch PBGDPL trong lực lượng quân đội nhân dân trong
từng năm, từng giai đoạn cần bảo đảm các yêu cầu sau:
Thứ nhất, kế
hoạch PBGDPL phải có mục tiêu, giải pháp, tiến độ cụ thể, sát hợp, có tính khả
thi và hiệu quả.
Kế hoạch càng chi tiết, càng cụ thể, càng tạo điều kiện
thuận lợi khi triển khai trên thực tế. Đồng thời, trong từng giai đoạn kế hoạch
PBGDPL phải bám sát tình hình của cơ quan, đơn vị, các điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội, đặc biệt là phải phù hợp với nguồn nhân lực và kinh phí cho công
tác này để đảm bảo hiệu quả thực sự.
Thứ hai, các
nhiệm vụ đặt ra trong kế hoạch PBGDPL cần kết hợp giải quyết toàn diện các yêu
cầu của công tác PBGDPL với các vấn đề trọng tâm ở cơ quan, đơn vị và tại địa
bàn nơi có trụ sở.
Mục tiêu chung của công tác PBGDPL là nâng cao hiểu biết
cho đối tượng, hình thành ở họ lòng tin vào pháp luật, tạo lập thói quen, ý
thức tự giác chấp hành pháp luật và biết áp dụng, thực thi pháp luật trong công
việc hàng ngày cũng như sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của bản thân. Kế hoạch PBGDPL cần phải hướng tới việc thực hiện các mục tiêu
chung đó, đồng thời cũng nhằm giải quyết những vấn đề rất cụ thể của cơ quan,
đơn vị trong giai đoạn triển khai. Ví dụ, các vấn đề về chế độ, chính sách đối
với quân nhân, sĩ quan, liệt sĩ chính sách đối với người có công…
2. Căn cứ xây dựng kế hoạch PBGDPL
Kế hoạch PBGDPL được xây dựng dựa trên một số căn cứ sau
đây:
- Trên cơ sở Kế hoạch, chương trình PBGDPL dài hạn của
Chính phủ, Hội đồng phối hợp PBGDPL trung ương và Bộ Tư pháp - cơ quan quản lý
nhà nước về PBGDP, hàng năm, Bộ Quốc phòng đều có kế hoạch triển khai công tác
PBGDPL tại cơ quan mình. Do vậy, kế hoạch PBGDPL tại các cơ quan, đơn vị thuộc
Bộ Quốc phòng cần được xây dựng dựa trên chương trình, kế hoạch và sự chỉ đạo,
hướng dẫn của Bộ Quốc phòng và cơ quan quản lý nhà nước về PBGDPL.
- Kế hoạch PBGDPL cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội
nhân dân cần căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị trong
từng giai đoạn, đặc biệt là tình hình thực tế ở cơ quan, đơn vị. Đây là căn cứ
quan trọng để xây dựng kế hoạch vì hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước về
PBGDPL mang tính hướng dẫn chung, trong khi ở mỗi cơ quan, đơn vị lại có những
đặc thù riêng liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ chính trị, những
vấn đề trọng tâm, trọng điểm riêng trong từng thời điểm.
- Công tác PBGDPL được thực hiện xuất phát từ lợi ích của
Nhà nước, của xã hội và của các tầng lớp nhân dân, trong đó có cán bộ, chiến sĩ
trong quân đội nhân dân. Chính vì vậy, việc xây dựng Kế hoạch PBGDPL nhất thiết
phải dựa trên nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ, chiến sĩ trong từng năm,
từng giai đoạn. Khi thông tin pháp luật được phổ biến, giới thiệu đáp ứng được
nhu cầu của cán bộ, chiến sĩ cần tìm hiểu thì công tác này sẽ mang lại hiệu quả
hơn so với việc thực hiện theo ý chí chủ quan của cấp trên hoặc của cán bộ thực
hiện công tác PBGDPL.
III.
QUY TRÌNH XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PBGDPL
1. Giai đoạn chuẩn bị
Trước khi xây dựng dự thảo Kế hoạch
PBGDPL, cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL trong quân đội nhân dân cần thực
hiện một số công việc chuẩn bị sau:
Thứ nhất, lựa chọn
loại Kế hoạch PBGDPL cần xây dựng
Có nhiều loại kế hoạch PBGDPL như: Kế hoạch PBGDPL theo
thời gian, gồm: Kế hoạch dài hạn (từ ba đến năm năm), kế hoạch ngắn hạn (hàng
năm hoặc hàng quý, hàng, tháng); kế hoạch tuyên truyền một nội dung pháp luật
(ví dụ tuyên truyền về bầu cử Quốc hội, bảo vệ môi trường, thuế thu nhập cá
nhân…) hoặc một văn bản pháp luật cụ thể (ví dụ, tuyên truyền về Luật Nghĩa vụ
quân sự; Luật Lực lượng dự bị động viên…); kế hoạch tổ chức hoạt động PBGDPL cụ
thể (ví dụ, Kế hoạch tổ chức Hội nghị tập huấn; Kế hoạch tổ chức thi tìm hiểu
pháp luật…). Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL
xác định loại kế hoạch PBGDPL cần xây dựng. Ở cấp trung ương, tỉnh, huyện cần
xây dựng kế hoạch PBGDPL hàng năm làm cơ sở cho việc tổ chức thực hiện công tác
PBGDPL. Ngoài ra, tùy theo yêu cầu của đợt tuyên truyền văn bản pháp luật quan
trọng hoặc theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị có thể xây
dựng các kế hoạch PBGDPL cụ thể khác.
Thứ hai, xác định căn
cứ xây dựng kế hoạch
Tùy thuộc vào loại kế hoạch, cán bộ, chiến sĩ làm công
tác PBGDPL xác định các căn cứ để xây dựng. Cụ thể là các chương trình của
Chính phủ, kế hoạch, hướng dẫn của Hội đồng phối hợp PBGDPL trung ương, cơ quan
quản lý nhà nước về PBGDPL, của Bộ Quốc phòng, các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị,
bảo vệ an ninh tổ quốc và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa bàn nơi
đặt trụ sở.
Thứ ba, xác định mức
độ hiểu biết và nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ, nhân dân địa phương
Để xác định được mức độ hiểu biết và nhu cầu tìm hiểu
pháp luật của cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL có thể tiến hành khảo sát
bằng việc hỏi trực tiếp hoặc phát phiếu điều tra, thông qua đề xuất của cán bộ,
chiến sĩ ở các cơ quan, đơn vị hoặc nắm bắt thông qua việc giao tiếp hàng ngày
với cán bộ, chiến sĩ, hoặc tại cuộc họp, giao ban, giải quyết các công việc
liên quan đến cán bộ, chiến sĩ…Mục đích chính là để đánh giá xem cán bộ và chiến
sĩ hiểu biết pháp luật ở mức độ nào và họ cần tìm hiểu những nội dung gì để khi
xây dựng kế hoạch sẽ xác định được những nội dung thích hợp với nhóm cán bộ,
chiến sĩ.
2. Xây dựng kế hoạch PBGDPL
2.1. Xây dựng dự thảo kế hoạch PBGDPL
a) Nội dung chính của kế hoạch PBGDPL
Mỗi loại kế hoạch PBGDPL có những nội dung cụ thể khác
nhau, tuy nhiên cần đảm bảo những nội dung chính sau:
- Mục đích, yêu cầu của kế hoạch PBGDPL: Cần nêu rõ mục
đích, kết quả cụ thể cần đạt được cũng như các yêu cầu đặt ra khi triển khai kế
hoạch.
- Đối tượng tác động của kế hoạch: Là toàn thể cán bộ,
chiến sĩ tại cơ quan, đơn vị hoặc nhóm đối tượng cụ thể trong từng cơ quan, đơn
vị.
- Nội dung pháp luật cần được phổ biến đến đối tượng:
Việc xác định nội dung pháp luật cần được phổ biến đến đối tượng căn cứ vào yêu
cầu chung của kế hoạch, hướng dẫn của cơ quản lý nhà nước về PBGDPL, của Bộ
Quốc phòng và nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ, chiến sĩ tại từng cơ quan,
đơn vị. Nội dung pháp luật không chỉ dừng lại ở các luật, pháp lệnh hay văn bản
của trung ương mà còn là văn bản chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, huyện tại địa bàn đơn vị đóng quân, nhất là các nội dung liên quan
đến quyền và nghĩa vụ cụ thể của cán bộ, chiến sĩ.
- Hình thức thực hiện PBGDPL: Trên thực tế, công tác
PBGDPL được triển khai bằng nhiều hình thức khác nhau như: Tuyên truyền miệng
về pháp luật; PBGDPL qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng lưới
truyền thanh ở nội bộ đơn vị; biên soạn, phát hành tài liệu PBGDPL; dạy và học
pháp luật trong nhà trường; tổ chức các hình thức thi tìm hiểu pháp luật; xây
dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật; PBGDPL thông qua sinh hoạt Câu lạc
bộ pháp luật, thông qua lồng ghép hoạt động văn hóa nghệ thuật.
Tuy nhiên trên địa bàn các cơ quan, đơn vị, không phải
tất cả các hình thức đều phát huy hiệu quả. Vì vậy, khi xây dựng kế hoạch
PBGDPL cho cơ quan, đơn vị mình, cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL cần lưu ý
lựa chọn các hình thức PBGDPL phù hợp với đối tượng cần phổ biến.
- Tiến độ (thời gian) thực hiện: Kế hoạch PBGDPL cần xác
định thời gian thực hiện các công việc đề ra. Tiến độ cụ thể vừa bảo đảm công
tác PBGDPL được kịp thời, phù hợp với nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội tại
địa bàn nơi cơ quan, đơn vị có trụ sở.
- Các biện pháp thực hiện:
+ Xác định biện pháp thực hiện PBGDPL phù hợp với đối
tượng, với địa bàn thực hiện: Có thể tổ chức các hình thức PBGDPL độc lập, cũng
có thể tổ chức PBGDPL lồng ghép trong các chương trình, kế hoạch khác ở địa
phương như xây dựng nông thôn mới, vệ sinh môi trường, đô thị văn minh…
+ Phân công trách nhiệm hợp lý, rõ ràng cho các chủ thể
tham gia PBGDPL: Trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL; sự phối
hợp với cơ quan, đơn vị có liên quan, các tổ chức đoàn thể.
+ Hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch;
chế độ thông tin, báo cáo; sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng.
+ Kinh phí: Nêu rõ nguồn kinh phí thực hiện kế hoạch.
Kinh phí chi tiết thực hiện kế hoạch PBGDPL có thể được
ghi ngay trong kế hoạch hoặc lập thành bản dự toán riêng (kèm theo kế hoạch).
Các nội dung chi và mức chi về PBGDPL thực hiện theo quy định của Bộ Tài chính
có nội dung chi cho công tác PBGDPL và theo hướng dẫn, quy định của Bộ Quốc
phòng về mức chi cụ thể.
b) Thể thức trình bày kế hoạch PBGDPL
Kế hoạch PBGDPL là một dạng văn bản hành chính. Theo quy
định tại Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ về công tác
văn thư thì Kế hoạch có thể ban hành kèm theo Quyết định (Mẫu 1) hoặc ban hành
độc lập (Mẫu 2). Khi xây dựng kế
hoạch PBGDPL, cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL phải căn cứ vào hướng dẫn về
thể thức kỹ thuật trình bày văn bản hành chính theo Nghị định nêu trên.
2.2. Tổ chức lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo Kế hoạch và
hoàn chỉnh nội dung theo kế hoạch
- Dự thảo kế hoạch được đưa ra lấy ý kiến đóng góp của
các cán bộ, chiến sĩ tại cơ quan, đơn vị và các cơ quan, đơn vị, tổ chức, đoàn
thể có liên quan, những người trực tiếp tham gia triển khai kế hoạch sau khi
được phê duyệt.
- Sau khi tổng hợp ý kiến đóng góp,
cán bộ, chiến sĩ được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch tiếp tục chỉnh lý hoàn
chỉnh nội dung kế hoạch để trình phê duyệt.
2.3. Trình lãnh đạo cơ quan, đơn vị phê duyệt kế hoạch
(bao gồm kế hoạch nội dung và dự toán kinh phí thực hiện).
IV.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PBGDPL
Ngay sau khi kế hoạch PBGDPL được Thủ trưởng cơ quan, đơn
vị phê duyệt, cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL phối hợp với các cán bộ,
chiến sĩ, bộ phận đơn vị được phân công trong kế hoạch tổ chức thực hiện kế
hoạch theo đúng đối tượng, nội dung, hình thức, biện pháp và thời gian đã xác
định.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch, cán bộ, chiến sĩ làm
công tác PBGDPL có nhiệm vụ:
1. Chủ trì tổ chức các hoạt động
PBGDPL cho cán bộ, nhân dân trên địa bàn.
2. Thực hiện vai trò là đầu mối phối hợp cán bộ, chiến sĩ
của cơ quan, tổ chức có liên quan triển khai các hoạt động PBGDPL đến nhân dân.
3. Tham mưu Thủ trưởng cơ quan, đơn vị xây dựng đội ngũ
báo cáo viên pháp luật chuyên nghiệp, nòng cốt là các cán bộ, chiến sĩ am hiểu
kiến thức pháp luật, có tâm huyết và khả năng truyền đạt kiến thức pháp luật;
cử đội ngũ này tham gia các lớp tập huấn kiến thức pháp luật và kỹ năng tuyên
truyền, PBGDPL.
4. Tại cơ quan có Hội đồng phối hợp PBGDPL, cán bộ, chiến
sĩ làm công tác PBGDPL có trách nhiệm giúp Hội đồng phối hợp PBGDPL tổ chức các
phiên họp, xây dựng báo cáo, kế hoạch hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL,
tham mưu tổ chức các hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL theo kế hoạch đề
ra.
5. Thông tin, báo cáo việc thực hiện công tác PBGDPL của
cơ quan, đơn vị với cơ quan cấp trên và theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà
nước về PBGDPL. Việc duy trì và thực hiện nghiêm túc, thường xuyên chế độ thông
tin, báo cáo là một yêu cầu trong quy trình tổ chức thực hiện công tác PBGDPL,
nhằm đảm bảo thông tin hai chiều, vừa giúp cơ quan cấp trên và cơ quan tư pháp
cùng cấp nắm được tình hình thực hiện công tác PBGDPL, từ đó có sự chỉ đạo,
hướng dẫn sát với tình hình thực tế; góp phần duy trì được mối liên hệ thường
xuyên giữa cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL với các cơ quan này, qua đó tạo
thuận lợi cho cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL.
Các báo cáo công tác PBGDPL được thực hiện hàng quý, 6
tháng và cả năm hoặc khi kết thúc Chương trình, hoạt động PBGDPL cụ thể.
6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện kế hoạch PBGDPL:
Cần kiểm tra xem các nội dung của kế hoạch đã được thực hiện đến đâu? Những gì
còn tồn tại? Nguyên nhân, cách khắc phục. Trong trường hợp cần thiết có thể
kiến nghị đơn vị chủ trì thực hiện có biện pháp phù hợp cho việc tổ chức thực
hiện kế hoạch trên thực tế như: Điều chỉnh kế hoạch, nội dung, tạo điều kiện về
cơ sở vật chất, kinh phí, lực lượng…
7. Sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả
thực hiện kế hoạch PBGDPL nhằm rút ra những kinh nghiệm cần thiết để tổ chức
thực hiện công tác này ngày càng tốt hơn. Trong quá trình đánh giá cũng cần chú
trọng công tác khen thưởng để động viên, khích lệ những điển hình làm tốt, phát
huy kết quả đã đạt được, khơi dậy phong trào thi đua thực hiện công tác PBGDPL
trong lực lượng quân đội nhân dân./.
CHUYÊN
ĐỀ 3
Kỹ
năng phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp
I. GIỚI THIỆU CHUNG
1. Khái niệm, vị trí, vai trò của
tuyên truyền miệng trong phổ biến, giáo dục pháp luật
Tuyên truyền miệng về pháp luật
là một hình thức tuyên truyền mà người nói trực tiếp nói với người nghe về lĩnh
vực pháp luật trong đó chủ yếu là phổ biến, giới thiệu các quy định pháp luật
nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghe, hướng cho người nghe hành động
theo các chuẩn mực pháp luật.
Tuyên
truyền miệng pháp luật có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhiều hình thức tuyên
truyền khác; lồng ghép với các hình thức tuyên truyền khác và là một bộ phận
quan trọng trong tổng thể các hình thức tuyên truyền pháp luật. Điều đó được
thể hiện như sau:
- Tuyên
truyền miệng là một công đoạn không thể thiếu trong phần lớn các hình thức
tuyên truyền pháp luật. Ví dụ: Tuyên truyền pháp luật thông qua công tác hòa
giải ở cơ sở thì hòa giải viên vẫn phải trực tiếp nói cho người được hòa giải
về các nội dung pháp luật có liên quan.
- Tuyên
truyền miệng pháp luật là hình thức chủ yếu được thực hiện thông qua hội nghị,
hội thảo, tập huấn, sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật; là biện pháp chủ yếu của
phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như
báo nói, báo hình, qua mạng lưới truyền thanh cơ sở.
- Trong
việc thực hiện tuyên truyền miệng pháp luật, báo cáo viên phải sử dụng lồng
ghép với các hình thức tuyên truyền pháp luật khác, ví dụ như: trước khi tuyên
truyền, báo cáo viên cần phải biên soạn đề cương mà giá trị của nó được coi như
là tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật; trong khi tuyên truyền miệng, báo
cáo viên sử dụng các hình ảnh minh họa có giá trị như là tuyên truyền thông qua
tranh ảnh trực quan.
- Tuyên
truyền miệng là hình thức tuyên truyền linh hoạt, có nhiếu ưu thế, có thể tiến
hành ở bất cứ nơi nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào với số lượng người
nghe không bị hạn chế. Khi thực hiện việc tuyên truyền miệng, người nói có đủ
điều kiện thuận lợi để giải thích, phân tích, sáng tỏ nội dung cần tuyên
truyền.
2. Quy mô và đối tượng của tuyên truyền miệng pháp
luật
Quy mô
của tuyên truyền miệng pháp luật rất đa dạng. Có thể tổ chức dưới dạng hội
nghị, lớp tập huấn, các buổi nói chuyện chuyên đề thu hút nhiều người nghe hoặc
có thể tổ chức dưới hình thức tuyên truyền miệng cá biệt chỉ có một hoặc vài ba
người.
Đối
tượng của tuyên truyền miệng rất phong phú cho đủ mọi thành phần: cán bộ, trí
thức, công nhân, nông dân, doanh nhân, phụ nữ, người cao tuổi, thanh thiếu
niên...Như vậy, đối tượng của tuyên truyền miệng là bất cứ người nào trong xã hội
đang cần được tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Trên cơ
sở 3 tiêu chí chính: Đối tượng, quy mô và không gian, người nói cần lưu ý
nghiên cứu tâm lý người nghe trong các lớp tập huấn, các buổi nói chuyện chuyên
đề, các buổi họp, các buổi tuyên truyền cá biệt.
II. PHƯƠNG THỨC TỔ CHỨC MỘT SỐ HÌNH THỨC TUYÊN
TRUYỀN MIỆNG PHÁP LUẬT
1. Mở các lớp tập huấn
Nội
dung tập huấn có thể là một văn bản pháp luật quan trọng kèm theo văn bản hướng
dẫn thi hành hoặc nhiều văn bản pháp luật độc lập. Những văn bản pháp luật này
có thể là văn bản tuyên truyền lần đầu hoặc là văn bản được tuyên truyền lặp
lại. Học viên của lớp tập huấn là những báo cáo viên, biên tập viên, phóng
viên, cán bộ thi hành pháp luật, cán bộ quản lý trong lĩnh vực văn bản điều
chỉnh.
Ở các
lớp tập huấn, giảng viên không chỉ giới thiệu về các nội dung cơ bản của văn
bản mà phải đi sâu vào những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực nghiệp vụ nhất
định: thẩm quyền của các chủ thể, các biện pháp quản lý, thủ tục tiến hành các
công việc. Chú trọng đổi mới phương pháp tập huấn, kết hợp phương pháp truyền
thống và phương pháp hiện đại, lấy người học là trung tâm, áp dụng phương pháp
tích cực, mọi người cùng tham gia, có sự trao đổi qua lại giữa học viên và
giảng viên, huy động tính tích cực tham gia của học viên, giảng viên chỉ là
người hướng dẫn, định hướng cho học viên vừa học lý thuyết vừa thực hành; kết
hợp với các phương tiện hỗ trợ như tranh ảnh, băng hình để buổi tập huấn sinh
động, người học dễ tiếp thu, thuộc bài ngay tại lớp và biết vận dụng thành thạo
trong thực tiễn.
Việc tổ
chức các lớp tập huấn có thể ở quy mô lớn (mấy trăm người) cũng có thể ở quy mô
nhỏ (mấy chục người). Lưu ý cần bố trí thời gian để triệu tập được đúng, đủ học
viên, có quy chế để việc học tập được nghiêm túc. Cũng cần tổ chức viết thu
hoạch hoặc kiểm tra, tổ chức đánh giá kết quả tập huấn (qua phiếu, phỏng vấn
trực tiếp…), cấp chứng chỉ để kích thích ý thức và tinh thần học tập của học
viên. Về hình thức nên có trang trí, khai mạc, bế mạc để lớp học trang trọng và
tăng tính hiệu quả.
2. Nói chuyện chuyên đề về pháp luật
Một
buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật thường là một buổi nói về một lĩnh vực
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quản lý... gắn với một số chế định, ngành
luật. Một buổi nói chuyện chuyên đề thường không đóng khung trong phạm vi pháp
luật, trong khuôn khổ một vấn đề khép kín mà mở ra nhiều lĩnh vực có liên quan,
nhiều hướng suy nghĩ. Chính vì thế, các buổi nói chuyện chuyên đề thường thu
hút được đông đảo báo cáo viên pháp luật, cán bộ nghiên cứu, cán bộ xây dựng
pháp luật, cán bộ tuyên truyền pháp luật, hòa giải viên, thành viên các Câu lạc
bộ pháp luật... tham gia.
Báo cáo
viên trong các buổi nói chuyện chuyên đề phải là người có kiến thức chuyên
ngành sâu rộng về lĩnh vực được trình bày và am hiểu pháp luật.
Khi tổ
chức một buổi nói chuyện chuyên đề nói chung và chuyên đề pháp luật nói riêng,
người ta thường gắn vào các sự kiện chính trị, thời sự, những ngày có ý nghĩa
lịch sử...
3. Lồng ghép việc tuyên truyền pháp luật vào một
buổi họp
Do đối
tượng dự, buổi họp rất đa dạng, có thể là cán bộ, công chức; người quản lý
doanh nghiệp; người lao động; người dân ở thôn, bản, tổ dân phố, cho nên tùy
từng đối tượng mà người tuyên truyền lựa chọn nội dung pháp luật để lồng ghép
cho phù hợp. Nội dung pháp luật được truyền tải có thể trên cơ sở kế hoạch của
cấp trên hoặc có thể do cán bộ tuyên truyền đề xuất trên cơ sở tình hình chính
trị, kinh tế, xã hội của địa phương.
Khi
lồng ghép nội dung pháp luật vào một buổi họp, điểm quan trọng bậc nhất là cách
đặt vấn đề với người nghe. Cần đặt vấn đề sao cho người nghe thấy rằng vì sự
quan trọng và cấp thiết của việc tuyên truyền văn bản pháp luật lồng ghép vào
hội nghị, cuộc họp này chứ không phải “nhân thể” hội nghị, cuộc họp này mà phổ
biến văn bản. Nếu có thể được, người nói công bố việc tuyên truyền pháp luật là
một nội dung trong chương trình cuộc họp hoặc công bố chương trình cuộc họp
trước cho người dự cuộc họp. Một việc quan trọng nữa là xác định thời điểm, bối
cảnh để phổ biến pháp luật sao cho hợp lý nhất để người nghe dễ tiếp thu và tạo
không khí thoải mái cho người nghe. Qua đó, việc lồng ghép tuyên truyền pháp
luật vào cuộc họp sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.
4. Tuyên truyền miệng cá biệt
Tuyên
truyền miệng cá biệt là hình thức tuyên truyền miệng về pháp luật mà đối tượng
(người nghe) chỉ có một hoặc vài ba người. Nếu như tuyên truyền trong hội nghị
cung cấp cho người nghe hiểu biết chung về pháp luật thì tuyên truyền cá biệt
thường cung cấp cho người nghe những nội dung pháp luật cụ thể; vận dụng pháp
luật trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể mà người nghe đang quan tâm. Hình
thức tuyên truyền này thường được sử dụng trong trường hợp người thừa hành pháp
luật làm việc với đối tượng của mình; người tư vấn pháp luật hướng dẫn, giải
thích cho người được tư vấn; cán bộ trợ giúp pháp lý hướng dẫn, trợ giúp pháp
luật cho người được trợ giúp...
Trong
tuyên truyền cá biệt, người nói thường ở vị trí “có lợi” đối với người nghe.
Nhưng không vì thế mà trong khi thực hiện nhiệm vụ, người nói có thái độ áp
đặt, lời nói mệnh lệnh đối với họ mà phải làm cho họ thực sự hiểu, tin, tôn
trọng pháp luật, từ đó tự giác tuân thủ pháp luật. Muốn vậy người nói phải căn
cứ từng đối tượng mà có biện pháp tuyên truyền thích hợp; tìm hiểu sâu hoàn
cảnh, truyền thống của gia đình họ, vận dụng đạo lý, phong tục, tập quán, mục
đích, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật để giải thích, thuyết phục họ.
Để
chuẩn bị cho buổi tuyên truyền cá biệt đạt kết quả, cán bộ làm công tác tuyên
truyền pháp luật cần chuẩn bị các nội dung sau đây:
- Các
quy định pháp luật liên quan đến sự việc của đương sự;
- Dự
kiến tình huống, câu hỏi mà đương sự có thể hỏi, chất vấn;
- Phong
tục, tập quán ở địa phương, đạo lý và những kiến thức xã hội có thể phải vận
dụng;
- Nhân
thân đương sự: Hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của đương sự trước đây;
điều kiện, hoàn cảnh, truyền thống gia đình, nguyện vọng ... của đương sự.
Khi
tuyên truyền cá biệt đòi hỏi phải vận dụng kỹ năng tuyên truyền miệng hết sức
tinh tế. Người nói còn phải là người nhạy cảm, tâm lý và có kinh nghiệm trong
công tác này. Bên cạnh đó, để thuyết phục người nghe, tin ở pháp luật thì người
nói phải thể hiện để người nghe tin mình là một cán bộ, công chức tốt (không có
biểu hiện tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, gây phiền hà, có trách nhiệm với
công việc, liêm khiết...). Trong khi tuyên truyền miệng cá biệt, những quy tắc
tuyên truyền hội nghị không thể áp dụng một cách cứng nhắc, thậm chí học hàm,
học vị, chức vụ... của người nói không có ý nghĩa lớn đối với người nghe.
Điều
quan trọng nhất là người nói phải tạo được lòng tin, sự tôn trọng của người
nghe; làm sao để người nghe tin rằng vận dụng pháp luật vào điều kiện, hoàn
cảnh này là hoàn toàn chính xác. Như vậy, nếu một buổi tuyên truyền pháp luật ở
hội nghị nhằm đạt yêu cầu chung là nâng cao niềm tin, hiểu biết, ý thức chấp
hành pháp luật cho người nghe bằng cách cung cấp các hiểu biết, nhận thức chung
về pháp luật cho họ thì tuyên truyền cá biệt có mục đích cao hơn là thông qua việc
vận dụng pháp luật vào một hoàn cảnh, sự việc cụ thể để nâng cao niềm tin, ý
thức chấp hành pháp luật của người nghe. Để đạt được mục đích, yêu cầu này
người nói không những phải am hiểu pháp luật, hiểu biết đời sống xã hội mà phải
có sự cảm thông sâu sắc với cuộc sống của đối tượng. Đôi khi, trong quá trình
tuyên truyền cá biệt người nói cần phải tâm sự chân tình, chia sẻ với người
nghe về hoàn cảnh của họ; có những lời khuyên, động viên một cách chân thành,
tình cảm để tạo sự tin tưởng, yêu mến của người nghe với mình. Đó là những yếu
tố cơ bản để thuyết phục đối tượng.
III. KỸ NĂNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG VỀ PHÁP LUẬT
1. Gây thiện cảm ban đầu
cho người nghe
Việc gây thiện cảm ban đầu cho người nghe rất quan trọng. Thiện cảm ban
đầu thể hiện ở nhân thân, tâm thế và biểu hiện của người nói khi bước lên bục
tuyên truyền. Danh tiếng, phẩm chất đạo đức, học hàm, học vị, chức vụ của người
nói là nguồn thiện cảm ban đầu cho người nghe; kích thích người nghe háo hức
chờ đón buổi tuyên truyền. Thiện cảm ban đầu tạo ra sự hứng thú, say mê của
người nghe, củng cố được niềm tin về vấn đề đang tuyên truyền. Thiện cảm ban
đầu còn được tạo ra bởi khung cảnh của hội trường, khung cảnh của diễn đàn,
dáng vẻ bề ngoài, y phục, nét mặt, cử chỉ, phong thái, lời giao tiếp ban đầu.
Như vậy, báo cáo viên cần phải tươi cười bao quát hội trường, có lời chào mừng,
chúc tụng, có câu mở đầu dí dỏm, hài hước, công bố thời gian, chương trình làm
việc rõ ràng, thoải mái... sẽ gây được thiện cảm ban đầu đối với người nghe.
Thế nhưng, thiện cảm ban đầu chủ yếu là ở cách đặt vấn đề đầu tiên của người
nói. Trong những phút đầu tiên của bài giới thiệu, người nói phải nêu được
khoảng từ 3, 4 vấn đề chủ yếu mà người nghe cần tìm hiểu nhất. Ví dụ khi tuyên
truyền cho đối tượng là công nhân về Bộ luật Lao động thì các vấn đề mà công
nhân quan tâm nhất là hợp đồng lao động; bảo hộ lao động; thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi; tiền lương; bảo hiểm xã hội... Việc nêu các vấn đề đó còn
tuỳ thuộc ở khả năng thuyết trình của báo cáo viên. Báo cáo viên có thể bắt đầu
từ một câu chuyện pháp luật được các phương tiện thông tin đại chúng nói đến
nhiều thời gian qua hoặc có thể bắt đầu từ một bộ phim đã chiếu khá phổ biến
hoặc cũng có thể bằng các tình huống xảy ra gần địa bàn nơi tổ chức tuyên
truyền...
2. Tạo sự hấp dẫn, gây
ấn tượng trong khi nói
Nghệ thuật tuyên truyền là tạo nên sự hấp dẫn, gây ấn tượng bằng giọng
nói, điệu bộ, ngôn ngữ. Giọng nói phải rõ ràng, mạch lạc nhưng truyền cảm. Hết
sức tránh lối nói đều đều. Giọng nói, âm lượng phải thay đổi theo nội dung và
nhấn mạnh vào những điểm quan trọng, cần phải chú ý. Động tác, cử chỉ cần phải
phù hợp với nội dung và giọng nói để nâng cao hiệu quả tuyên truyền của lời
nói. Sắc thái có tác dụng truyền cảm rất lớn. Vẻ mặt của người nói cần thay đổi
theo diễn biến của nội dung. Khi nói, cần chú ý nhìn vào một nhóm người ngồi
dưới, thỉnh thoảng người nói cần thay đổi vị trí nhìn để tạo sự chú ý của cử
tọa. Người nói cần đưa ra số liệu, sự kiện để minh hoạ, đặt câu hỏi để tăng
thêm sự chú ý của người nghe.
Người nói cũng cần phát huy vai trò thông tin, truyền cảm của ngôn ngữ
bằng cách sử dụng chính xác, đúng mực thuật ngữ pháp lý, thuật ngữ chuyên ngành
và ngôn ngữ phổ thông. Người nói có thể kết hợp, lồng ghép, sử dụng hợp lý,
chính xác ý tứ, ngôn từ trong kinh điển, thơ văn, ca dao, dân ca vào buổi tuyên
truyền pháp luật để tăng tính hấp dẫn, thuyết phục đối với người nghe.
3. Bảo đảm các nguyên
tắc sư phạm trong tuyên truyền miệng
Người nói cần tôn trọng các nguyên tắc sư phạm. Từ bố cục bài nói, diễn
đạt các đoạn văn, liên kết giữa các đoạn văn đến cách nói đều phải rõ ràng,
mạch lạc, lôgic. Người nghe cần được dẫn dắt từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp, từ gần đến xa (phương pháp suy diễn) hoặc từ xa đến gần (phương pháp
quy nạp) và tuỳ từng vấn đề mà dùng lý luận soi sáng cho thực tiễn hoặc từ thực
tiễn mà đi sâu vào lý luận. Mục đích cuối cùng vẫn là để người nghe hiểu rõ
hơn, toàn diện hơn về những vấn đề mà người nói đã nêu ra. Tuy nhiên dù phân
tích, diễn giải rộng hay hẹp đều phải luôn bám sát trọng tâm của vấn đề.
4. Sử dụng phương pháp
thuyết phục trong tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng về pháp luật chủ yếu dùng phương pháp thuyết phục với
ba bộ phận cấu thành là chứng minh, giải thích và phân tích.
- Chứng minh là cách thuyết phục chủ
yếu dựa vào các dẫn chứng xác thực, khách quan để làm sáng tỏ và xác nhận tính
đúng đắn của vấn đề. Các dẫn chứng đưa ra gồm số liệu, sự kiện, hiện tượng,
nhân chứng, danh ngôn, kinh điển. Để có sức thuyết phục, các dẫn chứng được đưa
ra phải chính xác, tiêu biểu, toàn diện và sát hợp với vấn đề nêu ra.
- Giải thích là việc dùng lý lẽ để
giảng giải giúp người nghe hiểu rõ và hiểu đúng vấn đề. Lập luận trong khi giải
thích phải chặt chẽ, chính xác, mạch lạc, khúc triết, không ngụy biện.
- Phân tích là diễn giải, đánh giá vấn đề nhằm tìm được đặc điểm, bản chất, điểm
mạnh, điểm yếu, điểm tốt, điểm xấu, sự phù hợp, không phù hợp... của vấn đề.
Việc phân tích phải dựa trên cơ sở khoa học, không được cường điệu mặt này hay
hạ thấp mặt kia. Sau khi phân tích phải có kết luận, đánh giá, hướng người nghe
vào định hướng tư duy đúng đắn, không làm cho người nghe hoài nghi, dao động,
hoang mang.
5. Các bước tiến hành
một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật
Để có một buổi tuyên truyền miệng pháp luật cần qua 2 bước:
5.1. Bước chuẩn bị: gồm 5 nội dung chính sau
đây :
- Nắm vững đối tượng truyên
truyền: Báo cáo viên cần nắm vững đối tượng tuyên truyền qua các yếu tố về số
lượng; thành phần (trí thức, công nhân, nông dân, học sinh, thanh niên, phụ nữ,
thiếu nhi, phụ lão...); trình độ văn hoá; tình hình thực hiện pháp luật ở cơ
sở; ý thức thực hiện pháp luật và nhu cầu tìm hiểu pháp luật của đối tượng.
Báo cáo viên có thể nắm vững đối tượng bằng phương pháp trực tiếp (tự
điều tra, tìm hiểu, gặp gỡ, quan sát...) hoặc bằng phương pháp gián tiếp (qua
tài liệu, sách báo, báo cáo tổng kết, trao đổi với người tổ chức buổi tuyên
truyền...). Cần có thông tin đầy đủ từ phía cơ quan tổ chức tuyên truyền về
thành phần dự. Chú ý những thay đổi có thể diễn ra về thành phần người nghe.
- Nắm vững vấn đề liên quan đến
lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh: Đó là các vấn đề về kỹ thuật nghiệp vụ chuyên
ngành, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực đó, các tài
liệu lý luận, giáo khoa, các tài liệu của nước ngoài trong lĩnh vực đó. Để nắm
vững vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh đòi hỏi báo cáo viên
ngoài trình độ chuyên môn tốt cần phải có quá trình tích lũy, sưu tầm với một ý
thức trách nhiệm và lòng say mê với nghề nghiệp.
- Nắm vững nội dung văn bản, cụ thể là hiểu rõ bản chất pháp lý của vấn đề
được văn bản điều chỉnh, sự cần thiết phải ban hành văn bản; hiểu rõ đối tượng
điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của văn bản; hiểu rõ ý nghĩa của các quy phạm,
đặc biệt là ý nghĩa về mặt quản lý Nhà nước, về tác dụng điều chỉnh của từng
quy phạm cụ thể; nghiên cứu các văn bản hướng dẫn thi hành, tài liệu hướng dẫn
tuyên truyền và hệ thống văn bản điều chỉnh lĩnh vực đó.
Muốn vậy, người nói cần nắm được thông tin liên quan đến văn bản từ giai
đoạn soạn thảo, lấy ý kiến đến khi ban hành (tờ trình về dự án Luật, các báo
cáo tổng hợp ý kiến tham gia xây dựng Luật...). Như vậy, người nói phải nắm
được một cách toàn diện không những nội dung văn bản mà còn cả những vấn đề có
liên quan đến việc ra đời và triển khai văn bản đó, cụ thể cần nắm vững tư
tưởng, quan điểm chỉ đạo của việc ban hành các văn bản đó thông qua các nghị
quyết của Đảng, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội hoặc trực tiếp hơn là qua
tờ trình về việc ban hành văn bản, qua các bài báo, bình luận khoa học về văn
bản. Ngoài ra, trong quá trình tuyên truyền, người nói cũng cần giới thiệu có
chọn lọc ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động
thực tiễn liên quan đến văn bản đó.
- Sưu tầm tài liệu dẫn chứng, minh họa: Đây là nội dung rất quan trọng
vì nó ảnh hưởng đến chất lượng, độ sâu và sức thuyết phục của buổi tuyên
truyền. Tài liệu, dẫn chứng minh họa có tính chính thức, độ tin cậy cao, có thể
được sưu tầm trên Báo Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt
Nam... hoặc các tạp chí chuyên ngành; các công trình khoa học đã được công bố;
bài viết trên các báo, đặc san khoa học; số liệu, dẫn chứng trên các trang
thông tin điện tử (trang Web) cần được lựa chọn phù hợp. Khi sưu tầm tài liệu,
báo cáo viên cần chú ý đến tính chất, yêu cầu của tài liệu đó, tuyệt đối tránh
tài liệu, dẫn chứng minh họa thuộc diện mật của Đảng và Nhà nước; số liệu, dẫn
chứng đã cũ không còn phù hợp với hiện tại.
- Chuẩn bị đề cương: Đề cương tuyên truyền miệng (bao gồm đề cương sơ bộ
và đề cương chi tiết) cần đầy đủ về nội dung, thích hợp với đối tượng, chặt chẽ
về bố cục, sắc sảo về lập luận. Khi chuẩn bị đề cương cần chú ý những yêu cầu
sau:
+ Đề cương không phải là một bài viết hoàn chỉnh, cụ thể mà là tài liệu
nêu lên các trọng tâm cần tập trung tuyên truyền, phổ biến. Trên cơ sở đó, báo
cáo viên phân tích cụ thể, mở rộng những vấn đề nêu trong đề cương. Đề cương
tuyên truyền có nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo việc tổ chức triển khai tuyên
truyền văn bản pháp luật cho phù hợp với từng loại đối tượng, trên từng địa bàn.
+ Cần lựa chọn vấn đề cốt lõi của văn bản có liên hệ với hệ thống pháp
luật để làm rõ mối quan hệ của văn bản với hệ thống pháp luật.
+ Để thu hút người nghe và tạo điều kiện cho người nghe hiểu văn bản có
tính hệ thống, toàn bộ các phần trong đề cương phải có mối quan hệ hữu cơ với
nhau như một câu chuyện là: yêu cầu, nhiệm vụ của văn bản; cơ chế quản lý như
thế nào; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể ra sao; chế tài áp dụng đối với
người vi phạm thế nào... để sao cho đạt được yêu cầu, nhiệm vụ cần tuyên truyền.
5.2. Tiến hành một buổi tuyên truyền
miệng về pháp luật
Một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật thường có các phần sau:
- Vào đề: Là phần giới thiệu vấn đề, định hướng tư duy, khơi gợi nhu cầu của đối
tượng, thiết lập quan hệ giữa người nói với người nghe. Với tuyên truyền miệng
về pháp luật, cách vào đề có hiệu quả thường là gợi ra nhu cầu tìm hiểu ý
nghĩa, sự cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật.
Trước khi bắt đầu phần này, báo cáo viên cần có
những lời chào mừng, chúc tụng đối với người nghe để gây thiện cảm và không khí
gần gũi. Trong phần vào đề, người nói phải nêu được khoảng từ 3, 4 vấn đề chủ
yếu mà người nghe cần tìm hiểu nhất để tạo sự chú ý, sức hấp dẫn cho người
nghe. Việc nêu các vấn đề đó còn tuỳ thuộc ở khả năng diễn thuyết của báo cáo
viên. Báo cáo viên có thể bắt đầu từ một câu chuyện pháp luật được các phương
tiện thông tin đại chúng nói đến nhiều thời gian qua; có thể bằng các tình
huống xảy ra gần địa bàn nơi tổ chức tuyên truyền hoặc một câu chuyện có liên
quan mà tình cờ báo cáo viên biết được qua trao đổi trước buổi tuyên truyền với
một số người nghe...
- Nội dung: Là phần chủ yếu của buổi nói, làm cho đối tượng hiểu, nắm được nội dung,
chuyển biến nhận thức, nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng. Cần lưu ý là
phải nêu được những điểm mới, thời sự để người nghe chú ý; khi tuyên truyền
không được sao chép, đọc nguyên văn văn bản để tránh sự nhàm chán. Khi giảng
cần phân tích, giải thích và nêu ý nghĩa của văn bản pháp luật đó. Viết, đọc
một đoạn nào đó trong văn bản chỉ có tính chất dẫn chứng, minh họa những gì mà
người nói đã phân tích, dẫn chứng ở trước.
Trong tuyên truyền văn bản phải chú ý tới hai điều, đó là: lựa chọn cách
trình bày phù hợp với đối tượng và nêu được vấn đề cơ bản, cốt lõi, trọng tâm
để người nghe thâu tóm được tinh thần văn bản. Sử dụng hợp lý kênh ngôn ngữ
(nói) và kênh phi ngôn ngữ (cử chỉ, động tác).
Đối tượng tuyên truyền miệng rất phong phú nhưng có thể chia thành 4
loại: Cán bộ quản lý; cán bộ nghiên cứu, xây dựng văn bản; cán bộ tuyên truyền;
những người phải chấp hành pháp luật (cán bộ, nhân dân). Trên cơ sở sự phân
loại đó, báo cáo viên có thể xác định được mục đích, yêu cầu, nội dung trọng
tâm, phương pháp trình bày cho phù hợp với từng đối tượng, cụ thể là:
+ Với cán bộ quản lý: Báo cáo viên cần xác định người nghe là cán bộ quản
lý ở cấp nào để có thể có phương pháp trình bày thiên về khái quát hoặc diễn
giải; thiên về lý luận hoặc thực tiễn. Đối với người nghe là cán bộ quản lý cấp
tỉnh thì người nói có thể trình bày vấn đề thiên về khái quát có kết hợp phân
tích, diễn giải; nhưng nếu người nghe là cán bộ cấp xã thì người nói cần phải
sử dụng phương pháp suy diễn, phân tích cụ thể về thực tiễn rồi sau đó khái
quát thành những đánh giá, lý luận. Người nói cần làm rõ những quy định về
quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, cán bộ nhà nước; nội
dung quản lý nhà nước; các hình thức vi phạm và mức độ xử lý; thẩm quyền xử lý;
tổ chức thi hành văn bản...
+ Với cán bộ nghiên cứu, xây dựng văn bản: Phương pháp khái quát thường
đạt hiệu quả tuyên truyền cao vì đối tượng này có trình độ, thường quan tâm đến
những quan điểm, những vấn đề lý luận chứa đựng trong văn bản. Ngoài ra báo cáo
viên cần làm rõ: văn bản đã đáp ứng được những nhu cầu, đòi hỏi thực tiễn nào,
những gì còn hạn chế, chưa đáp ứng được; những gì đã thống nhất, những gì tồn
tại; các ý kiến khác nhau về những nội dung của văn bản trước khi được ban
hành; các văn bản được ban hành tiếp theo và văn bản để cụ thể hóa văn bản này;
vị trí của văn bản này trong hệ thống các văn bản thuộc lĩnh vực văn bản điều
chỉnh...
+ Với cán bộ tuyên truyền (bao gồm: báo cáo viên, tuyên truyền viên,
phóng viên, biên tập viên các báo, đài): Có thể dùng phương pháp khái quát hoặc
diễn giải tuỳ thuộc vào hình thức văn bản nhưng cần tập trung nhấn mạnh những
nội dung để phục vụ cho công tác tuyên truyền của cán bộ tuyên truyền như: bản
chất, ý nghĩa pháp lý của vấn đề; sự cần thiết, mục đích của việc ban hành văn
bản; những số liệu, tài liệu cần viện dẫn, đối chiếu, so sánh; các vấn đề chủ
yếu cần tập trung phổ biến, tuyên truyền.
+ Với những người phải chấp hành pháp luật: Sử dụng phương pháp diễn giải
là phù hợp. Cần nêu bản chất, ý nghĩa của vấn đề, mục đích, sự cần thiết phải
ban hành văn bản, ý nghĩa của các quy phạm liên quan đến từng đối tượng thi
hành trong văn bản. Báo cáo viên cần tập trung phân tích quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể trong quan hệ xã hội được văn bản điều chỉnh, cơ chế thực hiện
quyền khiếu nại, khởi kiện, thời hiệu khiếu nại, khởi kiện...
* Trong thực tiễn tuyên truyền miệng pháp luật, vì nhiều lý do, có thể
xảy ra những “trục trặc” ngoài ý muốn khi đang thực hiện buổi tuyên truyền
miệng pháp luật. Những “trục trặc” thường gặp trong thực tế là:
- Nói lắp, nói nhịu: Đôi khi
trong khi đang nói vì căng thẳng hay mệt mỏi báo cáo viên nói lắp, nói nhịu.
Đây là hiện tượng vô thức xảy ra ngoài ý muốn của con người. Khi xảy ra hiện
tượng này, thường sẽ gây nên tiếng cười, ồn ào trong người nghe. Để khắc phục
hiện tượng này, báo cáo viên cần phải bình tĩnh, không được mất tinh thần; lấy
lại sự tập trung vào bài giảng. Báo cáo viên có thể kể một câu chuyện vui hoặc
có những câu nói hài hước để tạo nên không khí thoải mái, vui vẻ trong buổi
tuyên truyền, sau đó khéo léo dẫn dắt vào bài giảng.
- Lạc đề: Hiện tượng này xảy ra do báo cáo viên phân tích, diễn giải vấn đề quá
rộng dẫn đến những nội dung báo cáo viên nói không có liên quan hoặc ít liên
quan đến bài giảng. Trong trường hợp này, báo cáo viên không được mất bình
tĩnh; sử dụng phương pháp quy nạp, từ những vấn đề đã phân tích, diễn giải rộng
ở trên, báo cáo viên khéo léo dẫn dắt người nghe đến những nội dung chính của
bài giảng. Để kiểm soát được bài giảng
của mình đúng trọng tâm, không lạc đề đòi hỏi báo cáo viên phải chuẩn bị kỹ nội
dung bài giảng, trong khi giảng bài cần tập trung, luôn quan tâm theo dõi đến
thái độ (phản ứng) của người nghe để điều chỉnh bài giảng hợp lý.
- Thừa giờ hoặc thiếu giờ: Tình huống này thường xảy ra đối với những báo cáo
viên còn thiếu kinh nghiệm trong nghề. Đây là trường hợp thời gian dự kiến ban
đầu của buổi tuyên truyền miệng vẫn còn nhưng báo cáo viên đã truyền đạt hết
các nội dung văn bản pháp luật hoặc đã hết giờ mà chưa truyền đạt hết nội dung.
Nếu gặp phải trường hợp này, tuỳ vào từng hoàn cảnh cụ thể mà báo cáo viên cần
phải nhanh nhạy chuyển sang hình thức khác có liên quan đến bài giảng như tổ
chức thảo luận về những nội dung của văn bản quy phạm pháp luật, báo cáo viên
sẽ trực tiếp giải đáp những thắc mắc của người nghe hoặc báo cáo viên chuẩn bị
sẵn những câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng để hỏi người nghe hoặc tổ
chức giao lưu, học hỏi kinh nghiệm về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
giữa báo cáo viên và người nghe, nhất là khi người nghe là những cán bộ tuyên
truyền pháp luật...
Ngoài ra, cần xử lý các tình huống khác trong hội trường như: Học viên
ngủ gật, nghe điện thoại di động, mất điện, học viên nói chuyện riêng...
5.3. Phần kết luận:
Là phần người nói thường điểm lại và tóm tắt những vấn đề cơ bản đã tuyên
truyền. Tùy từng đối tượng mà nêu những vấn đề cần lưu ý đối với họ. Trong phần
này, người nói sau khi đã phân tích, diễn giải cần phải tóm tắt lại những nội
dung chính của buổi tuyên truyền miệng và những vấn đề cần lưu ý. Tuy nhiên,
với mỗi một đối tượng khác nhau sẽ có cách thức tóm tắt khác nhau căn cứ vào
nhu cầu, lĩnh vực công tác của đối tượng.
5.4. Trả lời câu hỏi của người nghe: Người nói cần dành thời
gian cần thiết trả lời các câu hỏi mà người nghe quan tâm, chưa hiểu rõ. Đây là
phần người nói có thể đánh giá được mức độ hiểu bài của người nghe; là dịp để
người nói trao đổi những kinh nghiệm, hiểu biết của mình cho người nghe.
Tóm lại, hiệu quả của tuyên truyền miệng về pháp luật phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố. Để đạt hiệu quả tuyên truyền cao, người tuyên truyền cần phải dày công tích
luỹ, chuẩn bị đề cương, phải có nghệ thuật vượt qua hàng rào ngăn cách ban đầu
về mặt tâm lý, gây thiện cảm, gây sự chú ý của người nghe từ khi bắt đầu buổi
nói chuyện; phải biết tạo ra nhu cầu, kích thích, hấp dẫn, gây ấn tượng cho
người nghe trong suốt buổi nói; biết kết luận đúng cách để khi kết thúc còn
đọng lại những điều cần thiết cho người nghe tiếp tục suy nghĩ.
CHUYÊN
ĐỀ 4
Kỹ năng biên soạn tài liệu phổ biến,
giáo dục pháp luật
I. Giới
thiệu chung
1.
Tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) đóng vai trò quan trọng trong
hoạt động PBGDPL. Tài liệu PBGDPL vừa là cẩm nang, công cụ, phương tiện trợ
giúp đắc lực cho người làm công tác PBGDPL, vừa là cầu nối đưa pháp luật đến
nhân dân, chiến sỹ.
Biên soạn, phát hành tài liệu PBGDL là
một trong những hình thức PBGDPL.
2.
Tài liệu PBGDPL gồm nhiều loại. Mỗi loại tài liệu PBGDPL phù hợp với đối tượng khác nhau và được sử dụng trong nhiều hình
thức PBGDPL khác nhau.
- Đề cương giới thiệu, phổ biến văn bản pháp luật: Thường
phục vụ cho báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật để sử dụng
trong tuyên truyền miệng (tập huấn, nói chuyện pháp luật) hoặc dùng làm tài
liệu tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng (qua hệ thống phát
thanh, loa truyền thanh cơ sở).
- Sách pháp luật gồm:
+ Sách nghiên cứu, bình luận, hướng dẫn, giải thích pháp
luật, sách giáo khoa, sách tham khảo, sách hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp
luật thường sử dụng trong công tác giảng dạy và học tập pháp luật trong nhà
trường hoặc phục vụ nhu cầu nghiên cứu, sử dụng của các cán bộ làm công tác về
pháp luật.
+ Sách pháp luật phổ thông sử dụng trong hoạt động hòa
giải, trợ giúp pháp lý và trên các sóng truyền hình hoặc người dân có nhu cầu
tìm hiểu có thể trực tiếp đọc sách, chủ động nghiên cứu các vấn đề pháp luật
trong sách.
- Tờ gấp pháp luật;
- Bản tin pháp luật;
- Pa nô, áp phích PBGDPL;
- Băng tiếng, băng hình PBGDPL.
- Câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp
luật.
- Các tài liệu PBGDPL khác.
Trong phạm
vi hoạt động PBGDPL trong quân đội nhân dân, phần này chỉ đề cập đến kỹ năng
biên soạn đề cương giới thiệu, phổ biến văn bản pháp luật, sách pháp luật phổ
thông, tờ gấp pháp luật, câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật.
II.
Kỹ năng biên soạn đề cương giới thiệu, phổ biến văn bản pháp luật
1.
Một số vấn đề chung
1.1. Khái niệm:
Đề cương giới thiệu, phổ biến văn bản pháp luật là tài
liệu để giải thích, hướng dẫn, phổ biến một văn bản pháp luật, một nội dung
pháp luật hoặc một vấn đề pháp lý. Người sử dụng có thể dựa vào đề cương để
nghiên cứu nội dung văn bản, các trọng tâm cần tập trung để phổ biến hoặc để
biên soạn các tài liệu PBGDPL khác một cách cụ thể, sát hợp, phù hợp với bối
cảnh, đối tượng nhưng vẫn bảo đảm cho đối tượng hiểu chính xác nội dung văn bản
và thực hiện thống nhất. Mặt khác, đề cương phổ biến còn có nhiệm vụ hướng dẫn,
chỉ đạo việc tổ chức triển khai PBGDPL phù hợp với từng loại đối tượng trên
từng địa bàn.
1.2. Đối tượng sử dụng
Đối tượng sử dụng đề cương giới thiệu phổ biến văn bản
pháp luật trong quân đội thường là các báo cáo viên pháp luật và chính trị
viên.
1.3. Yêu cầu đối với đề cương giới thiệu,
phổ biến văn bản pháp luật
Để tạo điều kiện cho các đối tượng có thể sử dụng đề
cương một cách linh hoạt, dễ dàng và khai thác tối đa hiệu quả, việc xây dựng
đề cương cần phải bảo đảm được các yêu cầu về hình thức, nội dung như sau:
- Về hình thức: Bố cục đề cương phải
rõ ràng, chặt chẽ, hợp lý. Ngôn ngữ được sử dụng trong đề cương là ngôn ngữ đại
chúng, cách hành văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Diễn đạt mạch lạc, súc tích,
ngắn gọn. Độ dài của đề cương tùy thuộc vào nội dung vấn đề cần tuyên truyền.
- Về nội dung: Đề cương phải tạo điều
kiện cho người sử dụng hiểu đúng mục đích, ý nghĩa của văn bản pháp luật, hiểu
chính xác quy định của pháp luật, nắm
được các ý chính, trọng tâm của vấn đề, cách vận dụng các quy định pháp luật
trong các quan hệ xã hội.
2. Nội dung cơ bản của
Đề cương
Đề cương giới thiệu, phổ
biến một văn bản pháp luật thường bao gồm 3 phần chính sau đây:
Phần 1. Những vấn đề chung
Phần này thường nêu sự
cần thiết, mục đích, ý nghĩa của việc ban hành văn bản. Phần này cũng cần nêu
nguồn gốc pháp lý của văn bản (xuất phát từ Hiến pháp, Luật hoặc các văn bản
quy phạm khác), vị trí, vai trò của văn bản trong việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội; mối quan hệ của văn bản với các văn bản pháp luật hiện hành có liên
quan; quan điểm và những nguyên tắc chỉ đạo việc xây dựng văn bản pháp luật; tư
tưởng chủ đạo và yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong
đời sống hàng ngày.
Phần 2. Nội dung chủ yếu của văn bản
- Bố cục văn bản: Số chương, tên các chương, số điều trong chương để người
sử dụng có thể hình dung khái quát nội dung văn bản.
- Nội dung chủ yếu của
văn bản:
+ Nhiệm vụ của văn bản;
+ Đối tượng điều chỉnh,
phạm vi điều chỉnh của văn bản;
+ Những nguyên tắc chung
chi phối các quy định trong văn bản;
+ Những vấn đề được đề cập trong nội dung văn bản, ý
nghĩa các quy phạm, chế định trong văn bản;
+ Những điểm mới trong
văn bản so với pháp luật hiện hành, những điểm sửa đổi, bổ sung, lý do sửa đổi,
bổ sung, ý nghĩa của việc sửa đổi, bổ sung. Khi cần thiết có thể nêu một số vấn
đề gây tranh luận, những vấn đề đang tồn tại;
+ Quyền, nghĩa vụ của
các chủ thể và những người có liên quan, các quy định, thủ tục phải thực hiện;
+ Vị trí của văn bản
trong hệ thống pháp luật hiện hành, các văn bản sẽ ban hành kèm theo (nếu có).
Trong điều kiện có thể,
đề cương giới thiệu, phổ biến pháp luật nên có các tài liệu tham khảo kèm theo
bao gồm các số liệu, các trích dẫn để khẳng định, chứng minh, so sánh, mở rộng
những vấn đề đã nêu trong đề cương nhằm giúp cho đội ngũ báo cáo viên pháp
luật, chính trị viên, tuyên truyền viên pháp luật có điều kiện tham khảo, dẫn
chứng khi thực hiện các hoạt động phổ biến pháp luật cho cán bộ và nhân dân.
Phần 3. Tổ chức thực hiện
Đây là phần hướng dẫn
người sử dụng đề cương chủ yếu là các báo cáo viên pháp luật, chính trị viên,
tuyên truyền viên pháp luật. Trong phần này cần làm rõ các vấn đề:
- Nêu trọng tâm, trọng điểm phổ biến, gắn phổ biến văn
bản với việc thực hiện những chủ trương lớn, những vấn đề thời sự và yêu cầu
quản lý của ngành, của địa phương;
- Đưa ra các gợi ý về
biện pháp tổ chức thực hiện, phương pháp và hình thức phổ biến đối với từng
loại đối tượng, từng địa bàn căn cứ vào nhu cầu của đối tượng và điều kiện kinh
tế xã hội của địa phương; đặc biệt là tập trung quan tâm đến đối tượng cần chú
trọng tuyên truyền;
-
Các điều kiện bảo đảm thực hiện văn bản (kinh phí, nhân lực, cơ sở vật chất).
3. Các bước cần thiết để viết Đề cương
Bước 1: Chuẩn bị
- Nghiên cứu văn bản
pháp luật mới ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung.
- Thu thập và nghiên cứu
kỹ các tài liệu có liên quan trong quá trình xây dựng văn bản như: Tờ trình về
việc ban hành văn bản; báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản;
các văn kiện của Đảng, chính sách của nhà nước; các tài liệu trong nước
và nước ngoài liên quan đến nội dung văn bản để nắm được xuất xứ của văn bản
(nếu là văn bản ban hành lần đầu), văn bản gốc và yêu cầu thực tế khách quan
liên quan đến những nội dung cần sửa đổi, bổ sung (đối với văn bản sửa đổi, bổ
sung). Việc nghiên cứu các văn kiện của Đảng, văn bản gốc, các tài liệu trong
nước và nước ngoài là cơ sở để giải thích ý nghĩa việc đưa ra các quy phạm,
phân tích những điểm mới đưa ra trong văn bản hoặc những điểm sửa đổi, bổ sung
cơ sở lý luận và cơ sở thực tế của việc sửa đổi, bổ sung, sự cần thiết và lý do
sửa đổi, bổ sung.
- Tìm hiểu đối
tượng sử dụng, mục đích sử dụng đề cương để đưa ra các hướng dẫn, chỉ đạo cách
thức, biện pháp phổ biến thích hợp.
- Nghiên cứu tình
hình kinh tế xã hội, phong tục, truyền thống, tình hình vi phạm pháp luật, yêu
cầu quản lý về lĩnh vực đề cập trong văn bản, để phân tích các vấn đề nêu ra
trong văn bản đã đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội và yêu cầu
của công tác quản lý trong lĩnh vực đó.
Bước 2: Biên soạn đề cương.
Trước khi viết một đề
cương hoàn chỉnh, thường xây dựng bố cục đề cương chi tiết. Sau khi lãnh đạo
thông qua bố cục đề cương, có thể:
- Trực tiếp biên soạn
bằng cách dựa trên cơ sở đề cương chi tiết và các tài liệu đã được nghiên cứu
để viết đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật.
- Phối hợp với các cơ
quan chuyên môn tham gia soạn thảo văn bản đề nghị viết theo bố cục đề cương
chi tiết.
Bước 3: Biên tập đề cương.
Bước 4: Hoàn chỉnh, in ấn và gửi cho các đối tượng sử dụng.
III.
Kỹ năng biên soạn sách pháp luật phổ thông
1. Một số vấn đề chung
1.1. Khái niệm: Sách pháp luật phổ thông là một loại tài liệu phổ
biến pháp luật khá tiện dụng, được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả trong công
tác PBGDPL. Đây là loại tài liệu không thể thiếu trong công tác PBGDPL nói
chung và PBGDPL cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nhân dân nói riêng thông
thông qua văn hoá đọc. PBGDPL thông qua sách pháp luật phổ thông có những ưu
điểm và nhược điểm như sau:
* Ưu điểm:
- Phổ biến
được nhiều vấn đề, nhiều nội dung pháp luật;
- Đáp ứng
nhu cầu tìm hiểu pháp luật của nhiều đối tượng với nhiều trình độ nhận thức
khác nhau;
-
Người đọc có thể tự tìm hiểu, tiếp cận và lĩnh hội các nội dung pháp luật qua
việc đọc sách, chủ động nghiên cứu các vấn đề được viết trong sách;chủ động về
thời gian và các nội dung pháp luật cần tìm hiểu theo nhu cầu của bản thân.
* Nhược điểm:
- Hiệu quả việc phổ biến
pháp luật qua sách pháp luật quan hệ chặt chẽ với chất lượng biên soạn sách;
- Kiến
thức người dân thu nhận được thông qua việc đọc sách, nghiên cứu sách pháp luật
gắn với trình độ dân trí.
- Phổ biến pháp
luật qua sách phụ thuộc vào tính chủ động và sở thích, thói quen của người đọc.
1.2. Yêu cầu của việc biên soạn sách pháp luật phổ thông
- Về nội dung: Nội dung sách phải gồm các vấn đề phổ
biến, thường gặp trong đời sống hàng ngày, được nhiều người quan tâm, liên quan
đến việc hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật, đến các trình tự, thủ
tục thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân hoặc có liên quan trực tiếp đến
các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
- Về bố cục: Sách phải có bố cục rõ
ràng, kết cấu lôgic, chặt chẽ, câu văn ngắn gọn, súc tích; ngôn ngữ giản dị,
bình dân, dễ hiểu và chỉ mang một nghĩa, giúp người đọc hiểu một cách chính
xác, thống nhất đúng với các quy định của pháp luật và dễ thực hiện.
- Về hình thức: Sách cần
được trình bày khoa học, khổ chữ vừa phải, dễ đọc, chất lượng in rõ, khổ sách
và độ dày vừa phải, gọn gàng, dễ mang theo, thuận tiện cho người sử dụng. Sách
phục vụ các đối tượng là trẻ em phải có tranh minh họa, sách phục vụ đồng bào
dân tộc thiểu số phải được dịch ra tiếng dân tộc kèm theo tranh minh hoạ giúp
cho người sử dụng dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo.
- Về giá sách: Hợp lý, phù hợp với mức
thu nhập trung bình của nhân dân, tạo điều kiện cho nhiều người có nhu cầu, có
khả năng mua sách.
2. Tổ chức biên soạn
sách pháp luật phổ thông
Việc tổ chức biên soạn
sách pháp luật cần theo các bước sau:
2.1. Xây dựng kế hoạch
biên soạn sách
Kế hoạch biên soạn sách
cần có các nội dung:
-
Mục đích, yêu cầu biên soạn sách: Căn cứ mục đích của việc phổ biến pháp luật
trong từng giai đoạn, từng địa bàn để xác định mục đích biên soạn sách: giới
thiệu, phổ biến về những nội dung pháp luật nào? Tại sao cần phổ biến, giáo dục
những nội dung pháp luật đó? Yêu cầu cần phải đạt đối với việc biên soạn sách
là gì?
- Đối tượng sử
dụng sách: Cần xác định rõ sổ tay được biên soạn cho nhóm cán bộ, chiến sĩ hay
người dân? Nếu là người dân là nhóm đối tượng cụ thể nào? Việc xác định rõ đối
tượng không những giúp lựa chọn nội dung, hình thức phù hợp mà còn tạo thuận
lợi cho việc in, phát hành và sử dụng sách được thuận lợi, tiết kiệm, hiệu quả.
- Các nội dung chủ
yếu của cuốn sách: Có thể xác định trong kế hoạch dự thảo đề cương sách hoặc
kèm theo kế hoạch là Đề cương chi tiết cuốn sách.
- Thời gian hoàn
thành và giao nộp bản thảo
- Các thông số về cuốn sách: khổ sách, độ dày,
số trang, số phát hành, giá bìa (nếu là sách để bán);
- Số lượng in, nơi in;
- Phương thức phát hành;
- Nguồn kinh phí phục vụ việc biên soạn, phát
hành sách.
2.2. Thành lập Ban biên
tập và dự kiến người tham gia biên soạn
- Trưởng Ban biên
tập kiêm Chủ biên cuốn sách - là người chịu trách nhiệm chính về nội dung cuốn
sách, có trách nhiệm đọc, chỉnh lý và duyệt lần cuối cùng trước khi đưa in
sách;
- Ban biên tập là
những người tổ chức quá trình biên soạn và trực tiếp biên tập;
- Người tham gia biên soạn sách thường là các chuyên
gia trong những lĩnh vực có liên quan đến nội dung sách.
2.3. Tổ chức họp Ban
biên tập triển khai việc biên soạn và thống nhất các vấn đề
- Kế hoạch biên
soạn sách, mục đích, đối tượng sử dụng sách;
- Nội dung sách:
Bố cục sách (mấy phần), nội dung cụ thể trong từng phần (đề cương chi tiết);
- Thống nhất cách
biên soạn;
- Dự kiến người
tham gia biên soạn;
- Cung
cấp các văn bản, tài liệu tham khảo có liên quan đến nội dung sách.
2.4. Biên tập lần một
Sau khi thu bản thảo,
Ban biên tập tổ chức biên tập lần thứ nhất. Mục đích của việc biên tập lần thứ
nhất là:
- Xác
định xem nội dung cuốn sách được biên soạn đã thể hiện đúng mục tiêu, yêu cầu
và phù hợp với đối tượng sử dụng như trong kế hoạch đề ra chưa.
- Soát
lại câu chữ, cách hành văn, ngữ pháp, lỗi chính tả và hình thức thể hiện cho
thống nhất.
Sau khi biên tập lần thứ
nhất nếu thấy bản thảo đạt yêu cầu thì gửi cho các chuyên gia để xin ý kiến
thẩm định.
Nếu bản thảo chưa đạt
yêu cầu Ban biên tập sẽ đề nghị người viết sửa lại theo đúng mục tiêu, yêu cầu
trong kế hoạch đề ra.
2.5. Thẩm định
Người thẩm định là các
chuyên gia hàng đầu trong các lĩnh vực pháp luật liên quan đến nội dung sách.
Người thẩm định chủ yếu đọc góp ý, sửa chữa nội dung sách, tính chính xác của
các phân tích, giải thích và trích dẫn, các quy phạm pháp luật nêu trong sách.
2.6. Biên tập lần hai: Trên cơ sở ý kiến của các chuyên gia thẩm định, biên
tập viên đọc lại bản thảo trực tiếp sửa chữa, chỉnh lý lại nội dung đối
với những sai sót không nhiều, không ảnh hưởng lớn đến cuốn sách nếu thấy ý
kiến của chuyên gia thẩm định là chính xác.
Biên tập viên đọc lại và
hoàn chỉnh bản thảo sau đó đưa chủ biên đọc duyệt lần cuối.Trường hợp có những
sai sót lớn hoặc có ảnh hưởng đến bố cục hay nội dung sách thì cần báo cáo với
chủ biên và đề nghị người viết biên soạn lại theo các ý kiến đóng góp.
2.7. In ấn, phát hành
Đối với các sách biên
soạn theo yêu cầu của nhà xuất bản thì chỉ cần chuyển bản thảo sang cho nhà
xuất bản. Việc in và phát hành sẽ do nhà xuất bản đảm nhiệm.
Đối với các sách do cơ
quan, đơn vị tự biên soạn thì phải làm thủ tục như: Xin giấy phép xuất bản,
liên hệ với nhà in chuẩn bị các thủ tục in sách (làm ma két bìa, liên hệ với
nhà in ký hợp đồng in có quy định rõ giá thành, phương thức thanh toán, xác
định giá bán nếu là sách bán thu tiền). Nộp lưu chiểu sau khi in xong và tổ
chức phát hành (trong quân đội thường cấp phát miễn phí).
3. Kỹ năng biên soạn nội
dung sách pháp luật phổ thông
Sách pháp luật phổ thông
gồm: sách hỏi đáp pháp luật, sách hướng dẫn tìm hiểu pháp luật, sách pháp luật
bỏ túi. Với mỗi loại sách có những điểm khác nhau trong kỹ năng biên soạn.
3.1. Sách hỏi đáp pháp
luật
Sách hỏi đáp pháp luật
có thể sử dụng để giới thiệu, phổ biến một văn bản, một nội dung, một lĩnh vực
pháp luật.Nội dung sách hỏi đáp pháp luật có thể là một nội dung, một lĩnh vực
pháp luật hoặc gồm nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến các quan hệ xã hội
thường gặp trong đời sống chiến đấu, lao động và sinh hoạt hàng ngày của cán
bộ, chiến sĩ, nhân dân.
Bố cục sách có thể sắp
xếp theo:
-
Theo đối tượng như: Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức
quốc phòng, hạ sĩ quan, binh sĩ, người dân ở khu vực, địa bàn đóng quân.
- Theo vấn đề, theo nội
dung pháp luật hoặc các lĩnh vực pháp luật: An ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, biên giới, chủ quyền quốc gia, dân sự, hình sự, hôn nhân - gia đình....
Kỹ năng biên soạn sách
hỏi đáp pháp luật chủ yếu dựa trên phương pháp đặt câu hỏi và cách trả lời câu
hỏi. Có các dạng câu hỏi sau:
- Câu hỏi trực
tiếp: Hỏi trực tiếp vào nội dung vấn đề. Câu hỏi trực tiếp thường dùng trong
trường hợp cần giải thích các khái niệm, các thuật ngữ pháp lý, hoặc các vấn đề
có tính lý thuyết.
Ví dụ: “Biên giới quốc gia là gì và cách xác định
đường biên giới của một quốc gia?”, “Thế nào là hành vi trốn tránh thực hiện
nghĩa vụ quân sự ?”
Đối với câu hỏi trực
tiếp, câu trả lời thường gồm hai phần: nêu định nghĩa (hoặc nội dung) của khái
niệm, thuật ngữ; giải thích nội dung các khái niệm, thuật ngữ sau đó đưa ra một
ví dụ minh hoạ.
- Câu hỏi gián tiếp: Câu
hỏi gián tiếp được xây dựng trên cơ sở thông qua một tình huống, một sự việc
thường xảy ra trong thực tế để đưa ra câu hỏi. Câu hỏi gián tiếp thường được
dùng trong các trường hợp tuyên truyền phổ biến các quy định của pháp luật về
quyền, nghĩa vụ của người dân, các thủ tục hành chính, hoặc muốn làm rõ một quy
định của pháp luật.
Ví dụ: “Sau khi xuất
ngũ, T dự định sẽ trở lại trường học để học nghề. T muốn biết những đối tượng
nào được hỗ trợ đào tạo nghề? Để được hỗ trợ, các đối tượng phải đáp ứng những
điều kiện gì? T có thuộc đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ khi tham gia
đào tạo nghề không?”
Đối với câu hỏi loại
này, trước tiên cần trả lời trực tiếp vào tình huống câu hỏi đặt ra sau đó chỉ
dẫn đến các quy định của pháp luật trong các văn bản có liên quan đến câu hỏi
để người dân có thể tìm hiểu thêm khi cần. Cũng có thể đảo lại bằng cách đưa ra
các quy định của pháp luật liên quan đến tình huống trong câu hỏi, sau đó dựa
trên các quy định đó trả lời cho tình huống được hỏi.
Lưu ý: Câu
hỏi được đặt dưới dạng nào cũng cần ngắn gọn, rõ ràng, chỉ hỏi về một vấn đề,
một vụ việc hoặc một lĩnh vực nhất định để tránh trường hợp câu trả lời quá dài
dòng gây rối, khó hiểu cho người đọc.
3.2. Sách hướng dẫn tìm
hiểu pháp luật
Sách hướng dẫn tìm hiểu
pháp luật thường sử dụng để tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật (luật,
bộ luật, pháp lệnh, nghị định) mới ban hành, mới sửa đổi, bổ sung.
Việc biên soạn sách
hướng dẫn tìm hiểu pháp luật phải đảm bảo các yêu cầu chung tại mục 2 nêu trên.
Ngoài ra, nội dung, bố cục sách
tìm hiểu pháp luật cần chú ý một số điểm sau:
- Nội
dung sách thường chỉ gắn với một văn bản pháp luật hoặc một số nội dung chính
của một văn bản pháp luật.
- Bố cục sách có
thể như sau:
+ Vài nét về tình
hình thực tế liên quan trực tiếp đến các vấn đề thuộc nội dung sách;
+ Giải thích các
khái niệm, thuật ngữ nêu ra trong nội dung sách;
+ Các quy định của
pháp luật về vấn đề nêu trong nội dung sách;
+ Các điểm mới,
điểm sửa đổi, bổ sung (nếu có) so với các quy định pháp luật trước đây.
+ Hướng dẫn thực
hiện.
Các nội dung trong sách
đều phải viết thật ngắn gọn, cô đọng, rõ ràng, dễ hiểu, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc mang theo người để sử dụng khi cần.
3.3. Sách pháp
luật bỏ túi
Về cơ bản sách pháp luật
bỏ túi cũng giống với sách hướng dẫn tìm hiểu pháp luật. Nội dung sách pháp luật bỏ túi thường chỉ đề cập
đến một hoặc hai vấn đề. Mỗi vấn đề là một phần độc lập. Trong từng phần, bố
cục như sau:
- Giải thích các
khái niệm, thuật ngữ nêu ra trong nội dung sách;
- Các quy định của pháp
luật về vấn đề nêu trong nội dung sách;
- Hướng dẫn thực hiện
các quy định của pháp luật trong nội dung.
Sổ
tay pháp luật bỏ túi thường có một số cách trình bày như sau: (i) Trình bày
dưới dạng danh sách giúp người đọc dễ dàng nắm được toàn bộ nội dung thứ tự;
(ii) Trình bày dưới dạng bảng biểu, sơ đồ giúp người đọc nắm bắt các nội dung
phức tạp dù chỉ lướt qua, tiết kiệm từ ngữ, thể hiện logic và bố cục thông tin.
III.
Biên soạn tờ gấp pháp luật
1. Một số vấn đề chung
1.1. Khái niệm
Tờ
gấp pháp luật là một loại tài liệu phổ biến pháp luật được biên soạn một cách
ngắn gọn, rõ ràng trên khuôn khổ một tờ giấy nên dễ dàng, thuận tiện trong sử
dụng, là một trong những hình thức phổ biến pháp luật hiệu quả.
1.2. Đối tượng sử dụng
So với các loại tài liệu
phổ biến pháp luật khác như đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật, bản tin...
thì tờ gấp pháp luật có đối tượng sử dụng rộng rãi hơn, từ cán bộ, chiến
sĩ, người lao động, người sử dụng lao động, học sinh, sinh viên cho đến toàn
thể Nhân dân. Đây cũng là loại tài liệu PBGDPL được sử dụng khá phổ thông tại
các khu vực miền núi, biên giới, biển đảo.
1.3. Ưu điểm của tờ gấp pháp luật
- Tờ gấp pháp luật
hấp dẫn người đọc bằng hình thức thể hiện, in nhiều màu, có tranh ảnh minh họa,
trình bày rõ ràng...
-
Đầy đủ, chính xác, cụ thể về nội dung của vấn đề đưa vào tờ gấp pháp luật như:
Những điều cấm, những điều được làm, nên làm, quy chế, thủ tục tiến hành công
việc, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan hữu quan trong một lĩnh vực nào đó…
- Thuận tiện cho
việc sử dụng.
1.4. Một số hạn chế của tờ gấp pháp luật
- Nội dung cần ngắn gọn
nên hạn chế về lượng thông tin.
- Giá trị sử dụng không
được lâu bằng các tài liệu pháp luật khác.
2. Kỹ năng biên soạn tờ
gấp pháp luật
Căn cứ vào nhu cầu và
đối tượng sử dụng, người được giao nhiệm vụ có trách nhiệm lựa chọn những nội
dung pháp luật phù hợp với từng đối tượng để đưa vào tờ gấp. Ví dụ: Tờ
gấp pháp luật về quyền và nghĩa vụ, chế độ chính sách đối với hạ sĩ quan, binh
sĩ có thể chia thành phần chung về quyền và nghĩa vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ và
phần riêng về: Chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ trong thời gian
phục vụ tại ngũ; chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ khi xuất ngũ;
chế độ, chính sách đối với thân nhân hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ; chế độ, chính
sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị.
Cách thức thể hiện nội dung có thể là những
câu hỏi - đáp trực tiếp hoặc trả lời gián tiếp thông qua các tình huống pháp
luật.
Có thể biên soạn tờ gấp
với nhiều kích thước khác nhau tùy theo độ dài của nội dung nhưng kích thước
phổ biến, giá thành rẻ là khổ giấy A4 gấp 3 với kích thước 9.9 cm x 21cm.
Bố cục tờ gấp gồm bố cục
bìa, phần nội dung cho các trang, trám tranh, ảnh cho các trang, đặt tít của tờ
gấp, tít của từng phần, chọn chữ, chọn màu và phân bố, làm hoạ tiết, hình vẽ
trang trí cho từng trang. Bìa trước ghi tên của tờ gấp và tranh hoặc ảnh nhằm
gây ấn tượng về chủ đề của tờ gấp. Bìa sau cũng có tác dụng làm tăng tính thẩm
mỹ tờ gấp bằng những khẩu hiệu, danh ngôn, tranh, ảnh… Khi phân bố nội
dung cho các trang, cố gắng để mỗi trang thể hiện được một phần nội dung của tờ
gấp và giữa các phần có thứ tự lôgíc với nhau. Tít của từng phần có thể theo
tên chương, mục của văn bản hoặc tự đặt sát với nội dung của nó. Việc trám
tranh, ảnh vào các trang không những gây ấn tượng về nội dung mà còn làm tăng
tính hấp dẫn của tờ gấp. Việc thay đổi kiểu chữ, cỡ chữ, chọn màu,
phân bố màu, làm họa tiết, hình vẽ trang trí cho tờ gấp...là những việc có tính
chất mỹ thuật; nếu có điều kiện nên mời họa sĩ tham gia để tờ gấp được trình
bày đẹp và hợp lý.
IV. Biên soạn câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật
1.
Một số vấn đề chung
1.1. Khái niệm
Câu
chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật là loại tài liệu PBGDPL được biên soạn
ngắn gọn, nội dung mang tính tuyên truyền, giáo dục pháp luật cao, bám sát
những con người, sự việc, vấn đề, tình huống có thật trong đời sống pháp luật
hàng ngày. Đây là hình thức PBGDPL hiệu quả, được sử dụng khá rộng rãi.
Câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp
luật là hai khái niệm nhưng thực chất có cùng một nội dung, chỉ khác nhau ở
cách thể hiện. Không thể có tiểu phẩm pháp luật nếu không có câu chuyện pháp
luật. Câu chuyện pháp luật là nền tảng, là cơ sở để biên soạn tiểu phẩm pháp
luật.
1.2. Đối tượng sử dụng
Câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp
luật thường được sử dụng cho hình thức PBGDPL trên phương tiện phát thanh,
truyền hình hoặc hình thức sân khấu. So với các loại tài liệu PBGDPL khác như
đề cương giới thiệu văn bản pháp luật, sổ tay hỏi - đáp pháp luật, tờ gấp pháp
luật… thì câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật có ít đối tượng sử dụng
trực tiếp hơn. Bởi để sử dụng trực tiếp câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp
luật thì người sử dụng cần có năng lực, trình độ nhất định, nhất là năng lực
chuyển tải thành kịch bản sân khấu để dựng thành các tác phẩm sân khấu. Tuy
nhiên, khi đã được chuyển tải, xây dựng thành tác phẩm sân khấu, được đưa ra
công diễn, phát trên phương tiện thông tin đại chúng thì tác động, sức lan tỏa
của tiểu phẩm pháp luật lại rất lớn.
2.
Kỹ năng biên soạn câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật
Khi biên soạn câu chuyện pháp luật,
tiểu phẩm pháp luật cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Xác định rõ yêu cầu đối với câu chuyện pháp luật, tiểu
phẩm pháp luật để người viết thực hiện. Thường là yêu cầu về nội dung, độ dài
câu chuyện, tiểu phẩm; hình thức thể hiện; ngôn ngữ, văn phong sử dụng, nguồn
tư liệu liệu để xây dựng câu chuyện, tiểu phẩm pháp luật. Thông thường, một câu
chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật không nên quá dài, chỉ nên từ 1-3 trang
A4 là phù hợp.
- Đặt tên câu chuyện pháp luật, tiểu
phẩm pháp luật: Tên phải phù hợp với nội dung, chủ đề của câu chuyện pháp luật,
tiểu phẩm pháp luật. Nên đặt tên câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật đơn
giản, gần gũi, gắn với đời sống pháp luật tại địa bàn. Tránh đặt tên khó hiểu,
dài dòng.
- Về nội dung: Phải phản ánh những sự
thật của đời sống pháp luật, về một sự việc có thực, cụ thể hoặc khái quát, gắn
với đời sống hàng ngày, học tập, công tác, lao động của cán bộ, chiến sỹ, nhân
dân hoặc hướng cho họ quan tâm, tìm hiểu và áp dụng. Nội dung câu chuyện pháp
luật, tiểu phẩm pháp luật phục vụ mục đích, quan điểm của việc PBGDPL, vận động
cán bộ, chiến sỹ, Nhân dân chấp hành pháp luật.
- Về hình thức thể hiện:
+ Câu chuyện pháp luật được thể hiện
dưới hình thức văn kể, đơn giản, theo trình tự diễn biến câu chuyện.Chỉ cần đọc
hoặc nghe một người đọc là thể hiện được cốt chuyện. Câu chuyện pháp luật chủ
yếu sử dụng cho hình thức PBGDPL trên hệ thống phát thanh, truyền thanh.
+ Tiểu phẩm pháp luật được thể hiện
dưới hình thức đối thoại, có bối cảnh, cần nhiều người thể hiện hoặc cần được
thể hiện dưới nhiều vai (nhân vật). Nếu được thể hiện qua hình thức sân khâu
thì cần có không gian, con người, phương tiện, đạo cụ mới thực hiện được. Tiểu
phẩm pháp luật thường được sử dụng cho hình thức PBGDPL qua sân khấu, truyền
hình, phát thanh.
Câu chuyện pháp luật và tiểu phẩm pháp
luật cần phải ngắn gọn, diễn đạt bằng một ngôn ngữ đơn giản, dễ nhớ. Nên kết
hợp những phương pháp thể hiện báo chí và thủ pháp nghệ thuật của văn học, giữa
ngôn ngữ thông tin chính luận với ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật để thể hiện
nội dung pháp luật cần tuyên truyền, giáo dục. Có thể sử dụng ngôn ngữ hài hước
nhưng không dung tục, châm biếm nhưng không đả kích, thù oán. Người làm công
tác PBGDPL hoàn toàn có thể sử dụng câu chuyện pháp luật để xây dựng thành tiểu
phẩm pháp luật và ngược lại, từ tiểu phẩm pháp luật có thể cô đọng lại thành
câu chuyện pháp luật để sử dụng cho công tác PBGDPL./.
CHUYÊN
ĐỀ 5
Kỹ năng tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật
Thi tìm hiểu pháp luật
là hình thức thi do cơ quan nhà nước, các tổ chức, các doanh nghiệp (sau đây
gọi là đơn vị tổ chức cuộc thi) thực hiện nhằm động viên, khuyến khích người
dân nâng cao hiểu biết pháp luật, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ khi tham gia.
Mặc dù, việc tổ chức các cuộc thi mới mục đích nâng cao ý thức, nhận thức về
pháp luật của người dân đã được thực hiện từ lâu nhưng đây luôn được coi là một
trong những hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật hết sức quan trọng và hiệu
quả. Ngoài việc lựa chọn hình thức thi phù hợp, đơn vị tổ chức cuộc thi hoàn
toàn có thể chủ động về nội dung, về nhóm đối tượng hướng đến,...cũng như thời
điểm, thời gian tổ chức cuộc thi để được đạt hiệu quả cao nhất. Đặc biệt, hiện
nay với sự phát triển của internet và các thiết bị di động có kết nối mạng đã
“xóa bỏ” hoàn toàn hạn chế về khoảng cách địa lý khi thực hiện tổ chức những
cuộc thi có quy lớn trên phạm vi rộng.
Tuy nhiên, để tổ chức
một cuộc thi tìm hiểu pháp luật thành công, hiệu quả, đạt được mục tiêu đề ra,
các cá nhân (thuộc đơn vị tổ chức) trực tiếp tham gia tổ chức cần hiểu rõ về
các loại hình/hình thức thi phổ biến, quy trình thực hiện và một số kỹ năng
trong quá trình tổ chức.
1.
Các
loại hình thi tìm hiểu pháp luật
Đối với các cuộc thi tìm
hiểu pháp luật hiện nay, tùy vào mục đích, yêu cầu, điều kiện và hoàn cảnh mà
đơn vị tổ chức cuộc thi có thể lựa chọn một trong các loại hình, hình thức thi
hoặc kết hợp tổng hợp các loại hình và hình thức thi phổ biến sau đây:
- Loại hình sân khấu:
diễn kịch, kể chuyện, hùng biện, hỏi đáp pháp luật...
- Loại hình sáng tác:
thi vẽ, sáng tác: bài hát, thơ, tác phẩm văn học...
- Hình thức thi: trực
tiếp/qua mạng; cá nhân/tập thể; tự luận/trắc nghiệm;
Đối với từng loại hình
và hình thức thi nêu trên đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, vì vậy đơn vị
tổ chức cần lựa chọn kỹ để sử dụng loại hình và hình thức phù hợp với nội dung,
đối tượng và mục đích hướng tới để cuộc thi được tổ chức hiệu quả.
2.
Các
bước cần thực hiện khi tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật
Để tổ chức một cuộc thi
tìm hiểu pháp luật hiệu quả, đơn vị tổ chức cần biết chính xác các bước thực
hiện và nội dung công việc của từng giai đoạn khi tiến hành tổ chức cuộc thi.
Thông thường, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật thường được chia thành 03 giai
đoạn:
2.1. Giai đoạn chuẩn bị
Giai đoạn chuẩn bị chính
là giai đoạn quan trọng nhất của cuộc thi vì giai đoạn này chính là thời điểm
đưa ra chủ trương, mục đích và quyết định nội dung cũng như yêu cầu khi tổ chức
cuộc thi, từ đó hình thành chủ đề của cuộc thi. Để cuộc thi có ý nghĩa và lan
tỏa rộng rãi, chủ đề của cuộc thi thường mang tính thời sự hoặc gắn vối một sự
kiện, một chủ đề pháp luật quan trọng mà đơn vị tổ chức cuộc thi muồn thu hút
sự chú ý của nhóm đối tượng mà cuộc thi hướng tới.
Ngoài việc xác định lựa
chọn chủ đề, hình thức tổ chức và thời điểm tổ chức cuộc thi cũng hết sức quan
trọng (chiếm từ 60-70% việc thu hút thì sinh quan tâm, tham gia và tạo nên
thành công cho cuộc thi). Nội dung thi cũng phải đảm bảo phù hợp với đối tượng
mà cuộc thi hướng tới. Nội dung thi phải mang tính phổ cập, thiết thực và dễ
hiểu; tránh đưa ra những câu hỏi sáo rỗng hoặc mang tính học thuật, đánh đố
người tham gia dự thi. Hình thức tổ chức cuộc thi phải phù hợp, gần gũi, dễ
tiếp cận với đối tượng mà cuộc thi hướng tới.
Đồng
thời, trong quá trình lập kế hoạch thực hiện, đơn vị tổ chức cũng nên tính toán
chia cuộc thi thành nhiều phần thi nhỏ có nội dung và hình thức thi khác nhau
(vẫn phải đảm bảo không vượt quá chủ đề của cuộc thi) để cuộc thi thêm sinh
động. Nếu cuộc thi được tổ chức với nhiều phần thi nhỏ hoặc nhiều vòng thi thì
trong Thể lệ của cuộc thi, đơn vị tổ chức phải thông báo rõ ràng về thời gian,
cách tính điểm...để các cá nhân, tập thể nắm rõ trước khi tham gia dự thi.
Đối với các cuộc thi có
nhiều vòng, để thu hút đông đảo người tham dự và “giữ lửa” thì cuộc thi cũng
chỉ nên tổ chức thi 02 vòng với tổng thời gian không quá 02 tháng.
Kinh phí tổ chức cuộc
thi cũng là một trong những yếu tố góp phần quan trọng vào sự thành công của
mỗi cuộc thi. Vì vậy, trong quá trình xây dựng Kế hoạch cần dự toán tương đối
chi tiết các khoản chi phí tổ chức cuộc thi trên tinh thần chi tiết kiệm mà vẫn
đạt hiệu quả. Kinh phí cuộc thi bao gồm: kinh phí do cơ quan tổ chức cuộc thi
hoặc cơ quan có đối tượng được tuyên truyền pháp luật chịu trách nhiệm chính.
Cuộc thi có nhiều cơ quan tham gia Ban tổ chức thì các cơ quan đó cùng có trách
nhiệm hỗ trợ kinh phí dưới dạng quà tặng cho người đoạt giải, trao giải phụ....
Ngoài ra, cuộc thi có thể huy động tài trợ của các tổ chức, doanh nghiệp có lợi
ích liên quan đến việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật
Về giải thưởng, tuỳ
theo tính chất cuộc thi, đối tượng dự thi và khả năng kinh phí mà Ban tổ chức
sẽ quyết định về cơ cấu giải và giá trị giải (giải đặc biệt, nhất, nhì, ba,
giải khuyến khích cho tập thể, cá nhân và các giải phụ). Giải thưởng có thể
được trao bằng tiền hoặc hiện vật.
Trên cơ sở nhu cầu tổ
chức cuộc thi, tùy mô hình đơn vị mà tổ chức có sáng kiến tổ chức cuộc thi có
văn bản trình cá nhân hoặc cấp có thẩm quyền cho ý kiến về việc tổ chức cuộc
thi. Ý kiến trả lời bằng văn bản của người hoặc cấp có thẩm quyền là căn cứ
tiến hành tổ chức cuộc thi. Sau khi được cá nhân/t
2.1.1 Thành lập Ban tổ
chức và Tổ thư ký giúp việc Ban tổ chức
Để việc thống nhất ý
kiến và điều hành cuộc thi, thành viên Ban tổ chức nên là đại diện các cơ quan,
ban, ngành, đơn vị có liên quan đến nội dung và đối tượng dự thi hoặc nhóm đối
tượng mà đơn vị tổ chức cuộc thi muốn hướng đến. Tùy quy mô và mức độ quan
trọng của cuộc thi, ngoài việc thành lập Ban tổ chức cuộc thi, đơn vị tổ chức
cuộc thi có thể thành lập Tổ thư ký giúp việc Ban tổ chức cuộc thi. Thành viên
Tổ thư ký giúp việc Ban tổ chức cuộc thi cũng nên là các cá nhân thuộc các cơ
quan, ban, ngành, đơn vị có người trong Ban tổ chức cuộc thi. Đối với các cuộc
thi có quy mô nhỏ, phạm vi hẹp thì thành viên Ban tổ chức và Tổ thư ký giúp
việc Ban tổ chức có thể là người cùng thuộc đơn vị hoặc các bộ phận có liên
quan đến cuộc thi trong Bộ, ngành, đoàn thể đó.
Để đảm bảo tính pháp lý
trong việc tổ chức và chỉ đạo mọi hoạt động của cuộc thi, việc thành lập Ban tổ
chức và Tổ thư ký giúp việc Ban tổ chức phải được thể hiện bằng Quyết định tổ
chức và Quyết định thành lập được cấp có thẩm quyền phe duyệt. Trong đó, quy
định rõ Trưởng ban, phó ban, danh sách thành viên; nhiệm vụ, quyền hạn của Ban
Tổ chức.
- Quyền hạn của Ban tổ
chức:
+ Ban hành Kế hoạch tổ chức cuộc thi;
+ Thành lập Ban giám khảo, bộ phận thư ký (nếu cần);
+ Ban hành Quy chế của cuộc thi;
+ Thực hiện Kế hoạch tổ chức cuộc
thi từ giai đoạn chuẩn bị đến khi tổng kết;
+ Chủ trì, phối hợp với các thành viên thuộc các cơ quan,
đoàn thể có liên quan triển khai tổ chức cuộc thi;
- Quyền hạn, nhiệm vụ
của Tổ thư ký giúp việc Ban tổ chức:
+ Thành viên Tổ thư ký giúp nên là người thuộc đơn vị chủ
trì tổ chức hoặc phối hợp tổ chức cuộc thi (Tổ trưởng Tổ thư ký là người thuộc
đơn vị chủ trì tổ chức cuộc thi). Tổ thư ký giúp việc nên có từ 3 đến 5 thành
viên (là những người am hiểu về nội dung hoặc có nghiệp vụ về loại hình thi)
tuỳ theo quy mô và tính chất cuộc thi. Bộ phận này có nhiệm vụ giúp Ban tổ chức
thực hiện các công việc trong suốt quá trình tổ chức cuộc thi;
+ Duy trì, đôn đốc tiến độ triển khai, thực hiện;
+ Cập nhật số liệu cuộc thi, xây dựng phiếu chấm điểm; tổ
chức buổi thi hoặc chấm thi tuỳ theo hình thức thi, duyệt kết quả và xếp giải;
+ Tổ chức trao giải thưởng và tổng kết cuộc thi.
Lưu ý: Đề các thành viên của Ban tổ chức và Tổ thư ký
phối hợp hoạt động hiệu quả, cần có bảng phân công rõ trách nhiệm, nhiệm vụ cụ
thể của mỗi thành viên, dưới sự điều hành chung của Trưởng Ban tổ chức.
2.1.2 Xây dựng Thể lệ
của cuộc thi
Vì mục đích, yêu cầu và nội dung của các cuộc thi tìm
hiểu pháp luật là khác nhau nên từng cuộc thi sẽ có Thể lệ riêng. Nội dung của Thể
lệ thường bao gồm một số thông tin sau: đối tượng dự thi; các yêu cầu đối với
bài dự thi, thời gian và nơi nhận bài thi (nếu là thi viết) hoặc các quy định
về nội dung, cách thức thi (nếu là thi trả lời trực tiếp); thời gian tổ chức
cuộc thi; giải thưởng; đơn vị tổ chức cuộc thi (Ban tổ chức) và những nội dung
cần thiết khác...
Bên cạnh việc quy định về nội dung từng phần thi, hình
thức, cách thức thi, Quy chế cũng cần quy định rõ các tiêu chí phụ (kèm mức độ
ưu tiên) và cách giải quyết đối với trường hợp các thí sinh có tổng số điểm
bằng nhau.
Ngoài việc hướng dẫn thí sinh tham gia cuộc thi...thì
trách nhiệm của Ban Giám khảo, nguyên tắc chấm điểm bài thi, cách xét giải và
cơ cấu giải thưởng cũng phải được quy định ngắn gọn trong Thể lệ cuộc thi, cụ thể:
- Trách
nhiệm của Ban giám khảo:
+ Xây dựng bộ câu hỏi và đáp án.
+ Xây dựng thang điểm chấm thi.
+ Tổ chức chấm thi theo Quy chế cuộc thi do Ban tổ chức
ban hành.
- Nguyên
tắc tính điểm bài thi:
Bài thi của người dự thi được tính điểm (cộng gộp) theo thứ tự ưu tiên sau đây:
o Tổng điểm của các thành viên Ban giám khảo.
o Đối với
những cuộc thi trực tiếp, người dự
thi có thời
gian hoàn thành bài thi ít hơn (được tính trong trường hợp có nhiều người có
cùng tổng điểm của Ban giám khảo) sẽ có thành tích cáo hơn.
o
Người dự thi có thời điểm nộp bài/kết thúc phần thi sớm
hơn (được tính trong trường hợp có nhiều người có cùng số điểm của Ban giám khảo
và có thời gian và thời điểm hoàn thành bài thi giống nhau) sẽ có thành tích cáo hơn.
o Độ chính xác câu trả lời dự đoán do Ban giám
khảo đặt ra.
- Giải
thưởng:
Căn cứ vào kết quả chấm thi, Ban tổ chức sẽ thực hiện xếp
giải và tiến hành trao thưởng sau khi cuộc thi kết thúc theo đúng cơ cấu giỉa
thưởng được quy định trong Thể lệ.
Ngoài các giải chính như giải đặc biệt, nhất, nhì, ba,
khuyến khích, tùy vào tình hình thực tế Ban Tổ chức có thể sẽ trao một số giải
thưởng khác như: giải dành cho người thi cao tuổi nhất, giải dành cho người dự
thi ít tuổi nhất, giải dành cho phần xử lý tình huống hay nhất, giải dành cho
phần trình diễn năng khiếu hay nhất, giải dành cho tập thể có số lượng bài thi
nhiều nhất...
2.1.3
Thành lập Ban giám khảo
Tùy vào
quy mô, tính chất của cuộc thi mà Ban Tổ chức cuộc thi sẽ ra Quyết định thành
lập Ban giám khảo hoặc Ban chấm thi.
Trưởng Ban giám khảo hoặc Trưởng Ban chấm thi do Ban Tổ chức cuộc thi chỉ
định. Thành viên Ban giám khảo là những người có uy tín, có nghiệp vụ và am
hiểu về nội dung thi.
Thông
thường, Ban Giám khảo có nhiệm vụ tham gia xây dựng bộ câu hỏi - đáp án, quy
chế chấm thi; chấm thi; trên cơ sở kết quả chấm, dự kiến xếp giải trình Ban tổ
chức cuộc thi quyết định. Trong trường hợp việc xây dựng nội dung thi cần có sự
tham gia của các chuyên gia có chuyên môn thì Ban Tổ chức sẽ ra Quyết định
thành lập Ban ra đề. Trưởng Ban ra đề do Ban Tổ chức chỉ định.
2.1.4.
Thành lập Ban ra đề thi
Ban ra
đề thi có trách nhiệm xây dựng bộ câu hỏi – đáp áp cuộc thi đảm bảo tiến độ,
chất lượng và có trách nhiệm tham mưu Ban Tổ chức, Ban Giám khảo trả lời/giải
đáp thắc mắc của người dự thi về nội dung bộ câu hỏi – đáp áp cuộc thi.
2.1.5.
Chuẩn bị bộ câu hỏi - đáp án cuộc thi
Bộ câu
hỏi sử dụng cuộc thi tìm hiểu pháp luật thường là câu hỏi trắc nghiệm theo
hướng đưa ra các phương án để người dự thi lựa chọn trả lời, phù hợp với người
dự thi, bảo đảm dễ hiểu.
Đối với
những nội dung thi khó (cần có sự tham gia của các chuyên gia), Ban Tổ chức sẽ
thành lập Ban Ra đề để xây dự bộ câu hỏi, đáp
Tùy quy mô của cuộc thi mà Ban Tổ chức cuộc thi sẽ ra
Quyết định thành lập Ban Giám khảo (hoặc
Ban Chấm thi) trong đó chỉ định Trưởng Ban chấm thi. Thành viên Ban
chấm thi là những người có uy tín, có nghiệp vụ và am hiểu về nội dung thi.
2.1.6
Xây dựng Quy chế chấm thi
Quy chế
chấm thi cần quy định rõ cách thức chấm và cho điểm để đảm bảo sự thống nhất
trong đánh giá giữa các thành viên Ban giám khảo. Trong Quy chế cũng cần phải
chỉ rõ những hành vi và cách xử lý những hành vi không được phép khi tham gia
cuộc thi.
Tại các
cuộc thi có quy mô lớn thì việc thành lập Ban giám khảo, Ban ra đề và Quy chế
chấm thi có thể được thực hiện đồng thời với các công việc khác ở giai đoạn
tiến hành chuẩn bị cho cuộc thi. Trong trường hợp, cần thành lập Ban ra đề thì
viêc xây dựng bộ câu hỏi - đáp án cuộc thi được thực hiện ngay sau khi Ban tổ chức có Quyết định thành lập Ban ra
đề.
2.2. Giai
đoạn tiến hành tổ chức thi
2.2.1.
Phát động, công bố Thể lệ và nội dung cuộc thi
Tùy quy
mô mà đơn vị tổ chức chức cuộc thi có thể thực hiện phát động cuộc thi theo 02
hình thức:
(i)
Phát động bằng ban hành văn bản hướng dẫn, tổ chức cuộc thi và thông báo trên
các phương tiện thông tin đại chúng, Cổng/Trang Thông tin điện tử, mạng xã
hội...;
(ii) Tổ
chức Lễ phát động cuộc thi.
Đồng
thời, để tăng tính lan tỏa và dễ dàng huy động các cơ quan, đoàn thể...các
nguồn lực của địa phương cùng vào cuộc, đơn vị tổ chức cuộc thi nên mời các
đồng chí lãnh đạo chính quyền địa phương, lãnh đạo của các cơ quan thành viên
Ban tổ chức cuộc thi, lãnh đạo các đơn vị dân cư, các đoàn thể quần chúng, các
cơ quan thông tin đại chúng, thông tin cổ động... Cần gắn cuộc thi với việc
phát động phong trào tìm hiểu pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật trong
quần chúng nhân dân. Việc công bố về cuộc thi có thể được thực hiện bằng cách
đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng; hoặc thông báo thể lệ, nội
dung cuộc thi đến các tổ chức, các đơn vị có đối tượng thi. Việc tổ chức lễ
phát động cuộc thi nên áp dụng với các cuộc thi lớn, địa bàn rộng, nội dung
liên quan đến nhiều thành phần trong xã hội.
2.2.2
Truyền thông về cuộc thi
Để tạo
điều kiện thuận lợi, thu hút được nhiều người dự thi nhất, Ban tổ chức cuộc
thi cần sử dụng nhiều hình thức truyền thông về cuộc thi như thông tin chi
tiết về thể lệ, yêu cầu nội dung thi hoặc câu hỏi của cuộc thi; biên soạn, giới
thiệu cung cấp các tài liệu, văn bản liên quan đến cuộc thi; tuyên truyền miệng
trực tiếp hoặc qua hệ thống loa, đài truyền thanh ở cơ sở, áp phích thông báo ở
những nơi công cộng... Đối với những cuộc thi có quy mô lớn, cần gắn việc truyền
thôn về cuộc thi với việc vận động nhân dân chấp hành pháp luật, với các phong
trào của quần chúng ở cơ sở. Có như vậy, cuộc thi mới được nhiều người quan
tâm, chú ý theo dõi và hưởng ứng, tạo nên không khí hào hứng tham gia cuộc thi.
2.2.3 Hướng
dẫn, theo dõi, đôn đốc việc triển khai cuộc thi
Để cuộc
thi đạt kết quả tốt, trong suốt giai đoạn tiến hành cuộc thi Ban tổ chức phải
theo dõi diễn biến cuộc thi, định kỳ hoặc đột xuất họp để đưa ra biện pháp đôn
đốc cuộc thi. Đối với những cuộc thi quy mô, được tổ chức từ trung ương đến
cơ sở với nhiều đối tượng dự thi, Ban tổ chức còn cần quan tâm hướng dẫn các
đơnvị cấp dưới tiến hành các hoạt động triển khai cuộc thi để cuộc thi được
tổ chức tốt ngay từ cơ sở.
2.2.4
Tổ chức thi hoặc chấm thi
Đây là
công việc quan trọng và là khâu chính trong giai đoạn tiến hành tổ chức cuộc
thi, tuỳ hình thức cuộc thi mà công việc này được thực hiện với những cách khác
nhau.
- Đối với hình thức trả lời trực tiếp: Để buổi thi
đạt hiệu quả cao, tránh được tính trạng lộn xộn, bị động cho người dự thi khi
tham gia, đơn vị tổ chức cuộc thi không
những cần cung cấp rõ ràng về nội dung thi cho thí sinh mà còn cần phải chuẩn
bị một loạt các công việc khác như: làm thủ tục đăng ký danh sách người dự
thi, chuẩn bị địa điểm thi, sắp xếp thứ tự thi, phổ biến Quy chế thi.
- Đối
với hình thức thi viết: Người dự thi gửi bài thi đến Ban tổ chức nên cần
tổ chức thu nhận bài thi đúng địa điểm, thời gian, trình tự và thủ tục đã đề
ra. Ngay sau khi thu nhận bài thi, để tránh nhầm lẫn, mất mát và để thuận
lợikhi chấm thi, phải vào sổ, đánh số thứ tự các bài thi, lập danh sách theo
dõi, trong đó ghi rõ tên, tuổi, địa chỉ người có bài thi. Bài thi nên được
phân loại theo đơn vị dự thi để tiện cho việc thống kê, theo dõi và làm cơ sở
cho việc xét tặng giải tập thể. Trước khi tổ chức chấm thi cũng cần phải loại
các bài không hợp lệ. Thông thường các công việc này do bộ phận giúp việc cho
Ban Tổ chức thực hiện. Ở một số cuộc thi viết, bộ phận này có thể được giao
nhiệm vụ chấm sơ tuyển lần 1 các bài dự trước khi chuyển cho Ban chấm thi.
- Đối
với hình thức thi trực tuyến (trả lời các câu hỏi trắc nghiệm): Người
dự thi sử dụng máy tính, điện thoại, máy tính bảng...có kết nối internet truy
cập vào địa chỉ cuộc thi trong khoảng thời gian do đơn vị tổ chức quy định
trong Thể lệ, khai báo các thông tin cá nhân theo yêu cầu của Ban Tổ chức và
tiến hành trả lời các câu hỏi. Phần mềm cuộc thi sẽ ghi nhận kết quả của người
dự thi, tính toán, lựa chọn, sắp xếp danh sách thí sinh theo thứ tự điểm từ cao
xuống thấp phục vụ quá trình rà soát thông tin và trao giải của Ban tổ chức.
Dù là
cuộc thi được tổ chức dưới bất kỳ hình thức thi nào thì Ban giám khảo hoặc Ban
chấm thi đều cần được quán triệt Quy chế chấm thi, đáp án và thang điểm. Việc
chấm thi, đánh giá phải đảm bảo chính xác, khách quan, nghiêm túc, công bằng.
Các kết quả chấm thi được lưu lại để làm cơ sở cho việc xét giải và để giải
quyết những thắc mắc, khiếu nại phát sinh (nếu có).
2.3.
Giai đoạn tổng kết cuộc thi
Quá
trình tổng kết cuộc thi là việc Ban tổ chức đánh giá toàn diện kết quả cuộc
thi, rút kinh nghiệm về phương pháp tổ chức và triển khai cuộc thi; từ đó đề
ra phương hướng cho việc tổ chức các cuộc thi sau; đồng thời trao giải thưởng
cho những người đạt giải.
Để tạo
điểm nhấn, tăng tính lan tỏa về kết quả, ý nghĩa cuộc thi; tạo ấn tượng sâu
rộng trong mọi tầng lớp Nhân dân và với các thí sinh tham gia cuộc thi, việc
Ban tổ chức tổ chức Lễ tổng kết trao giải cũng hết sức quan trọng. Do đây là
hoạt động có hiệu ứng truyền thông mạnh mẽ nên Ban Tổ chức cần có sự chuẩn bị
hết sức kỹ lưỡng về nội dung, hình thức và các điều kiện hỗ trợ cần thiết như
hội trường, âm thanh, ánh sáng, lôgô hội thi, băng rôn, cổ động viên, người dẫn
chương trình và khách mời tham gia Lễ tổng kết... đảm bảo thể hiện được cả phần
“thi” trang trọng và phần “hội” sôi nổi, hấp dẫn.
Kết quả
cuộc thi cần được công bố rộng rãi, bằng nhiều hình thức như tổ chức Lễ tổng
kết và trao giải thưởng; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
in thành tài liệu, sách... để vừa phát huy, nhân rộng kết quả cuộc thi, động
viên những người dự thi, vừa khuyến khích, cổ vũ nhân dân tìm hiểu pháp luật,
chấp hành, tuân thủ pháp luật.
3.
Tổng kết
Cần lưu
ý, các công việc khi thực hiện tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật được trình
bày theo thứ tự trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Tuỳ quy mô, tính chất
cuộc thi, điều kiện thực tế của đơn vị tổ chức mà có thể điều chỉnh sao cho phù
hợp. Việc trình bày cụ thể nội dung, sắp xếp thứ tự các công việc như trên
nhằm mục đích giúp những người tham gia tổ chức hình dung được những công việc
cần thực hiện, các bước cần tiến hành và có thêm kỹ năng để tổ chức cuộc thi
tìm hiệu pháp luật thành công, hiệu quả.
CHUYÊN
ĐỀ 6
Kỹ
năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật
I.
Một
số vấn đề chung
1.
Khái
niệm tư vấn pháp luật
Tư vấn pháp luật là việc hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giải
đáp pháp luật nhằm cung cấp cho cá nhân, tổ chức những quy định pháp luật về
một vấn đề nhất định, giúp họ hiểu rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình trong
một quan hệ pháp luật cụ thể nảy sinh trong đời sống xã hội. Kết quả của hoạt
động tư vấn pháp luật là lời khuyên, hướng dẫn ứng xử đúng pháp luật, ý kiến
pháp lý bằng lời nói hoặc bằng văn bản giúp cá nhân, tổ chức thực hiện và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp theo quy định pháp luật.
2. Vị trí, vai trò, tác động
của phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật
2.1. Tư vấn pháp luật mang ý nghĩa xã hội sâu
sắc. Bởi vì, tư vấn pháp luật giúp định hướng hành vi ứng xử của các cá nhân,
tổ chức theo khuôn khổ pháp luật và quy tắc đạo đức. Đồng thời, tư vấn pháp
luật còn góp phần hòa giải, giải quyết các mâu thuẫn, xung đột liên quan đến
quyền, lợi ích, góp phần giảm thiểu các tranh chấp, giảm bớt tình trạng khiếu
kiện tràn lan, kéo dài do người dân thiếu hiểu biết pháp luật, hiểu không đúng
hoặc không đầy đủ pháp luật. Tư vấn pháp luật còn góp phần giám sát việc tuân
thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, của tổ chức và công dân; phát hiện
những khiếm khuyết của hệ thống pháp luật và kiến nghị sửa đổi, bổ sung, kịp thời
hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn. Chính vì vậy, thông qua quá trình thực
hiện các công việc cụ thể của hoạt động tư vấn pháp luật thì các mục tiêu và
nội dung của PBGDPL đồng thời cũng được lồng ghép thực hiện và đạt được hiệu
quả, cụ thể như sau:
a) Nâng cao hiểu biết pháp luật cho cá nhân, tổ chức.
Trước
khi đưa ra một lời khuyên hay các giải pháp xử lý vấn đề mà cá nhân, tổ chức
quan tâm, người thực hiện tư vấn pháp luật phải nêu những quy định pháp luật về
vấn đề đó (văn bản pháp luật nào, điều luật nào, nội dung chính sách, pháp
luật...). Do vậy, cá nhân, tổ chức cần tư vấn pháp luật không chỉ hiểu được cụ
thể chính sách, quy định pháp luật cụ thể mà còn nắm được thông tin liên quan
một cách tổng quát, đôi khi rộng hơn hoặc sâu hơn về vấn đề họ cần tìm hiểu.
b) Giải đáp pháp luật giúp cho người được tư vấn pháp luật, trợ giúp
pháp lý hiểu về quyền và lợi ích hợp pháp của mình:
Việc tư vấn pháp luật thường đòi hỏi phải đặt ra các câu hỏi về quyền, nghĩa vụ
của cá nhân, tổ chức trong mối quan hệ xã hội; người tư vấn pháp luật phải trả
lời từng câu hỏi để làm sáng tỏ vấn đề cá nhân, tổ chức quan tâm; giúp họ hiểu
rõ họ có quyền lợi gì, phải thực hiện nghĩa vụ gì trên cơ sở các quy định của
pháp luật.
c) Định hướng cho các đối tượng ứng xử đúng pháp luật trong từng hoàn
cảnh cụ thể để thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình:
Hoạt động tư vấn pháp luật là hoạt động mang lại kết quả trực tiếp, dễ nhận
thấy và đánh giá. Điều quan trọng nhất là giúp người được tư vấn pháp luật hiểu
rõ hoàn cảnh, quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó lựa chọn cách xử sự phù hợp với
pháp luật và đạo đức xã hội.
d) Giúp người được tư vấn pháp luật tuân thủ
pháp luật, có tình cảm, niềm tin pháp luật, xây dựng ý thức tôn trọng pháp
luật: Hiệu quả của quá trình tư vấn pháp luật, PBGDPL là sự chuyển biến
trong nhận thức, hiểu biết của từng cá nhân, tổ chức về pháp luật, từ đó hình
thành thái độ xử sự tích cực, tôn trọng và tuân thủ pháp luật trong các quan hệ
đời sống xã hội; đấu tranh, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật. Cá nhân, tổ
chức khi đã được tư vấn pháp luật, PBGDPL chắc chắn sẽ có hiểu biết ở mức độ
nhất định và hành vi ứng xử tích cực hơn so với trước đó.
2.2. Khác với các hình thức PBGDPL khác (phổ biến
pháp luật trực tiếp (tuyên truyền miệng về pháp luật), PBGDPL trên các phương
tiện thông tin đại chúng, hệ thống loa truyền thanh ở cơ sở…) mang tính chất
đại trà, hướng vào số đông, thì PBGDPL thông qua hoạt động tư vấn pháp luật chỉ
tập trung vào một hoặc một nhóm người cụ thể với nội dung pháp luật về vấn đề
họ quan tâm, nên sau khi được tư vấn thì họ rất “thẩm thấu”, hiểu rõ quy định
pháp luật về vấn đề đó, họ có thể tư vấn, hướng dẫn lại người khác, điều này
tạo ra sức lan tỏa, tác động đến những người xung quanh, thúc đẩy công tác
PBGDPL phát triển, đi vào thực chất, hiệu quả.
2.3. PBGDPL thông qua hoạt động tư vấn pháp luật
đánh giá ngay được hiệu quả của công tác PBGDPL. Hoạt động tư vấn pháp luật
không mang tính một chiều, đơn điệu như các hình thức PBGDPL khác, mà có sự
tương tác giữa người cần tư vấn pháp luật với người tư vấn pháp luật. Do vậy,
tác động ngay đến nhận thức và thay đổi thái độ, hành vi của người được tư vấn
pháp luật. Hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật thấy rõ.
III. Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua
tư vấn pháp luật
1.
Yêu cầu đối với người thực hiện:
Khi tư vấn pháp luật hay tuyên truyền pháp luật,
cán bộ thực hiện là chủ thể trong một quan hệ xã hội có tính đặc thù, không đơn
thuần là giao tiếp xã hội thông thường. Họ không chỉ cần có kiến thức chuyên
môn đảm bảo đủ khả năng để phục vụ hoặc cung cấp dịch vụ mà cần có vốn sống, hiểu
biết xã hội nhất định và kinh nghiệm ứng xử phù hợp với vị trí của mình trong
quan hệ với đối tượng cần được tư vấn, tuyên truyền pháp luật. Sau đây là những
tố chất, kỹ năng cần thiết nhất đối với người cán bộ vừa thực hiện tư vấn pháp
luật vừa làm công tác tuyên truyền pháp luật:
-
Có kiến thức pháp lý vững vàng: nếu cán bộ tư vấn không vững về kiến thức pháp luật thì sẽ làm giảm chất
lượng tư vấn, tuyên truyền pháp luật, mặt khác, cũng không tự tin khi thực hiện
công việc.
-
Thường xuyên tích lũy tư liệu, kiến thức: đời sống xã hội càng phát triển, các văn bản pháp luật
trong hầu hết các lĩnh vực được ban hành ngày ngày nhiều, nhu cầu về tư vấn
pháp luật ngày càng tăng về số lượng và tính chất phức tạp. Trong bối cảnh đó,
cán bộ tư vấn phải không ngừng cập nhật kiến thức pháp luật mới, tìm hiểu qua
các nguồn thông tin, tài liệu, tích lũy kinh nghiệm để xử lý kịp thời những vấn
đề mà công việc đặt ra.
-
Có khả năng nói và viết tốt: đây là hai kỹ năng không hoàn toàn do thiên bẩm mà chỉ có được qua quá
trình rèn luyện nghiêm túc, rút kinh nghiệm từ thực tế công việc hàng ngày.
-
Nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy với công việc: có thể nói đây là một phẩm chất không thể thiếu của những
người làm công tác xã hội; cần đặt mục tiêu phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội
lên hàng đầu. Người tư vấn pháp luật cần xác định kết quả tư vấn pháp luật là
làm cho người được tư vấn hiểu rõ quy định pháp luật và biết được cách xử sự
phù hợp, đúng pháp luật, đạt được mục đích cao nhất là bảo đảm quyền lợi của
mình một cách tối đa.
-
Có khả năng hòa đồng và giao tiếp: Rất nhiều cán bộ tư vấn pháp luật khẳng định rằng, trước khi bắt đầu
vào việc tư vấn, cần phải tạo được không khí thân thiện, cởi mở cho người đến
yêu cầu tư vấn. Qua những cư xử trong giao tiếp thông thường như chủ nhà tiếp
khách (chào hỏi, mời ngồi, pha trà, rót nước,
…), cán bộ tư vấn đã gây được ấn tượng tốt và tin cậy cho khách hàng của
mình.
-
Hiểu biết về tâm lý: Không
thể tư vấn và tuyên truyền pháp luật một cách hiệu quả nếu thiếu kỹ năng giao
tiếp, thiếu hiểu biết về tâm lý của đối tượng mà mình đang phục vụ. Điều này
càng quan trọng hơn khi đứng trước một đám đông trong các cuộc tư vấn, tuyên
truyền lưu động. Cùng với khả năng thuyết trình thì cán bộ tư vấn, tuyên truyền
cần có sự nhanh nhạy nắm bắt tâm lý của đối tượng được tư vấn và điều chỉnh
ngôn ngữ kịp thời, phù hợp với đặc điểm tính cách và phản ứng của họ.
-
Có vốn sống, am hiểu về văn hóa, phong tục, tập quán: Thông thường, cán bộ tư vấn càng lâu năm thì
càng thu được nhiều kết quả tốt trong công việc. Bởi lẽ, họ không chỉ tích lũy
được nhiều kiến thức, kinh nghiệm mà còn có bề dày về vốn sống, biết vận dụng sự
am hiểu về văn hóa, phong tục, tập quán của các vùng miền, các dân tộc vào phục
vụ cho công việc của mình. Đây là điểm rất cần định hướng cho những cán bộ trẻ
khi làm công tác xã hội, càng tích lũy vốn sống, tự trau dồi kiến thức về văn
hóa sẽ là nền tảng vững chắc giúp họ thành công hơn trong hoạt động nghề nghiệp.
2. Các
hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật
PBGDPL thông qua hoạt động tư vấn pháp luật được thực hiện
qua những hình thức sau đây:
Thứ nhất, PBGDPL thông qua hoạt động tư vấn pháp luật lưu động
Hầu hết các hoạt động tư vấn pháp luật đề cập ở đây chủ
yếu là tư vấn pháp luật mang tính chất lưu động, tức là cung cấp dịch vụ tư vấn
miễn phí đến tận cơ sở. Tư vấn theo hình thức này đã tạo điều kiện cho người
dân ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc
biệt khó khăn được tư vấn pháp luật, giảm bớt thời gian, chi phí đi lại. Đối
với cơ quan, tổ chức thực hiện tư vấn pháp luật, phổ biến pháp luật, việc trực
tiếp đến với người dân ở cơ sở sẽ giúp các cơ quan, tổ chức này có điều kiện
nắm bắt thực tế vụ việc khách quan, chính xác, giúp đỡ kịp thời cho đối tượng
cần được tư vấn pháp luật. Tại các cuộc tư vấn pháp luật, có nhiều hoạt động cụ
thể được tổ chức như: giải đáp, hướng dẫn, trả lời, phân tích về vấn đề, nội
dung mà đối tượng quan tâm trên cơ sở quy định pháp luật trong từng lĩnh vực cụ
thể. Trường hợp có nhiều người yêu cầu tư vấn pháp luật về nội dung giống nhau
thì người thực hiện tư vấn pháp luật có thể trả lời chung tại hội trường cho
tất cả mọi người tham gia cùng nghe. Ngoài ra, việc tư vấn có thể giới thiệu về
các thủ tục, trình tự giải quyết việc hành chính (như khai sinh, khai tử, đăng
ký kết hôn, chứng thực di chúc, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…); thực
hiện tư vấn pháp luật trực tiếp gắn với PBGDPL… Hoạt động này không chỉ giúp
người dân có thể giải toả được vướng mắc pháp luật của mình mà còn giúp những
người khác nâng cao hiểu biết pháp luật, có thể làm đúng quy định của pháp luật
khi gặp vướng mắc pháp luật tương tự.
Ví dụ: Bộ đội biên
phòng phối hợp với các sở, ngành, đoàn thể liên quan tổ chức các buổi tư vấn
pháp luật trực tiếp, miễn phí cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới
về hôn nhân gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình, đất đai,…
Thứ hai, PBGDPL thông qua hoạt động tư vấn pháp luật trực tiếp: Đây là các trường hợp
người yêu cầu tư vấn đề nghị được tư vấn trực tiếp thông qua các cuộc gặp hoặc
qua điện thoại. Đối với những vấn đề đơn giản, có thể tư vấn ngay thì người tư
vấn có thể trả lời ngay, đối với các vấn đề phức tạp, cần nghiên cứu kỹ, tìm
hiểu rõ thì có thể hẹn tư vấn sau một thời gian. Những trường hợp đề nghị tư
vấn trực tiếp có thể trả lời ngay, người tư vấn cần khéo léo lồng ghép phổ biến
các quy định pháp luật liên quan. Đối với trường hợp hẹn trả lời tư vấn sau thì
có thể có thời gian nghiên cứu để lồng ghép phổ biến pháp luật phù hợp, xoay
quanh vấn đề cần tư vấn.
Ví dụ: Tại nhiều đơn vị
trong quân đội đã thành lập các tổ tư vấn pháp luật, tổ tư vấn tâm lý – pháp lý
trực tiếp giải đáp các thắc mắc của cán bộ, chiến sĩ liên quan đến kỷ luật quân
đội, pháp luật của Nhà nước. Một số tổ tư vấn pháp luật có số điện thoại riêng
để tiếp nhận, giải đáp các câu hỏi, vấn đề cần tư vấn trong đơn vị.
Thứ ba, PBGDPL thông hoạt động tư vấn pháp luật bằng văn bản
Có những trường hợp cá nhân/tổ chức yêu cầu được tư vấn
bằng văn bản (văn bản giấy/văn bản điện tử). Hiện nay, các Cổng/Trang thông tin
điện tử của các cơ quan, đoàn thể đều có chuyên mục “Hỏi đáp” hoặc mục “trò
chuyện/chat”, người dân có thể gửi câu hỏi trực tiếp vào các chuyên mục này. Do
đó, khi nhận được các yêu cầu tư vấn bằng văn bản thì người tư vấn cần nghiên
cứu, tìm hiểu kỹ vấn đề cũng như các quy định pháp luật liên quan trước khi đưa
ra ý kiến tư vấn. Đồng thời, có thể lồng ghép tuyên truyền, phổ biến pháp luật
một cách phù hợp.
Ví
dụ: Quân nhân, binh sỹ nhờ tổ tư vấn pháp lý trong các đơn vị tư vấn qua email.
3. Các
bước để thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp
luật
Thực tế thời gian qua đã cho thấy PBGDPL đã không chỉ
hướng tới việc càng đông đảo người dân biết luật càng tốt mà ngày càng đi vào
chiều sâu nhờ thông qua một số hoạt động gắn liền với quá trình áp dụng pháp
luật, ví dụ: hoạt động xét xử của tòa án, thi hành án, trợ giúp pháp lý, tư vấn
pháp luật, hòa giải cơ sở,… Như vậy, tư vấn pháp luật cũng góp phần vào nhiệm
vụ giáo dục pháp luật, hoạt động này có chiều sâu hơn, chứa hàm lượng tri thức
nhiều hơn việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật một cách đơn giản, mang tính
phổ cập đại trà.
Đối với người tư vấn pháp luật, có thể tham khảo các bước
sau để vận dụng vào quá trình tư vấn lồng ghép với PBGDPL:
Bước 1: Tìm hiểu đối
tượng và nội dung pháp luật mà đối tượng quan tâm
- Tiếp cận và tìm
hiểu các thông tin liên quan: Để biết một cá nhân, một
tổ chức muốn được tư vấn pháp luật về vấn đề gì, cán bộ tư vấn cần trao đổi với
đối tượng (qua điện thoại, gặp trực tiếp hoặc thông qua đầu mối tổng hợp các
vướng mắc, yêu cầu cần tư vấn pháp luật thuộc một địa bàn cụ thể…). Cán bộ tư
vấn cần yêu cầu cung cấp các thông tin cơ bản như nghề nghiệp, độ tuổi, dân
tộc… của đối tượng.
-
Xác định rõ mục đích, nhu cầu: Sau
khi biết được những thông tin cần thiết, cán bộ tư vấn cần khẳng định lần nữa
về mục đích và nhu cầu của đối tượng cần tư vấn. Điều này có ý nghĩa rất quan
trọng đối với những công việc tiếp theo của cán bộ tư vấn. Bởi vì, nếu họ hỏi
về một vấn đề pháp luật chỉ để biết thì việc tư vấn chỉ dừng lại ở mức độ cung
cấp thông tin, giới thiệu về quy định pháp luật, hướng dẫn việc tìm tài liệu
pháp luật. Trong trường hợp họ thực sự có vướng mắc pháp luật thì vụ việc phải
được nghiên cứu kỹ lưỡng, chuẩn bị các phương án trả lời trước khi đưa ra ý
kiến tư vấn trực tiếp, chính thức cho đối tượng.
Trong trường hợp nhận được yêu cầu tư vấn bằng văn bản,
cán bộ tư vấn có thể tìm hiểu thông tin cụ thể bằng cách gửi văn bản hỏi hoặc
liên hệ trực tiếp với đối tượng yêu cầu tư vấn qua điện thoại, tin nhắn (qua
zalo, ô chat…). Thông thường việc yêu cầu tư vấn dưới hình thức văn bản cũng
thể hiện tương đối rõ mục đích và nhu cầu tư vấn pháp luật. Nhờ đó, cán bộ tư
vấn cũng dễ xác định được nội dung pháp luật cần thiết để tập trung trao đổi về
vấn đề đó. Tuy nhiên, không phải mọi đơn thư hay yêu cầu tư vấn pháp luật đều
thể hiện một cách rõ ràng, dễ đọc, dễ hiểu. Cán bộ tư vấn phải biết chọn lọc và
tìm ra trúng mục đích, vấn đề chính mà đối tượng yêu cầu tư vấn.
Bước
2: Công tác chuẩn bị
- Về nội dung tư vấn
và tuyên truyền:
Cần tạo thói quen chuẩn bị cẩn thận, tỉ mỉ về nội dung,
tài liệu trước khi thực hiện tư vấn hay phổ biến một quy định pháp luật. Để có
thể ứng phó với mọi tình huống, cán bộ tư vấn cần thường xuyên tích lũy kiến
thức và kinh nghiệm để có thể tự tin khi trao đổi thông tin một cách trực tiếp;
hoặc hẹn trả lời sớm sau khi đã nghiên cứu hồ sơ, tài liệu. Do vậy, nội dung
pháp luật được đưa ra tư vấn hay tuyên truyền sẽ đảm bảo tính chính xác cao,
thông qua xử lý thông tin của cán bộ tư vấn hoặc có sự trao đổi nghiệp vụ với
đồng nghiệp.
- Về lựa chọn hình
thức:
Có nhiều hình thức tư vấn pháp luật như tư vấn trực tiếp
(qua đối thoại trực tiếp, qua điện thoại) hoặc tư vấn gián tiếp (qua văn bản:
thư trả lời, giải đáp qua báo, đài, email, chat …), tư vấn tại chỗ hoặc lưu
động, xây dựng các diễn đàn, chuyên mục trên sóng phát thanh, truyền hình v.v…
Cán bộ tư vấn có thể ở thế chủ động hoặc bị động trong
việc lựa chọn hình thức tư vấn pháp luật. Tuy nhiên, dù ở hoàn cảnh nào, cán bộ
tư vấn cũng cần lựa chọn cho mình một cách giải thích, hướng dẫn càng đơn giản
càng tốt, mang tính thuyết phục nhất giúp cho đối tượng dễ nghe, dễ hiểu và dễ
thực hiện. Trong trường hợp tổ chức các cuộc tư vấn và PBGDPL tại chỗ hoặc lưu
động thì cán bộ tư vấn có vai trò chủ động để đưa ra hình thức tư vấn (thuyết
trình, hỏi đáp, đóng vai diễn các tình huống pháp luật, v.v…). Vì vậy, cần lưu
ý trong việc chuẩn bị nội dung tư vấn, phổ biến pháp luật phù hợp với hình thức
tư vấn.
Ví dụ: khi tư vấn pháp luật trong vài phút qua điện thoại
thì rất khó có thể tranh thủ tuyên truyền pháp luật, khác với việc tổ chức các
buổi tư vấn pháp luật tại trụ sở của Trung tâm tư vấn pháp luật, tại trụ sở
doanh nghiệp, tại trụ sở Ủy ban nhân dân …
- Về chuẩn bị phương
tiện hỗ trợ:
Để có được hiệu quả như mong muốn thì hoạt động tư vấn
pháp luật cần có sự kết hợp, hỗ trợ của một vài phương thức tuyên truyền pháp
luật khác, ví dụ: sử dụng băng tiếng, băng hình, tờ rơi, tờ gấp, tài liệu tuyên
truyền khác, khai thác tiện ích của các phương tiện truyền thông, hệ thống
truyền thanh ở cơ sở…
Tại các cuộc tư vấn kết hợp tuyên truyền pháp luật có vài
chục hoặc hàng trăm người tham dự, các thiết bị âm thanh, phương tiện kỹ thuật
hỗ trợ là yếu tố không thể thiếu góp phần tăng hiệu quả của cuộc tư vấn đó, ví
dụ: loa đài, tivi, máy chiếu, màn hình chiếu, băng, đĩa, sách, tranh ảnh minh
họa …
Bước
3: Thực hiện việc cung cấp thông tin, hướng dẫn, giải đáp
Dù ở mức độ nông hay sâu, rộng hay hẹp thì kết quả của
những thao tác trong quá trình tư vấn đã giúp cho một người, một nhóm hay một
tổ chức có điều kiện biết đến các quy định pháp luật, một hoặc nhiều văn bản
pháp luật về vấn đề đó. Đối với những người đã biết, khi được tư vấn để giải
quyết một vướng mắc, vụ việc pháp luật cụ thể thì họ lại có dịp hiểu sâu hơn và
biết cách vận dụng quy định pháp luật đó đối với hoàn cảnh cụ thể của mình thế
nào.
Để có thể kết hợp việc PBGDPL qua nội dung tư vấn pháp
luật, cán bộ tư vấn cần hết sức linh hoạt, tránh sự gượng ép. Không nên đưa ra
những vấn đề quá xa, quá sâu, không liên quan với nội dung tư vấn. Ví dụ: Người
yêu cầu tư vấn là quân nhân trong các đơn vị lực lượng vũ trang, thì cán bộ tư
vấn pháp luật có thể liên hệ đến một số vấn đề pháp luật thiết thực đối với
cuộc sống và công việc hiện tại của họ như: về chế độ đối với quân nhân, kỷ
luật Quân đội, pháp luật về quân sự, quốc phòng…
Sau mỗi hoạt động tư vấn hay tuyên truyền pháp luật cần
phải có sự nhìn lại, đánh giá những việc đã làm, xem điều gì đạt được, điều gì
chưa được và cần rút kinh nghiệm cho lần sau. Mỗi cán bộ tư vấn có thể tự mình
rút ra một số bài học, kinh nghiệm hữu ích từ từng hoạt động hoặc chia sẻ thu
hoạch của mình với đồng nghiệp tại các cuộc họp tổng kết để khái quát thành bài
học, kinh nghiệm chung.
Tóm lại, kết hợp những nội dung gì để phổ biến pháp luật,
lồng ghép những vấn đề gì để giáo dục nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật cho
người dân, cho cơ quan, tổ chức tùy thuộc vào sự nhanh nhạy, linh hoạt của cán
bộ tư vấn pháp luật. Cán bộ tư vấn pháp luật cần vận dụng kiến thức pháp luật,
sự hiểu biết, kỹ năng về PBGDPL trong quá trình thực hiện tư vấn pháp luật để
hoạt động này càng thêm ý nghĩa và hiệu quả trên thực tế./.
CHUYÊN
ĐỀ 7
Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TỦ SÁCH PHÁP LUẬT
TRONG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
Tủ sách pháp luật là
nơi lưu giữ, quản lý sách, báo, tài liệu pháp luật để phục vụ nhu cầu nghiên
cứu, học tập, tìm hiểu chính sách, pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật,
tiếp cận thông tin pháp luật, hòa giải ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Tủ sách pháp luật tại cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân là Tủ
sách pháp luật có các bộ phận sách, tài liệu pháp luật được lưu giữ, quản lý
dưới dạng giấy và các vật mang tin khác để phục vụ cán bộ, công chức, viên
chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, chiến sĩ, người lao động
trong lực lượng vũ trang nhân dân (khoản 1 và khoản 4 Điều 2 Quyết định số
14/2019/QĐ-TTg ngày 13/3/2019 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng, quản lý,
khai thác Tủ sách pháp luật).
Thực tế
cho thấy Tủ sách pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng trong việc truyền tải chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến cán bộ, Nhân dân, trong đó có
tại các cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân. Tủ sách pháp luật giúp
người đọc là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ
quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, chiến sĩ, người lao động trong lực
lượng vũ trang nhân dân tìm hiểu, tra cứu và vận dụng các quy định pháp
luật vào thực tế một cách đầy đủ, chính xác và có hệ thống; là công cụ, phương
tiện để tiếp cận, tìm hiểu, thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước vào việc điều hành, giải quyết các công việc hàng ngày ở
cơ quan, đơn vị. Việc xây dựng Tủ sách pháp luật góp phần tăng cường phổ biến
pháp luật, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật trong cán
bộ, Nhân dân, tạo điều kiện cho việc giám sát thực thi pháp luật, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tủ sách pháp luật nếu được sử dụng khai
thác có hiệu quả sẽ là công cụ hữu hiệu nâng cao chất lượng hoạt động của cơ
quan nhà nước nói chung, trong cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nói
riêng, góp phần tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
II. KỸ NĂNG XÂY DỰNG, QUẢN LÝ TỦ SÁCH PHÁP
LUẬT
Việc xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật tại cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang
nhân dân phải bảo đảm các yêu cầu sau đây: (i) Địa điểm đặt Tủ sách pháp
luật phải thuận tiện cho việc khai thác, sử dụng; sắp xếp, bố trí phòng đọc
phục vụ đọc sách tại chỗ; (ii) Thường xuyên rà soát, phân loại sách, tài liệu
bảo đảm khoa học, tra cứu thuận tiện; chọn lọc sách, tài liệu pháp luật có chất
lượng, giá trị để bổ sung, trang bị theo định kỳ, phù hợp điều kiện, đặc điểm
vùng, miền, cơ quan, đơn vị; (iii) Theo yêu cầu của từng cơ quan, đơn vị, người được giao nhiệm vụ xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách
pháp luật trong cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân phải thực hiện
các kỹ năng sau đây:
1.
Kỹ năng tham mưu xây dựng Tủ sách pháp luật
Để xây dựng Tủ sách
pháp luật, trước hết cần ra quyết định thành lập. Thủ trưởng cơ quan, đơn vị
của lực lượng vũ trang nhân dân ra quyết định thành lập Tủ sách pháp luật.
Quyết định thành lập phải quy định cụ thể về địa điểm đặt Tủ sách pháp luật;
người phụ trách và quyền hạn, nhiệm vụ của người phụ trách; phạm vi và đối
tượng phục vụ; Nội quy hoạt động và kinh phí hoạt động của Tủ sách pháp luật.
Tủ sách pháp luật tại cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân đặt tại
nơi thuận tiện cho việc quản lý, khai thác phù hợp với điều kiện thực tế theo
quyết định của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân.
Để xây dựng được Tủ sách pháp luật, trước hết cần khảo sát
tại cơ quan, đơn vị để nắm được nhu cầu của đối tượng sử dụng để tìm nguồn
cung cấp sách. Nguồn chính là đặt mua từ các nhà xuất bản, công ty phát hành
sách, đại lý hoặc các hiệu sách khác. Một số nguồn khác như sách được cấp phát
từ các cơ quan tuyên giáo của Đảng, các cơ quan tư pháp; các viện nghiên cứu
pháp lý…Các loại sách, tài liệu pháp luật trong Tủ sách pháp luật cần bảo đảm
theo quy định của Thủ tướng Chính phủ và phù hợp với tính chất, chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân, từng đối tượng
phục vụ và có các loại sau đây: (i) Tài liệu, đề cương giới thiệu các luật,
pháp lệnh; (ii) Sách, tài liệu hỏi đáp, bình luận, giải thích, hướng dẫn pháp
luật; tờ gấp, tiểu phẩm, câu chuyện pháp luật; (iii) Sách, tài liệu phục vụ
công tác quản lý, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, giảng dạy và học tập; (iv)
Các sách, tài liệu pháp luật phù hợp khác. Căn cứ hướng dẫn danh mục sách, tài
liệu pháp luật theo định kỳ của Bộ Tư pháp, Tủ sách pháp luật cơ quan, đơn vị
của lực lượng vũ trang nhân dân cần được bổ sung kịp thời các sách, tài liệu
pháp luật mới; thường xuyên rà soát, cập nhật, hệ thống hóa sách, tài liệu pháp
luật.
Trong
kế hoạch cần đề cập đến việc bố trí phòng đọc, giá sách, tủ thư mục, trang
thiết bị phục vụ bạn đọc như bàn đọc, phiếu mượn, thẻ bạn đọc, việc cập nhật,
bổ sung sách, tài liệu pháp luật…Kinh phí xây dựng ban đầu hoặc chi phí hoạt
động hằng năm của Tủ sách pháp luật được tính toán dựa trên nhu cầu sách phải
mua, trang thiết bị phục vụ và chi phí tổ chức khai thác, bảo quản Tủ sách pháp
luật. Trong khi xây dựng quy chế khai thác Tủ sách pháp luật, nội quy phòng
đọc, cần nêu các biện pháp nhằm phục vụ tốt nhất cho bạn đọc và các biện pháp
bảo quản, bảo toàn sách.
Sau
khi hoàn tất việc xây dựng Tủ sách pháp luật, nên tổ chức việc khai trương/ra
mắt Tủ sách pháp luật. Trong buổi ra mắt, tuỳ theo quy mô của Tủ sách pháp
luật, có thể mời các cơ quan, đơn vị liên quan, các cơ quan thông tin đại
chúng. Nếu không tổ chức được buổi ra mắt thì nên tổ chức thông báo rộng rãi
trong cơ quan, đơn vị, từng đối tượng bằng hình thức phù hợp.
Hiện nay, trước sự phát
triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, việc xây dựng, quản lý, khai
thác văn bản quy phạm pháp luật, tài liệu pháp luật phục vụ cho các hoạt động
nêu trên cũng phải nhanh chóng đổi mới để bắt kịp với xu thế của thời đại, đáp
ứng yêu cầu của người khai thác, sử dụng. Do đó, người được giao nhiệm vụ xây
dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật cần sử dụng kỹ năng tham mưu thành
lập Tủ sách pháp luật điện tử của cơ quan, đơn vị mình.
Để tham mưu thành lập Tủ sách
pháp luật điện tử, cần chuẩn bị:
-
Về cơ sở vật chất:
+ Có máy vi tính nối mạng Internet.
+ Có phần mềm để vận hành Tủ
sách pháp luật điện tử.
+ Có kinh phí để thuê tên miền,
lưu trữ dữ liệu.
- Về nhân lực: Có người quản lý Tủ sách
pháp luật điện tử (quản trị mạng).
Khi tham mưu
thành lập Tủ sách pháp luật điện tử, cần lên giao diện của Tủ sách (gồm các thư
mục như: Tài liệu, đề
cương giới thiệu các luật, pháp lệnh; sách, tài liệu pháp luật; sách, tài liệu hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ; văn bản quy phạm pháp luật (trung ương và địa
phương)… để đáp ứng yêu cầu
của người truy cập và thu hút lượng truy cập Tủ sách pháp luật điện tử.
2. Kỹ năng quản lý Tủ sách pháp luật
2.1. Xây dựng Quy chế quản lý, khai thác Tủ sách
pháp luật
Quy chế xây dựng, quản lý và khai thác Tủ sách pháp luật tại cơ quan, đơn vị của
lực lượng vũ trang nhân dân có các nội dung sau đây:
- Nguyên tắc quản lý, bảo quản và khai thác Tủ sách pháp
luật;
- Nhiệm vụ bảo quản và phục vụ của người quản lý Tủ sách
pháp luật;
- Quyền lợi của người phụ trách Tủ sách pháp luật;
- Các hình thức phục vụ;
- Thời gian phục vụ;
- Điều kiện và thủ tục mượn sách, báo, tài liệu pháp
luật;
- Trách nhiệm của bạn đọc;
- Xử lý đối với các trường hợp làm hư hỏng hoặc làm mất sách báo, tài
liệu pháp luật.
2.2. Tổ chức xử lý kỹ
thuật sách, báo
Bước 1. Đăng ký sách, báo là ghi chi tiết vào sổ đăng
ký cá biệt từng quyển sách, từng số báo vừa được nhập vào Tủ sách pháp luật.
- Mục đích của việc
đăng ký sách, báo: Sách, báo mua về phải được ghi vào Sổ đăng
ký cá biệt nhằm giúp cho người quản lý Tủ sách pháp luật bảo quản được tài sản,
thống kê được số lượng sách để kiểm kê vào dịp cuối năm và lên được danh mục
sách thiếu, từ đó có kế hoạch tiếp tục bổ sung.
- Yêu cầu của việc
đăng ký sách, báo: Công tác đăng ký sách, báo phải được tiến
hành thường xuyên, liên tục, kịp thời, chính xác theo thứ tự ngày, tháng nhập
hay xuất sách, báo ra khỏi Tủ sách pháp luật.
- Phương pháp đăng ký
sách, báo: Đăng ký cá biệt là vào sổ từng
quyển sách riêng biệt nhập vào Tủ sách pháp luật. Một tên sách có nhiều bản,
thì mỗi bản (quyển) tính là một đơn vị độc lập.
Sổ đăng ký cá biệt phải được bảo quản lâu dài, cẩn thận,
viết rõ ràng, sạch sẽ, không được tẩy xoá.
Sổ đăng ký cá biệt được ghi theo số thứ tự, bắt đầu từ
01. Số này được ghi liên tục từ năm này qua năm khác, từ cuốn này sang cuốn
khác (Ví dụ: Số đăng ký cuối cùng của quyển 1 là 1025 thì quyển thứ 2, số thứ
tự sẽ được bắt đầu bằng số 1026). Đồng thời số đăng ký cá biệt phải được ghi ở
trang tên sách (trang chính sau bìa), trang 17 và vào nhãn sách.
Mỗi cuốn sách được ghi vào một dòng của sổ đăng ký cá biệt. Trong sổ
đăng ký cá biệt, sách được đăng ký bằng ngôn ngữ xuất bản của cuốn sách đó
(tiếng Việt, tiếng dân tộc…). ở cột thứ nhất điền ngày vào sổ; cột thứ 2 là thứ tự; cột thứ 3 là tác giả
(nếu có)/tên sách; cột thứ 4 điền các yếu tố liên quan đến xuất bản (nơi xuất
bản, năm xuất bản); cột thứ 5 là giá tiền; cột thứ 6 là các yếu tố liên quan đến nhập sách (đợt và ngày nhập
sách); cột cuối cùng là phụ chú.
Sổ đăng ký cá biệt
Các sách được xuất khỏi Tủ sách pháp luật (đã nhập vào Tủ
sách mà nay lại sử dụng vào việc khác không quay trở lại Tủ sách nữa) thì phải
được xoá tên trong sổ đăng ký cá biệt và phải ghi rõ lý do xuất (ghi ở cột phụ
chú của sổ đăng ký cá biệt).
Bước 2. Sơ bộ xử lý kỹ thuật tài liệu, sách, báo
- Đóng dấu: Tài liệu, sách, báo mới nhận được phải đóng
dấu của Tủ sách.
+ Nội dung dấu của Tủ sách pháp luật: Có thể tham khảo
nội dung con dấu của Tủ sách pháp luật bao gồm:
Tủ sách
pháp luật
Cơ quan,
đơn vị .....…
+ Kích cỡ của dấu: Cao: 2cm; Rộng: 4cm
+ Font chữ trên dấu:
Tủ sách pháp
luật (Times new Roman in
hoa, đậm, cỡ chữ 9)
Xã (Phường/Thị
trấn) (Times new Roman in hoa,
đậm, cỡ chữ 11)
Đối với sách pháp luật: Đóng dấu ở trang tên
sách (dưới tên sách góc phải) và ở trang 17 (phía dưới, góc phải). Trên dấu ở
hai nơi đó sẽ ghi Số đăng ký cá biệt của cuốn sách.
Đối với báo, tạp chí: Đóng dấu vào trang đầu
của báo, tạp chí.
- Dán nhãn sách: Việc dán nhãn sách được thực hiện vào
phía trên, bên trái của bìa sách.
Nhãn sách là một mảnh giấy hình chữ nhật đứng, cao 3cm,
dài 2cm bên trong ghi ký hiệu phân loại của tài liệu.
Nhãn gồm hai phần: Phần trên của nhãn (1/3) “Tủ sách pháp
luật cơ quan, đơn vị…”, phần dưới ghi ký
hiệu phân loại của cuốn sách, dưới cùng ghi số đăng ký cá biệt của cuốn sách.
Nhãn sách:
2cm
Tủ sách pháp luật cơ quan, đơn vị……… |
Ký hiệu phân loại: ----------------------- Số đăng ký cá biệt: |
3cm
Bước 3. Phân loại tài liệu, sách,
báo: Tài
liệu trong Tủ sách pháp luật cần được sắp xếp theo 4 nhóm cơ bản sau đây:
Nhóm
1: Tài liệu, đề cương giới thiệu các luật, pháp lệnh;
Nhóm
2: Sách, tài liệu hỏi đáp, bình luận, giải thích, hướng dẫn pháp luật; tờ gấp,
tiểu phẩm, câu chuyện pháp luật;
Nhóm
3: Sách, tài liệu phục vụ công tác quản lý, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ,
giảng dạy và học tập;
Nhóm
4: Các sách, tài liệu pháp luật phù hợp khác. Căn cứ hướng dẫn danh mục sách,
tài liệu pháp luật theo định kỳ của Bộ Tư pháp, Tủ sách pháp luật cơ quan, đơn
vị của lực lượng vũ trang nhân dân cần được bổ sung kịp thời các sách, tài liệu
pháp luật mới; thường xuyên rà soát, cập nhật, hệ thống hóa sách, tài liệu pháp
luật.
Bước 4. Xây dựng hệ thống mục lục tra cứu
Để giúp bạn đọc thuận lợi trong nghiên cứu các tài liệu,
sách, báo pháp lý, thì việc xây dựng hệ thống mục lục tra cứu tài liệu, sách,
báo là một việc làm rất cần thiết, không thể thiếu trong mỗi Tủ sách pháp luật.
- Làm phích thư viện: Phích thư viện là một miếng bìa trắng (hoặc
màu) dài 12,5cm, cao 7,5cm trên đó mô tả tài liệu, sách, báo giúp bạn đọc tra
cứu một cách dễ dàng.
Mô tả là thể hiện các
yếu tố đặc trưng của tài liệu, sách, báo trên phích: Tên sách, tên tác giả, năm
xuất bản...
Các hình thức mô tả: Mô tả theo tên tác giả hoặc mô
tả theo tên sách. Hình thức mô tả theo tên sách là phù hợp đối với Tủ sách pháp
luật.
Mô tả theo tên sách
Luật hành chính. Tên
tác giả. NXB
và
năm xuất bản
7,5cm
Sổ đăng ký cá
biệt
2,5cm 1cm
12,5cm
- Lập hộp phích tra cứu tên sách
Sau khi mô tả tài liệu,
người phụ trách Tủ sách sắp xếp phích vào một chiếc hộp theo vần chữ cái tên
sách để bạn đọc dễ tra cứu. Để phân biệt giữa các vần, đầu tập mỗi vần có một
phích nhô, phích này cao hơn phích thường 1,5cm. Phần nhô lên ở giữa để viết
vần chữ cái, còn lại thì cắt đi.
Bước 5. Phương pháp sắp xếp sách, báo trong Tủ sách pháp
luật
Tài liệu trong Tủ sách
pháp luật cần sắp xếp thành 4 phần:
Nhóm
1: Tài liệu, đề cương giới thiệu các luật, pháp lệnh;
Nhóm
2: Sách, tài liệu hỏi đáp, bình luận, giải thích, hướng dẫn pháp luật; tờ gấp,
tiểu phẩm, câu chuyện pháp luật;
Nhóm
3: Sách, tài liệu phục vụ công tác quản lý, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ,
giảng dạy và học tập;
Nhóm
4: Các sách, tài liệu pháp luật phù hợp khác. Căn cứ hướng dẫn danh mục sách,
tài liệu pháp luật theo định kỳ của Bộ Tư pháp, Tủ sách pháp luật cơ quan, đơn
vị của lực lượng vũ trang nhân dân cần được bổ sung kịp thời các sách, tài liệu
pháp luật mới; thường xuyên rà soát, cập nhật, hệ thống hóa sách, tài liệu pháp
luật.
Trong mỗi phần, sắp xếp theo thứ tự chữ cái tên sách.
Trong Tủ sách được sắp xếp theo thứ tự từ trái qua phải, từ trên xuống dưới.
Tuỳ thuộc vào cách phân
chia Tủ sách thành bao nhiêu ngăn mà sắp xếp tài liệu cho phù hợp.
Bước 6. Kiểm kê, bảo quản tài liệu, sách, báo
- Kiểm kê sách: Công tác kiểm kê sách được tiến hành vào cuối năm.
- Phương pháp kiểm kê: Người quản lý tủ sách đối chiếu giữa sổ đăng ký cá biệt
với số sách hiện có và với sổ mượn sách của bạn đọc.
- Kết thúc kiểm kê, phải lập biên bản, xác
nhận tình hình tài liệu, sách, báo pháp luật hiện có, kèm theo bản kê các sách
bị mất hoặc sách bị thanh lý do hư hỏng trong quá trình sử dụng, rồi báo cáo
với Thủ trưởng cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân để xoá mục ghi tương
ứng trong sổ đăng ký cá biệt.
- Bảo quản sách, báo và bảo vệ Tủ sách:
+ Đối với sách, báo:
Người quản lý Tủ sách pháp luật cần quan tâm tới việc bảo quản, để sách, báo
được dùng lâu hơn, bền hơn. Nếu có kinh phí thì nên cho đóng bìa cứng để sử
dụng lâu dài.
Những sách, báo do lưu
hành nhiều bị xộc xệch thì người phụ trách Tủ sách pháp luật phải có trách
nhiệm dán lại. Luôn nhắc nhở bạn đọc có ý thức giữ gìn sách, báo.
+ Đối với Tủ sách pháp
luật: Không để các vật có thể gây cháy, gây hơi ẩm ướt ở gần, có trách nhiệm
thường xuyên kiểm tra, phát hiện và diệt trừ mối mọt, chuột, gián… bằng hoá
chất.
Người phụ trách Tủ sách pháp luật hàng năm
hoặc theo định kỳ có báo cáo người có thẩm quyền đánh giá kết quả tổ chức và
hoạt động của Tủ sách pháp luật, từ đó đề ra kế hoạch bổ sung trong thời gian
tới; đồng thời giúp lãnh đạo biết được tình hình hoạt động của Tủ sách pháp
luật để có sự chỉ đạo kịp thời.
Nội dung báo cáo cần tập
trung đánh giá kết quả về tổ chức và hoạt động phục vụ của Tủ sách pháp luật;
những tồn tại từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động
của Tủ sách pháp luật; các kiến nghị cụ thể với các cấp lãnh đạo để có các giải
pháp kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Tủ sách pháp luật
trong những năm tiếp theo.
Bước 7. Bổ sung tài liệu, sách, báo cho Tủ sách pháp luật
Người quản lý Tủ sách
pháp luật phải thường xuyên tìm nguồn sách để bổ sung kịp thời vào Tủ sách pháp
luật những sách, báo, tài liệu cần thiết, phù hợp với đặc thù ở cơ quan, đơn vị
và phù hợp với yêu cầu, trình độ của bạn đọc.
Các hình thức bổ sung:
- Bổ sung khởi đầu: Xây
dựng nguồn sách ban đầu cho Tủ sách pháp luật.
- Bổ sung hiện tại: Bổ
sung định kỳ.
- Bổ sung hoàn bị: Bổ
sung những tài liệu còn thiếu để hoàn thiện nội dung của Tủ sách.
Phương pháp bổ sung: Nghiên cứu danh mục giới
thiệu sách mới của các Nhà xuất bản, hướng dẫn về danh mục sách của cơ quan Tư
pháp cấp trên; căn cứ vào nội dung tài liệu hiện có của Tủ sách, phương hướng,
nhiệm vụ hàng năm của cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và kinh
phí được cấp để lập kế hoạch bổ sung sách, báo, tài liệu pháp luật cho phù hợp.
Nguồn bổ sung: Đặt mua sách tại các
công ty phát hành sách Tung ương, các nhà xuất bản...; sách được cấp phát từ
các nguồn khác…
Bước 8. Xử lý tài liệu, văn bản hết hiệu lực pháp luật
Người phụ
trách Tủ sách pháp luật căn cứ vào hướng dẫn tổ chức phân loại, sắp xếp riêng
các tài liệu, văn bản đã lạc hậu, hết hiệu lực pháp luật; đồng thời cần xử lý
các sách, tài liệu đã bị mối mọt, rách nát, không còn giá trị sử dụng.
3. Một số lưu ý trong việc nâng cao hiệu quả quản
lý Tủ sách pháp luật
Người được giao nhiệm vụ phụ trách Tủ
sách pháp luật cần phải thực hiện các hoạt động chủ yếu sau đây:
3.1. Tuyên truyền về vị trí, vai trò
của Tủ sách pháp luật
Việc tuyên truyền về vị trí, vai
trò của Tủ sách pháp luật, cần được thực hiện ngắn gọn, thiết thực, dễ hiểu,
hấp dẫn. Để đạt được hiệu quả tuyên truyền về vị trí, vai trò của Tủ sách pháp
luật, người được giao nhiệm vụ quản lý Tủ
sách pháp luật cần
biên soạn bài giới thiệu để tuyên truyền trong hệ thống cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng vũ
trang nhân dân bằng hình thức phù hợp.
3.2. Thông báo nội dung sách, báo, tài liệu pháp luật mới
Để người đọc biết được những
nội dung chính của các sách, báo, tài liệu pháp luật mới, người được giao quản
lý Tủ sách pháp luật cần biên soạn những bản thông báo ngắn gọn, cô đọng, dễ
nhớ để dán lên các bảng tin của cơ quan, đơn vị hoặc thông báo bằng hình thức
phù hợp để mọi người cùng biết, tìm đọc. Thông báo cần nêu bật những
nội dung chính của các sách, báo pháp luật mới được cập nhật với những khía
cạnh liên quan trực tiếp đến các nhóm đối tượng mà Tủ sách pháp luật hướng tới
để thu hút họ quan tâm, tìm đọc, nghiên cứu sách, báo, tài liệu pháp luật. Đối
với Tủ sách pháp luật điện tử, thông báo cần đưa các thông tin mới đã tích hợp
(kèm đường link) để người đọc truy cập.
III.
KỸ NĂNG KHAI THÁC TỦ SÁCH PHÁP LUẬT
1.
Hoạt động phục vụ bạn đọc
của Tủ sách pháp luật
Có hai hình thức:
- Đọc, nghiên cứu tài liệu, sách, báo tại chỗ
- Cho mượn sách, báo, tài liệu pháp luật.
Để thực hiện các hoạt động cho mượn, Tủ sách pháp luật
cần phải có:
Nội quy sử dụng Tủ sách pháp luật: Do cơ quan trực tiếp quản lý Tủ sách quy định và
phải được niêm yết công khai ở nơi dễ đọc để cho bạn đọc biết.
Sổ đăng ký mượn tài liệu, sách, báo: Gồm các nội dung
Ngày mượn |
Tên tài liệu |
Số đăng ký cá biệt |
Ngày trả |
Tên bạn đọc (địa chỉ) |
Ký nhận |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Cách thức cho mượn: Tất cả các sách, báo,
tài liệu pháp luật cho mượn đều được ghi vào sổ mượn sách. Trước khi cho bạn
đọc mượn hay trả, phải tiến hành kiểm tra tình trạng của sách và có ghi chú cụ
thể, nếu sách bị rách do lỗi của bạn đọc thì yêu cầu bạn đọc bồi thường theo
quy định của nội quy.
2. Tổ chức giới thiệu sách, báo, tài liệu pháp
luật thông qua sinh hoạt câu lạc bộ, thi tìm hiểu pháp luật để nâng cao hiệu
quả khai thác Tủ sách pháp luật
Việc tổ chức giới thiệu
sách, báo, tài liệu pháp luật cần lựa chọn hình thức phù hợp, khai thác thế
mạnh của công nghệ thông tin để giới thiệu sách.
-
Đối với Tủ sách pháp luật truyền thống: Cần chụp ảnh Tủ sách, chụp
ảnh các bản sách, báo, tài liệu pháp luật mới, sử dụng powerpoint làm các slide
trình chiếu (kết hợp giữa hình ảnh và ngôn ngữ) để giới thiệu nội dung sách,
báo, tài liệu pháp luật nhằm thu hút sự quan tâm của bạn đọc.
Trường hợp không có điều
kiện để sử dụng powerpoint, cần viết các bài giới thiệu sách pháp luật, tập
trung vào những vấn đề chính mà đối tượng bạn đọc tại cơ quan, đơn vị thuộc lực
lượng vũ trang quan tâm.
-
Đối với việc giới thiệu sách, tài liệu của Tủ sách pháp luật điện tử:
Cần viết giới thiệu sách ngắn gọn, cô đọng, gây sự chú ý (kèm đường link đến
Luật, văn bản dưới luật). Có thể gửi bài giới thiệu đến từng cá nhân qua mạng
xã hội như facebook, zalo …để mọi người quan tâm, tìm đọc.
Ngoài ra, người được giao nhiệm vụ quản lý,
khai thác Tủ sách pháp luật cần sắp xếp sách, báo, tài liệu pháp luật khoa học,
theo nội dung để thu hút sự quan tâm của bạn đọc.
3.2. Hướng dẫn, tư vấn cho người đọc lựa chọn
sách, tài liệu pháp luật phù hợp với nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu
Người được giao nhiệm vụ quản
lý, khai thác Tủ sách pháp luật cần có sự tiếp xúc, trao đổi trực tiếp (hoặc
trao đổi trực tuyến) với người có nhu cầu tìm đọc/tìm kiếm sách, tài liệu pháp
luật để biết nhu cầu của người đọc. Từ đó tư vấn, hướng dẫn người đọc tìm kiếm
sách, tài liệu thiết thực, tìm đọc các quy định đảm bảo đúng và trúng với vấn
đề mà người đọc quan tâm, tìm hiểu.
Đối với Tủ sách pháp luật điện
tử, dù đã sắp xếp theo thư mục, nhưng việc tìm được tài liệu cần đọc cũng không
dễ dàng và nếu không cẩn thận, rất dễ tìm phải các văn bản quy phạm pháp luật
đã bị thay thế, hết hiệu lực; dẫn đến nhầm lẫn khi nghiên cứu, áp dụng, không
đem lại hiệu quả, thậm chí có thể gây nguy hại khi áp dụng sai quy định của
pháp luật. Ngoài việc giới thiệu, giúp đỡ bạn đọc tìm đúng các tài liệu cần
khai thác, sử dụng, người được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác Tủ sách pháp
luật cần hướng dẫn, giúp đỡ bạn đọc các thức khai thác/tìm kiếm tài liệu trên
không gian mạng, đảm bảo lựa chọn được thông tin chuẩn xác nhất. Khi tìm văn
bản, cần lưu ý “từ khóa” cần tìm để việc tìm kiếm nhanh chóng, thuận tiện./.
CHUYÊN
ĐỀ 8
Kỹ
năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua
sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA CÂU LẠC BỘ PHÁP LUẬT
1. Khái niệm Câu lạc bộ pháp luật
Câu lạc bộ pháp luật là tổ chức được thành lập và hoạt
động trên tinh thần tự nguyện tham gia của những người có nhu cầu tìm hiểu pháp
luật, tích cực đấu tranh bảo vệ pháp luật, nhiệt tình tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật. Thông qua các hoạt động sinh hoạt của Câu lạc bộ nhằm góp
phần nâng cao hiểu biết pháp luật, gây dựng lòng tin đối với pháp luật, nâng
cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, hình thành thói quen sống và làm
việc theo pháp luật của các hội viên nói riêng và toàn thể nhân dân nói chung
tại địa bàn.
Tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật được thực
hiện trên cơ sở pháp luật; tuân thủ Quy chế, điều lệ tổ chức và hoạt động của
Câu lạc bộ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Câu lạc bộ pháp luật
hoạt động định kỳ, thường xuyên dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, chính
quyền địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức đoàn thể, đồng thời chịu sự chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra của ngành Tư pháp.
2. Đặc điểm của Câu lạc bộ pháp luật
Việc xác định những đặc điểm của Câu lạc bộ pháp luật
nhằm phân biệt mô hình này với các loại hình Câu lạc bộ khác. Điều này đồng
thời giúp cho việc xác định tiêu chí, mục đích, nội dung cũng như phương thức
tổ chức hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật được rõ ràng, dễ áp dụng.
Dựa trên mục đích thành lập, tổ chức hoạt động, Câu lạc
bộ pháp luật có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Là tổ chức được thành lập và hoạt động dựa trên nguyên
tắc tự giác, tự nguyện của các cá nhân thành viên với mục đích chủ yếu để có cơ
hội được giao lưu, học hỏi, tìm hiểu và nâng cao kiến thức pháp luật;
- Câu lạc bộ có cơ cấu tổ chức bao gồm Ban chủ nhiệm Câu
lạc bộ và các hội viên; hoạt động tuân thủ điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt
động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
- Hoạt động của Câu lạc bộ được tổ chức định kỳ, thường
xuyên dựa trên kế hoạch hoạt động hàng tháng, hàng quý, 6 tháng, năm do Ban chủ
nhiệm Câu lạc bộ đề ra và được toàn thể thành viên Câu lạc bộ nhất trí thông
qua.
- Câu lạc bộ hoạt động thông qua các buổi sinh hoạt tập
thể theo các hình thức sinh hoạt phong phú, linh hoạt, phù hợp với từng thời kỳ
và đối tượng;
- Số lượng thành viên Câu lạc bộ không hạn chế, luôn được
phát triển mở rộng thu hút đông đảo cán bộ, nhân dân tham gia.
3. Vai trò của Câu lạc bộ pháp luật
Câu lạc bộ pháp luật được xác định là một hình thức tuyên
truyền, phổ biến pháp luật có hiệu quả, phù hợp với mọi đối tượng và địa bàn
dân cư khác nhau. Thực tiễn những năm qua cho thấy, tác dụng, hiệu quả, sức lan
toả tích cực của mô hình này là không nhỏ trong đời sống cộng đồng dân cư. Điều
này được khẳng định trước hết vì Câu lạc bộ là nơi quy tụ, tập hợp đông đảo
thành viên tham gia nhằm giao lưu, học hỏi, tạo một diễn đàn, sân chơi bổ ích
và lành mạnh để cùng trao đổi, nắm bắt kiến thức pháp luật và vận dụng pháp
luật.
Thông qua hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật, đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước được tuyên truyền, phổ biến rộng
rãi và kịp thời. Từ đó, giúp hội viên và nhân dân trên địa bàn nâng cao hiểu
biết pháp luật, ý thức tôn trọng và tự giác chấp hành pháp luật, đưa pháp luật
dần trở thành thói quen trong ứng xử hàng ngày của nhân dân. Câu lạc bộ còn tạo
điều kiện để mỗi hội viên trở thành một tuyên truyền viên pháp luật tích cực
vận động người thân trong gia đình, cộng đồng nơi mình cư trú chấp hành pháp
luật.
Câu lạc bộ pháp luật huy động sự quan tâm, phát huy tính
tích cực, phối kết hợp của các cấp, các ngành, đoàn thể hữu quan trong công tác
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý, đưa công
tác này trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Vì lẽ đó, hoạt động của
Câu lạc bộ góp phần không nhỏ trong việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị, phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, đặc biệt là phong trào đấu tranh phòng
chống tội phạm và tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
II. KỸ NĂNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT THÔNG QUA SINH HOẠT CÂU LẠC BỘ PHÁP LUẬT
1.
Lựa chọn nội dung và phương thức hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật
Để Câu lạc bộ phát huy tính thiết thực và tính hiệu quả
trên thực tế thì hoạt động của Câu lạc bộ là yếu tố quyết định. Một Câu lạc bộ
có hoạt động tốt hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có hai yếu tố
cơ bản: nội dung hoạt động và phương thức tổ chức hoạt động.
1.1. Về nội dung hoạt động của Câu
lạc bộ pháp luật
Việc lựa chọn nội dung pháp luật phải phù hợp với đối
tượng và mục đích, tiêu chí hoạt động của các loại hình Câu lạc bộ, đảm bảo
tính cần thiết cũng như sự đáp ứng nhu cầu được tìm hiểu, nâng cao hiểu biết
pháp luật của các thành viên tham gia các Câu lạc bộ này.
- Lựa chọn nội dung phù
hợp với đối tượng hội viên và đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán, điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương:
Tuỳ theo mục đích, đối tượng tham gia Câu lạc bộ pháp
luật, nội dung hoạt động của Câu lạc bộ cần phù hợp, sát thực với đối tượng và
đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở
địa phương. Chủ đề pháp luật là nội dung chủ yếu trong các kỳ sinh hoạt, học
tập, tổ chức giao lưu của Câu lạc bộ. Tuy nhiên, ở mỗi thời điểm khác nhau, thì
lựa chọn nội dung pháp luật cho phù hợp với tính thời sự. Ngoài những nội dung
pháp luật mà mọi đối tượng đều cần biết như dân sự, hình sự, đất đai...thì với
các đối tượng cụ thể sẽ tập trung tuyên truyền các lĩnh vực pháp luật cụ thể.
Ví dụ: đối với phụ nữ thì tập trung tìm hiểu, tuyên truyền pháp luật về dân số,
hôn nhân và gia đình, sức khoẻ sinh sản...; đối với nông dân thì tập trung phổ
biến về chính sách xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế nông thôn; đối với
người lao động cho doanh nghiệp hoặc công nhân trong các khu công nghiệp thì
tuyên truyền về pháp luật lao động, công đoàn... Bên cạnh đó, các chính sách,
quy định của cơ quan chính quyền địa phương cũng là nội dung cần được Câu lạc
bộ quan tâm, khai thác và kịp thời tuyên truyền cho các hội viên nói riêng và
nhân dân nói chung.
- Lựa chọn nội dung phù
hợp với mục tiêu của buổi sinh hoạt:
Để lựa chọn và sử dụng phương pháp sinh hoạt phù hợp, báo cáo viên pháp luật/tuyên
truyền viên pháp luật cần xác định rõ mục tiêu của buổi hoạt để thiết kế sao
cho mỗi giờ sinh hoạt hiệu quả với phương pháp cụ thể nhằm chuyển tải một nội
dung hợp lý. Báo cáo viên pháp luật/tuyên truyền viên pháp luật có thể xác định
mục tiêu trong sinh hoạt theo 03 cấp độ sau:
(1) Nếu như xác định mục tiêu chỉ cần cho hội viên biết về một vấn đề nào
đó thì chỉ cần giới thiệu đầy đủ nội dung thông tin.
(2) Mục tiêu đặt ra muốn hội viên hiểu thì báo cáo viên pháp luật/tuyên
truyền viên pháp luật cần phân tích, so sánh đối chiếu và trao đổi với hội
viên.
(3) Mục tiêu hướng tới hội viên áp dụng kiến thức và kỹ năng vào thực tế
công việc thì nội dung sinh hoạt không chỉ dừng lại ở việc đối chiếu, phân
tích, trao đổi mà hội viên cần được thực hành giải quyết các tình huống cụ thể.
Các nội dung hoạt động của Câu lạc
bộ không nên bó hẹp trong phạm vi đối tượng nhất định, không gian và thời gian
nhất định mà cần được mở rộng, bổ sung kịp thời đảm bảo tính cập nhật, tránh
nhàm chán, đặc biệt là cung cấp một lượng kiến thức pháp luật phong phú cho các
hội viên. Ngoài ra, cũng cần phổ biến các kiến thức kinh tế, xã hội cần thiết
khác phù hợp với từng đối tượng.
Như
vậy, mục tiêu được đặt các cấp độ khác nhau và căn cứ vào mức độ của mục tiêu
cũng như về đối tượng hội viên mà báo cáo viên pháp luật/tuyên truyền viên pháp
luật sẽ lựa chọn phương pháp sinh hoạt thích hợp và hiệu quả nhất để áp
dụng.
1.2. Về phương thức tổ chức hoạt
động của Câu lạc bộ pháp luật
Để thu hút số lượng hội viên tham gia Câu lạc bộ, giúp
cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong Câu lạc bộ có hiệu quả thì
phương thức tổ chức sinh hoạt của Câu lạc bộ cần đa dạng, phong phú và hấp dẫn.
Câu lạc bộ thường tập trung tổ chức sinh hoạt theo các phương thức sau:
- Tổ chức các buổi nói chuyện, tọa đàm chuyên đề về nội
dung pháp luật, giới thiệu văn bản pháp luật mới, trao đổi, thảo luận về quy
định pháp luật đối với vấn đề đang nổi cộm trong khu dân cư, tổ dân phố, được
dư luận quan tâm...
- Tổ chức biểu diễn tiểu phẩm, thi văn hoá, văn nghệ lồng
ghép kiến thức pháp luật, thi hái hoa dân chủ, thi tìm hiểu pháp luật, sáng tác
thơ, ca, hò về nội dung pháp luật;
- Cung cấp thông tin, tư liệu pháp luật (sách, báo, văn
bản pháp luật) phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương;
- Tổ chức các buổi giao lưu, tọa đàm pháp luật với các
loại hình Câu lạc bộ khác, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể tại đơn vị, địa
phương;
- Phối hợp với Ban Văn hoá - thông tin cơ sở tổ chức lồng
ghép phổ biến pháp luật trên mạng lưới loa truyền thanh cơ sở của xã;
- Kẻ vẽ các khẩu hiệu tuyên truyền pháp luật;
- Phối hợp với công chức tư pháp – hộ tịch tổ chức tư vấn
pháp luật và trợ giúp pháp lý cho người dân, vận động người dân tham gia các
phong trào thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện nếp sống văn minh, gia
đình văn hoá, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội...;
- Tham gia công tác hòa giải cơ sở; tổ chức tìm hiểu pháp
luật thông qua tủ sách pháp luật ở cơ sở;
- Trực tiếp đi động viên, gặp gỡ và tuyên truyền pháp
luật cho các đối tượng có nguy cơ cao vi phạm pháp luật (nghiện ma túy, trộm
cắp, cờ bạc...) tại địa phương;
- Mời cán bộ, chuyên viên, báo cáo viên pháp luật của
tỉnh, huyện về trực tiếp tuyên truyền.
2. Duy trì và nâng cao hiệu
quả hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật
Duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của Câu lạc bộ đã,
đang là vấn đề được đặt ra đối với các Câu lạc bộ nói chung và Câu lạc bộ pháp
luật nói riêng. Nhiều Câu lạc bộ được thành lập và chỉ sau một thời gian hoạt
động đã tạm ngừng hoặc hoạt động cầm chừng do nội dung sinh hoạt nghèo nàn,
không thu hút sự tham gia đông đảo của hội viên, không có địa điểm sinh hoạt cố
định hoặc do thiếu kinh phí... Để khắc phục tình trạng này, nhằm tiếp tục duy
trì, phát huy tác dụng, hiệu quả hoạt động, các Câu lạc bộ cần tiến hành đồng
bộ một số biện pháp sau:
- Xây dựng kế hoạch hoạt động hàng năm: Việc xây dựng kế hoạch hoạt động hàng năm của Câu
lạc bộ đảm bảo tính liên tục về tiến độ hoạt động cũng như những nội dung,
phương thức tổ chức hoạt động của Câu lạc bộ;
- Cử cán bộ phụ trách, theo dõi hoạt động của Câu lạc bộ: Cần chọn người nhiệt tình, năng động, tâm huyết,
có năng lực tổ chức, đặc biệt là người am hiểu pháp luật để đưa vào Ban chủ
nhiệm hoặc làm tư vấn cho Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ.
- Xây dựng lực lượng cộng tác viên: Lực lượng này chủ yếu gồm các báo cáo viên và
tuyên truyền viên pháp luật tình nguyện tại địa bàn tham gia sinh hoạt Câu lạc
bộ để phổ biến, tuyên truyền, và giải đáp thắc mắc về các nội dung, lĩnh vực
liên quan đến pháp luật.
- Xây dựng tủ sách pháp luật cho Câu lạc bộ: Tủ sách pháp luật được xây dựng nhằm đáp ứng yêu
cầu phổ biến, giáo dục pháp luật của Câu lạc bộ, phù hợp với đối tượng của Câu
lạc bộ (về khả năng nhận thức cũng như đặc điểm tâm lý...). Tủ sách nên được mở
thường xuyên trong các buổi sinh hoạt để tạo điều kiện cho các hội viên và nhân
dân được tiếp xúc, tìm hiểu. Nội dung tủ sách cần được cập nhật, phong phú về
loại hình (sách tra cứu, báo, tờ gấp, sách bỏ túi...). Nên có sự trao đổi, luân
chuyển với tủ sách pháp luật của cơ quan, đơn vị, trường học và xã, phường, thị
trấn tại địa bàn. Để xây dựng tủ sách, cần huy động sự đóng góp của các cá
nhân, gia đình, doanh nghiệp, hoặc khuyến khích, động viên mỗi gia đình, mỗi
thành viên Câu lạc bộ đóng góp 01 cuốn sách hoặc tạp chí...
- Thường xuyên đổi mới các phương thức sinh hoạt để thu
hút các hội viên tham gia: Thực
tiễn hoạt động của các Câu lạc bộ pháp luật thời gian qua cho thấy, việc đổi
mới phương thức sinh hoạt góp phần không nhỏ trong việc duy trì hoạt động và
ngày càng thu hút đông đảo hội viên tham gia của các Câu lạc bộ. Để phù hợp với
thực tiễn, các Câu lạc bộ có thể lựa chọn và vận dụng vào quá trình tổ chức
sinh hoạt của mình các hình thức sau đây:
- Bố trí địa điểm sinh hoạt của Câu lạc bộ ổn định: tuy nhiên địa điểm sinh hoạt Câu lạc bộ có
thể được thay đổi để phù hợp, thích nghi với điều kiện của hội viên hoặc để thu
hút thêm nhiều thành phần tham dự buổi sinh hoạt Câu lạc bộ (như trụ sở Ủy ban
nhân dân xã, nhà văn hoá thôn, xã, sân đình, rạp chiếu bóng công cộng...);
- Tạo nguồn kinh phí hoạt động ổn định cho Câu lạc bộ. Kinh phí hoạt động được huy động từ các nguồn
sau:
+ Sự hỗ trợ của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và chính
quyền địa phương nơi thành lập Câu lạc bộ;
+ Kinh phí từ các dự án, các chương trình quốc gia;
+ Kinh phí từ cơ quan chuyên môn có nhu cầu đưa nội dung
pháp luật cụ thể vào tuyên truyền, phổ biến tại Câu lạc bộ;
+ Động viên sự đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân, các nhà tài trợ;
+ Sự đóng góp của các hội viên Câu lạc bộ;
- Nhân rộng mô hình điểm Câu lạc bộ pháp luật: Thực tế hoạt động của Câu lạc bộ cần được đánh
giá để thấy được hiệu quả của mô hình này trong công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật. Trên cơ sở đó, thực hiện chỉ đạo thành lập, tổ chức
hoạt động điểm Câu lạc bộ pháp luật và tiến hành nhân rộng mô hình tại cơ quan,
đơn vị, địa phương theo quy mô rộng hơn dựa trên việc tổng kết, rút kinh nghiệm
thực tiễn và có các biện pháp chỉ đạo cụ thể.
- Thực hiện chế độ khen thưởng, kiểm điểm phê bình kịp
thời: Trong quá trình tổ
chức hoạt động của Câu lạc bộ, Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ cũng như cơ quan chủ
quản cấp trên cần theo dõi, phát hiện và có chế độ khen thưởng kịp thời đối với
các cá nhân tham gia tích cực, có nhiều thành tích, sáng tạo trong tổ chức và
hoạt động của Câu lạc bộ cũng như nghiêm túc kiểm điểm, phê bình các cá nhân vi
phạm điều lệ, quy chế sinh hoạt của Câu lạc bộ.
- Thực hiện sơ kết, tổng
kết hoạt động định kỳ của Câu lạc bộ: Việc sơ, tổng kết hoạt động của Câu lạc bộ giúp cho Ban chủ nhiệm, cơ
quan cấp trên phụ trách trực tiếp có kế hoạch, định hướng hoạt động cho Câu lạc
bộ trong những thời gian tiếp theo./.
CHUYÊN
ĐỀ 9
Kỹ năng
triển khai ứng dụng
công nghệ thông tin trong phổ biến,
giáo dục pháp luật
Internet ra đời đã đem
lại những thay đổi, tiến bộ vô cùng to lớn trong đời sống con người. Ngày nay,
thông qua sự phát triển của công nghệ thông tinvà mạng Internet, cách thức người dân tìm
kiếm, tiếp cận các thông tin nói chung và thông tin pháp luật nói chung cũng có
nhiều thay đổi, không chỉ thụ động tiếp nhận các thông tin, chính sách mà xu
hướng chủ động tìm kiếm các thông tin páp luật theo nhu cầu cũng dần nhiều hơn.
Hiện nay, 100% các bộ, ngành và đại phương đều đã xây dựng các Trang/Cổng thông
tin điện tử riêng; ở những vùng sâu, vùng xa, hải đảo, Internet cũng đã có mặt
để phục vụ nhu cầu tìm kiếm thông tin của người dân. Theo xu hướng đó, công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) cũng cần phải có sự thay đổi nhằm tận
dụng sức mạnh to lớn của công nghệ thông tin để thực hiện chức năng, mục đích
của mình, tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả.
1. Ưu điểm ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
PBGDPL
1.1. Việc truyền tải
những thông tin, chính sách, quy định pháp luật trở nên nhanh chóng, thuận
tiện, kịp thời. Sự phát triển của công nghệ thông tinvà mạng Internet đã giúp
xây dựng một mạng lưới truyền thông rộng khắp và được cập nhật liên tục. Chính
vì thế, khi có những thay đổi trong chính sách, pháp luật, Nhà nước có thể dễ
dàng truyền tải thông tin tới mọi người dân một cách nhanh chóng.
1.2. Tăng cường tính
tương tác, thuận tiện cho người dân. Một người dân ở bất cứ đâu đều có thể dễ
dàng tra cứu và tìm hiểu một chính sách, pháp luật mới bằng những thao tác đơn
giản ngay tại nhà thông qua máy tính hoặc một thiết bị thông tin có nối mạng.
Thông qua các phương tiện kết nối internet, người dân cũng có thể dễ dàng đăng
tải những ý kiến của mình về chính sách, quy định mới hoặc dự thảo chính sách,
pháp luật của Nhà nước và ngược lại, các cơ quan nhà nước cũng có thể lấy ý
kiến người dân một cách thuận tiện.
1.3. Giảm chi phí cho
công tác PBGDPL: Nếu so với các hình thức PBGDPL khác thì việc sử dụng các ứng
dụng công nghệ thông tintrong công tác PBGDPL có chi phí thực hiện thấp nhất
nhưng lại có thể đem lại hiệu quả lớn nếu biết khai thác và tận dụng.
Ví dụ như tổ chức các
lớp tập huấn, hội thảo trực tuyến. Thông qua phương thức này sẽ giúp giảm thiểu
chi phí tổ chức, chi phí đi lại…một cách đáng kể so với các hình thức truyền
thống khác.
2. Một số khó khăn đối với ứng dụng công nghệ thông tin
trong PBGDPL
2.1. Khó thực hiện tại
những nơi cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đáp ứng được điều kiện cần thiết
để thực hiện PBGDPL thông qua ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là tại những
địa phương ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi, vùng có điều kiện kinh tế - khó khăn,
biên giới, hải đảo. Trong khi để thực hiện công tác PBGDPL theo hình thức này
đòi hỏi phải có cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp đi kèm.
2.2. Thiếu nguồn nhân
lực được đào tạo để ứng dụng công nghệ thông tinphục vụ hoạt động PBGDPL. Hiện
nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, nhiều công nghệ số,
ứng dụng công nghệ thông tinmới ra đời nhưng việc tập huấn, bồi dưỡng cho đội
ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL về kỹ năng PBGDPL trong lĩnh vực này chưa được
thực hiện hoặc có thực hiện nhưng chưa thường xuyên. Do đó, kỹ năng PBGDPL
thông qua ứng dụng công nghệ thông tincủa nhiều báo cáo viên, tuyên truyền viên
pháp luật còn hạn chế.
2.3. Nhiều thông tin được đưa lên mạng bị xuyên tạc, sai
sự thật, được sử dụng vào những mục đích xấu nhằm kích động người dân; bôi xấu
chế độ, đường lối của Đảng và Nhà nước; tạo ra hoang mang trong dư luận. Điều
đó đã khiến một bộ phận người dân mất niềm tin vào tính chính xác, minh bạch của
các thông tin trên mạng. Điều này cũng làm ảnh hưởng phần nào tới hiệu quả của
hoạt động PBGDPL thông qua mạng Internet.
3. Một số cách thức ứng dụng công nghệ thông tin trong
PBGDPL
Hiện nay, một số cách
thức ứng dụng công nghệ thông tin trong PBGDPL được thực hiện dưới các hình
thức chủ yếu sau:
3.1.
Cung cấp văn bản quy phạm pháp luật trên môi trường internet
Hiện
nay, văn bản quy phạm pháp luật vẫn là nguồn luật chủ yếu của hệ thống pháp
luật nước ta. Vì vậy, nhu cầu tìm hiểu văn bản quy phạm pháp luật luôn là một
nhu cầu lớn của mọi tổ chức, cá nhân. Điều
quan trọng nhất khi đưa các văn bản quy phạm pháp luật lên trên mạng internet
là văn bản đó phải đảm bảo tính chính xác. Để có được điều này, người thực hiện
công việc cần dựa vào các nguồn cung cấp văn bản chính thống như: Công báo
Chính phủ, Công báo địa phương, Lệnh công bố của Chủ tịch nước, các bản chính,
bản sao văn bản có giá trị như bản chính… Bên cạnh đó, có thể tham khảo các
nguồn cung cấp văn bản pháp luật trên các trang web có độ tin cậy cao như Trang
web của Trung tâm thông tin Văn phòng Quốc hội: http://www.na.gov.vn hoặc
Website Chính phủ: http://www.chinhphu.vn hoặc Cổng
thông tin của Bộ Tư pháp: http://www.moj.gov.vn/, hay Cơ sở dữ liệu
Quốc gia về văn bản pháp luật tại địa chỉ http://vbpl.vn/Pages/portal.aspx hoặc tham khảo các đĩa CD-ROM cơ sở
dữ liệu pháp luật Việt Nam.
Việc
cung cấp văn bản quy phạm pháp luật cần đảm bảo tính cập nhật, kịp thời cung
cấp những thông tin về các quy định, chính sách mới của Nhà nước đến người dân.
Ngoài ra, tính có hệ thống là một yêu cầu quan trọng trong việc cung cấp văn
bản quy phạm pháp luật phục vụ mục đích tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên
mạng internet. Bên cạnh việc sắp xếp theo ngày ban hành, các văn bản nên được
sắp xếp theo lĩnh vực để người đọc tiện theo dõi, tra cứu khi cần.
Bên
cạnh việc cung cấp văn bản pháp luật, để bảo đảm hiệu quả tra cứu cho tổ chức,
cá nhân, thì cần kèm theo lời tóm tắt, giới thiệu nội dung chính của văn bản.
Nếu hạn chế về nguồn lực, việc tóm tắt có thể không nhất thiết phải thực hiện
đối với tất cả các văn bản pháp luật mà có thể lựa chọn những văn bản mới quan
trọng, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân. Khi tóm tắt nội
dung của văn bản pháp luật cần nêu được tinh thần chung của văn bản, nêu nội
dung của những quy định mới, những quy định thay đổi của văn bản. Yêu câu của
lời tóm tắt là phải nêu được tên của văn bản, cơ quan ban hành, ngày tháng ban
hành, ngày tháng có hiệu lực, tên văn bản hết hiệu lực hoặc bị sửa đổi. Lời tóm
tắt cần ngắn gọn, dễ hiểu đồng thời bảo đảm được tính chuẩn xác, tính đơn
nghĩa, tránh hiểu sai, hiểu nhầm các quy định của pháp luật.
3.2.
Cung cấp hỏi đáp pháp luật trực tuyến
Hỏi đáp
pháp luật là một trong những hình thức PBGDPL hiệu quả giúp việc cung cấp thông
tin pháp luật sát với nhu cầu của các tổ chức, cá nhân. Thông qua việc ứng dụng
công nghệ thông tin, các cơ quản quản lý nhà nước có thể dễ dàng tiếp nhận
nhanh chóng và thuận lợi cung cấp các ý kiến giải đáp cho các tổ chức, cá nhân.
Các câu hỏi về pháp luật có nhiều dạng, có thể là câu hỏi trực tiếp (ví dụ như
“tội phạm là gì?”, “thủ tục thành lập doanh nghiệp tư nhân được pháp luật quy
định như thế nào?”) hoặc câu hỏi gián tiếp thông qua một tình huống, một sự
kiện xảy ra trong thực tế.
Hiện
nay, nguồn hình thành các câu hỏi đáp pháp luật có hai dạng:
- Một
là, từ những vướng mắc thực tiễn, độc giả truy cập vào trang web rồi gửi câu
hỏi cho Ban biên tập (gọi là hỏi đáp theo yêu cầu độc giả);
- Hai
là, Ban biên tập nghiên cứu, phát hiện thấy những vấn đề nhiều người quan tâm
rồi xây dựng nội dung các vấn đề đó dưới dạng hỏi đáp. Tuy nhiên, cho dù nguồn
câu hỏi được hình thành như thế nào thì người biên tập cũng cần lưu ý là phải
lựa chọn câu hỏi, trả lời phù hợp và cần sắp xếp câu hỏi đáp pháp luật
một cách khoa học, dễ tìm, dễ tra cứu khi cần thiết.
3.3.
Xây dựng các chuyên mục chuyên sâu về pháp luật
Các
chuyên mục tuyên truyền, phổ biến chuyên sâu về pháp luật cung cấp những kiến
thức sâu về từng lĩnh vực pháp luật cụ thể hoặc có thể được xây dựng theo tiêu
chí về đối tượng cần tuyên truyền, nội dung pháp luật… (Ví dụ như chuyên mục
thủ tục tố tụng dân sự, hình sự, pháp luật hội nhập WTO, pháp luật đất đai…).
Song song với việc đảm bảo về nội dung kiến thức, các chuyên mục này cần chú ý
đến những vấn đề trình bày, biên soạn nội dung cần tuyên truyền dưới dạng sơ
đồ, bảng biểu, hình ảnh sinh động để người đọc dễ theo dõi.
Bên
cạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật thông qua những chuyên mục chuyên
sâu có nội dung mang tính lý thuyết nên xây dựng những chuyên mục đi sâu phân tích
các tình huống cụ thể dưới góc độ pháp luật. Thực tế cho thấy cách làm này mang
lại hiệu quả cao.
3.4.
Số hóa và đăng tải các tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật lên mạng
internet
Đưa các tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật lên
mạng internet được hiểu là chuyển nội dung của các ấn phẩm tuyên truyền, phổ
biến pháp luật đã xuất bản (sách, đặc san, tờ gấp, tờ rơi, đĩa hình, đĩa
tiếng…) thành dữ liệu điện tử và đăng tải dữ liệu đó trên internet. Như vậy,
các tài liệu tuyên truyền pháp luật đăng trên internet có nội dung giống như
nội dung của các ấn phẩm đã xuất bản.
Việc đăng tải các tài liệu tuyên truyền, phổ biến
pháp luật lên mạng internet được thực hiện theo quy trình sau đây:
(i) Đầu
tiên, cần căn cứ vào mục đích, đối tượng và nguồn tài liệu tuyên truyền pháp
luật hiện có để lựa chọn tài liệu đưa lên mạng internet.
(ii) Sau khi đã lựa chọn được tài liệu, cần lựa chọn định
dạng tài liệu để đưa lên mạng internet như: dạng file Word, file RAR hoặc file
PDF… tùy thuộc vào dung lượng của tài liệu, tính năng kỹ thuật của trang Web.
(iii)
Khi số hóa xong tài liệu, cần kiểm tra (nghe, đọc soát) để đảm bảo nội dung của
dữ liệu điện tử giống nội dung của ấn phẩm đã xuất bản.
Hiện
nay, có thể tham khảo cách làm này qua địa chỉ của một số Website như Website
của Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (http://www.nciec.gov.vn); Trang
thông tin Phổ biến, giáo dục pháp luật của Bộ Tư pháp
(http://pbgdpl.moj.gov.vn/pbgdpl); Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
(http://www.nclp.org.vn).
3.5.
Tổ chức giao lưu trực tuyến pháp luật
Giao
lưu trực tuyến là hình thức đối thoại qua mạng internet, là dịp để những người
tham gia bày tỏ, trao đổi những quan điểm của mình về những vấn đề cụ thể. Nội
dung giao lưu trực tuyến về pháp luật thường là hỏi và trả lời các vấn đề liên
quan đến pháp luật, qua đó góp phần nâng cao nhận thức về các vấn đề xã hội nói
chung và nhận thức về pháp luật nói riêng.
Ví dụ: Trên Báo Vietnamnet, Tổ thi hành Luật Doanh
nghiệp và Luật Đầu tư đã có buổi giao lưu trực tuyến về việc thi hành Luật
doanh nghiệp và Luật đầu tư; Báo Pháp luật Việt Nam điện tử tổ chức tọa đàm
trực tuyến về việc thi hành pháp luật về phòng, chống bạo lực học đường…
Để tổ
chức một buổi giao lưu trực tuyến pháp luật thành công, cần chú ý một số vấn đề
sau:
(i) Chủ
đề của buổi giao lưu trực tuyến về pháp luật cần cụ thể, rõ ràng, tập trung vào
những nội dung pháp luật được dư luận xã hội quan tâm hoặc cần định hướng dư
luận xã hội, đang có nhiều bất cập trong quá trình thực hiện.
(ii)
Người dẫn chương trình và người tham gia giao lưu trực tuyến để giải đáp các
vướng mắc cần có sự chuẩn bị chu đáo về nội dung vấn đề đặt ra, chú ý đến những
vấn đề thời sự đang được nhiều người quan tâm.
(iii)
Bố trí hệ thống máy móc, phần mềm đảm bảo chất lượng và phân công người có năng
lực giúp việc cho buổi giao lưu trực tuyến pháp luật.
3.6.
Xây dựng bài giảng điện tử
Bài giảng điện tử là một
hình thức bài giảng trên lớp mà ở đó toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học đều
được chương trình hoá thông qua môi trường multimedia do máy vi tính tạo ra.
Để xây dựng bài giảng điện tử phục vụ hoạt động PBGDPL, người dạy cần
tiến hành những bước sau:
§ Lựa chọn nội dung bài học hợp
lý với ứng dụng công nghệ thông tin;
§ Xây dựng mục tiêu bài học;
§ Lựa chọn phần mềm ứng dụng vào
bài giảng;
§ Xây dựng đề cương bài giảng;
§ Soạn bài giảng điện tử;
§ Chạy thử bài giảng điện tử;
§ Thể hiện bài giảng điện tử.
Đây là bước rất quan trọng, thể hiện
kết quả cuối cùng của toàn bộ quá trình. Để thành công, người giảng phải
thể hiện được hết ý tưởng bài giảng điện tử đã thiết kế; làm chủ phương tiện kỹ
thuật; phối hợp với các phương pháp dạy học thích hợp; thể hiện được quan hệ
tương tác giữa người dạy và người học.
3.7.
Phổ biến, giáo dục pháp luật trên mạng xã hội
PBGDPL trên mạng xã hội
nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác triệt để
những tính năng, tiện ích của mạng xã hội nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
PBGDPL; kịp thời nắm bắt dư luận xã hội, đồng thời tương tác, phản hồi các ý
kiến nhanh chóng, kịp thời.
Hiện nay, việc PBGDPL được thực hiện nhiều trên Fanpage. Trang Fanpage có
thể tập trung đăng tải, cập nhật những nội dung sau:
- Bản tin tổng hợp: Tổng hợp, cập nhật, đăng tải thông tin về tình tình
PBGDPL ở Trung ương và địa phương như.
- Thông tin văn bản pháp luật: Đăng tải các văn bản quy phạm pháp luật
mới được ban hành; các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cần lấy ý kiến; đề
cương giới thiệu luật; các bài viết phân tích, bình luận các quy định pháp
luật…
- Tủ sách pháp luật điện tử: Đăng tải các tài liệu tuyên truyền PBGDPL(Tờ gấp, sách hỏi đáp,
sách bình luận, tình huống pháp luật…)
- Video clip pháp luật: Đăng tải bài giảng điện tử pháp luật; các phóng
sự, phỏng vấn xoay quanh các nội dung pháp luật được dư luận xã hội quan tâm.
- Diễn đàn pháp luật: cung cấp diễn đàn thảo luận,
trao đổi các chính sách, quy định pháp luật hoặc dự thảo chính sách, dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật.
3.8. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tổ chức thi tìm hiểu pháp luậl
trực tuyến
Thi tìm hiểu pháp luật
trực tuyến là việc người dự thi sử dụng trình duyệt trên máy tính hoặc các
thiết bị di động có kết nối internet để trả lời các câu hỏi trắc nghiệm được
thiết kế theo bộ đề có sẵn do Ban Tổ chức xây dựng. Để tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật trực truyến, cần
thực hiện các bước sau đây:
Giai đoạn chuẩn bị
a) Hình thành chủ trương về cuộc thi
Cơ quan có sáng kiến về cuộc thi cần lập Tờ trình
trình lãnh đạo xin ý kiến. Sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Tờ trình
sẽ là cơ sở tiến hành các bước tiếp theo để tổ chức cuộc thi.
b) Xây dựng kế hoạch tổ chức cuộc thi
Trong kế hoạch cần quy định rõ mục đích, yêu cầu,
đối tượng tham gia, nội dung, hình thức thi; thời gian tổ chức cuộc thi; tiến
độ thực hiện các công việc; kinh phí cuộc thi, cơ cấu giải thưởng; phân công
trách nhiệm.
c) Thành lập Ban Tổ chức cuộc thi
Thành phần Ban Tổ chức cuộc thi gồm đại diện các cơ
quan, ban, ngành, đoàn thể có liên quan đến nội dung cuộc thi, đối tượng dự
thi. Ở những cuộc thi có phạm vi hẹp như tổ chức trong nội bộ một Bộ, ngành,
đoàn thể... thì thành phần Ban Tổ chức là đại diện các đơn vị hoặc các bộ phận
có liên quan đến cuộc thi trong Bộ, ngành, đoàn thể đó.
d) Xây dựng thể lệ cuộc thi
Thể lệ cuộc thi tìm hiểu pháp
luật trực tuyến bao gồm: tên gọi, phạm vi, đối tượng dự thi; nội dung thi;
hình thức thi; cách thức đăng ký dự thi, cách thức thi; thời gian tổ chức cuộc
thi; giải thưởng; quy định cấm, khiếu nại và giải quyết khiếu nại; địa chỉ
liên hệ (Ban Tổ chức) và những nội dung cần thiết khác.
đ) Xây dựng bộ câu hỏi cho cuộc thi
Câu hỏi của cuộc thi tìm hiểu pháp luật trực tuyến
thường là câu hỏi trắc nghiệm theo hướng đưa ra các phương án để người dự thi
lựa chọn trả lời, phù hợp với người dự thi, bảo đảm dễ hiểu.
Đối
với cuộc thi có câu hỏi mở về cách thức giải quyết một tình huống pháp luật,
Ban Tổ chức
cuộc thi ra Quyết định thành lập Ban Giám khảo (hoặc Ban Chấm thi) trong đó chỉ định Trưởng Ban chấm thi.
Thành viên Ban chấm thi là những người có uy tín, có nghiệp vụ và am hiểu về
nội dung thi.
e) Chuẩn bị Đáp án cuộc thi
Đáp án của cuộc thi tìm hiểu
pháp luật trực tuyến xác định phương án trả lời đúng trong số các phương án trả
lời mà câu hỏi đưa ra.
Đối với câu hỏi mở về cách thức giải quyết một tình
huống pháp luật, cần xây dựng kỹ nội dung đáp án theo hướng bám sát yêu cầu nội
dung cần có đối với bài thi đã hướng dẫn, đồng thời cần xây dựng thang điểm chi
tiết cho từng ý trong câu trả lời, có thể đưa ra tiêu chí cụ thể về nội dung
(mở rộng nội dung trả lời, có sự phân tích, so sánh hoặc ví dụ minh hoạ cho
phần trả lời...) và hình thức thể hiện (phong cách trình bày mạnh lạc, dễ hiểu,
lôi cuốn...) để khuyến khích bài dự thi có chất lượng cao.
Giai đoạn tiến hành cuộc thi
a) Phát động cuộc thi vàcông bố thể lệ, nội dung
(hoặc câu hỏi) cuộc thi
Việc phát động cuộc thi có thể được tổ chức theo 02
hình thức: (i) Phát động bằng ban hành văn bản hướng dẫn, tổ chức cuộc thi và
thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, Cổng/Trang Thông tin điện
tử, mạng xã hội...; (ii) Tổ chức Lễ phát động cuộc thi.
b) Tuyên truyền về cuộc thi
Để thu hút được nhiều người dự thi, Ban Tổ chức
cuộc thi cần sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến về cuộc thi như:
thông tin chi tiết về thể lệ, yêu cầu nội dung thi hoặc câu hỏi của cuộc thi;
biên soạn, giới thiệu cung cấp các tài liệu, văn bản liên quan đến cuộc thi;
tuyên truyền miệng trực tiếp hoặc qua phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống
loa, đài truyền thanh ở cơ sở, mạng xã hội, áp phích thông báo ở những nơi công
cộng.
c) Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc việc triển khai
cuộc thi
Để cuộc thi đạt kết quả tốt, trong suốt giai đoạn
tiến hành cuộc thi, Ban Tổ chức phải theo dõi diễn biến cuộc thi, định kỳ hoặc
đột xuất họp để đưa ra biện pháp hướng dẫn, đôn đốc cuộc thi. Đối với những
cuộc thi quy mô lớn, được tổ chức từ trung ương đến cơ sở với nhiều đối tượng
dự thi, Ban Tổ chức còn cần quan tâm hướng dẫn, kịp thời hỗ trợ, giải đáp,
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc không chỉ về nội dung thi mà còn liên quan đến kỹ
thuật để tạo điều kiện cho các đơnvị cấp dưới tiến hành triển khai cuộc thi
hiệu quả, thiết thực.
Giai đoạn tổng kết, trao giải cuộc thi
Đây là phần việc cuối cùng của Ban Tổ chức nhằm
đánh giá toàn diện kết quả cuộc thi, rút kinh nghiệm về phương pháp tổ chức và
triển khai cuộc thi, từ đó phát huy kết quả cuộc thi trong công tác PBGDPL, đề
ra phương hướng cho việc tổ chức các cuộc thi lần sau; đồng thời trao giải thưởng
cho những người đạt giải.
Để tạo được ấn tượng sâu sắc đối với các thí sinh
về cuộc thi, một trong những phần việc Ban Tổ chức cần lưu ý, đó là tổ chức Lễ
tổng kết trao giải. Lễ tổng kết cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nội dung, hình
thức và các điều kiện hỗ trợ cần thiết như hội trường, âm thanh, ánh sáng, lôgô
cuộc thi, băng rôn, cổ động viên, người dẫn chương trình; khách mời tham gia lễ
tổng kết và mời báo chí đến ghi hình, đưa tin... sao cho trang trọng, sôi nổi,
hấp dẫn.
CHUYÊN
ĐỀ 10
Kỹ
năng phổ biến, giáo dục
pháp luật hiệu quả thông qua hoạt động văn hóa ở cơ sở
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) là cầu nối
để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với
người dân, góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật trong toàn xã
hội, giữ vững an ninh chính trị, tự an toàn xã hội. Do đó, công tác PBGDPL cần
được thực hiện thường xuyên, liên tục, đổi mới về nội dung và hình thức tuyên
truyền cùng sự nỗ lực, phối hợp thực hiện đồng bộ thống nhất của cả hệ thống
chính trị và toàn dân. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở giữ vị trí hết sức
quan trọng, có tác động trực tiếp tới tư tưởng, đạo đức, lối sống của người dân
và cộng đồng dân cư. Thực hiện PBGDPL thông qua hoạt động văn hóa ở cơ sở là
một hình thức PBGDPL hiệu quả, gần gũi, thân thiện, được người dân dễ dàng tiếp
nhận một cách tự nhiên. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở cũng đồng nghĩa với
việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo dựng lối sống văn minh, lịch sự,
phát triển con người toàn diện cả về nhân cách, đạo đức, thể chất, tâm hồn,
trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật.
I. KHÁI QUÁT CHUNG
Khái niệm
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội.
Văn hóa quần chúng là các hình thức
sinh hoạt văn hóa phục vụ quần chúng và do đông đảo quần chúng tham gia.
Hoạt động văn hóa ở cơ sở là các hình
thức sinh hoạt văn hóa quần chúng phong phú và đa dạng nhằm nâng cao đời sống
tinh thần, hướng con người vươn lên theo quy luật của cái đúng, cái đẹp, cái
tốt, của chuẩn mực xã hội.
Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động văn hóa ở cơ sở là một hình thức PBGDPL thông qua các thiết chế văn hóa ở cơ sở,
lồng ghép đưa chủ chương, chính sách pháp luật vào các hoạt động văn hóa ở cơ
sở, từ đó nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật cho người dân.
Các
hình thức tổ chức hoạt động văn hóa cơ bản bao gồm:
Khi tham gia, hướng dẫn công tác
PBGDPL thông qua hoạt động văn hóa ở cơ sở, lực lượng quân đội nhân dân hướng
dẫn các tổ chức, đoàn thể ở cơ sở thực hiện lồng ghép PBGDL vào các hoạt động
văn hóa tại cộng đồng dân cư thông qua các hình thức sau:
- Phát triển văn hóa
đọc; tổ chức hoạt động đọc, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật tại thư viện, phòng
đọc.
- Đưa
vào một trong những nội dung họp tổ dân phố, họp thôn, bản.
- Phát huy vai trò của các tổ
chức tự quản trong cộng đồng dân cư.
- Tổ
chức tuyên truyền, cổ động thông qua các hình thức: Bảng tin, áp phích, khẩu
hiệu, các ấn phẩm; tranh cổ động.
- Lồng
ghép trong các sự kiện lễ, hội, ngày truyền thống của tổ chức, đoàn thể, địa
phương.
- Đưa vào việc thực hiện các cuộc vận
động, các phong trào xã hội.
- Tổ
chức các hoạt động văn hóa khác phù hợp với pháp luật, truyền thống văn hóa,
chuẩn mực đạo đức xã hội.
II.
HƯỚNG DẪN KỸ NĂNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA Ở CƠ
SỞ.
1.
Phát triển văn hóa đọc tại cộng đồng dân cư
Bên cạnh sự phát triển của công nghệ
thông tin, việc số hóa dữ liệu và cung cấp các thông tin (bao gồm cả thông tin
pháp luật) trên các trang internet, mạng xã hội tương đối đầy đủ, thường xuyên
và kịp thời. Việc duy trì và phát triển văn hóa đọc (đọc sách, báo, ấn phẩm in
trên giấy) vẫn được cần được quan tâm nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân về
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đây là nét đẹp của đời sống xã hội nhằm giáo
dục nhân cách, đạo đức con người.
a) Xây dựng cơ sở vật chất phục vụ
phát triển văn hóa đọc
Để phát triển văn hóa đọc trong cộng
đồng dân cư, lực lượng quân đội nhân dân phối hợp với chính quyền địa phương,
bố trí địa điểm phục vụ bà con đọc sách; hỗ trợ trang bị cơ sở vật chất (như
phòng đọc, bàn, ghế, tủ sách, sách, ánh sáng, quạt điện…). Việc hỗ trợ có thể
huy động lực lượng cán bộ, chiến sĩ trong quân đội; huy động nguồn tài trợ từ
cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Cần tận dụng Tủ sách pháp luật ở cấp xã, Tủ
sách.
Địa điểm đặt tủ sách, phòng đọc có thể bố trí tại Nhà văn
hóa thôn, bản, khu phố và nên giao cho các tổ chức, đoàn thể quản lý (như Đoàn
thanh niên, Hội Nông dân, Hội Cựu Chiến binh, Hội phụ nữ…).
b) Lựa chọn nội dung pháp luật đưa vào
Tủ sách
Ngoài việc cung cấp các loại sách,
báo, tài liệu về đời sống xã hội, văn học nghệ thuật… cần cung cấp, trang bị
cho Tủ sách, kệ sách, giá sách (gọi chung là Tủ sách) các sách, báo, tài liệu
pháp luật. Những tài liệu này phải phù hợp với đặc điểm của người dân sinh sống
trên địa bàn, phù hợp với chức năng nhiệm vụ của chính quyền cơ sở (Ví dụ: Cùng
với việc cung cấp các quy định pháp luật chung như pháp luật về đất đai, hôn
nhân và gia đình, dân sự… thì tùy vùng, miền, khu vực, cần cung cấp, trang bị
những văn bản quy định trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của người dân tại địa
bàn. Như cung cấp pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, các chế độ, chính
sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại các Tủ sách ở vùng núi; còn đối với
ngư dân thì cần trang bị các loại tài liệu về chính sách của nhà nước đối với
ngư dân, pháp luật về bảo vệ biên giới biển…).
Lưu ý: Cần thường xuyên cung cấp,
trang bị sách, tài liệu pháp luật mới cho Tủ sách
c) Phương thức tổ chức
Cán bộ,
chiến sĩ quân đội được giao hướng dẫn địa phương phát triển văn hóa đọc, cần
phối hợp với các tổ chức, đoàn thể tại địa phương. Có thể hướng dẫn các hội,
đoàn thể, tổ chức trên địa bàn trao đổi, thống nhất mỗi tuần có 01 đơn vị tổ
chức đọc sách chung cho 01 hội, đoàn thể mình. Việc tổ chức đọc sách được đẩy
mạnh vào dịp “Ngày Sách và văn hóa đọc Việt Nam” (ngày 21/4 hàng năm).
2.
Đưa vào một trong những nội dung họp tổ dân phố, họp thôn, bản
a) Chuẩn bị cho buổi họp thôn
Về địa điểm họp: Thông thường các địa phương đã bố trí
sẵn địa điểm họp thôn, như: Nhà văn hóa của thôn, tổ dân phố, khu dân cư; hoặc
đình làng… Tuy nhiên, căn cứ nội dung, tính chất của cuộc họp, Trưởng thôn, tổ
trưởng tổ dân phố cũng có thể mời bà con nhân dân đến họp tại nhà của Trưởng
thôn, tổ trưởng, già làng, trưởng bản nếu điều kiện về cơ sở vật chất đáp ứng.
Về thời điểm: Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố cần cân
nhắc lựa chọn thời điểm phù hợp với điều kiện của thôn, tổ dân phố. Ví dụ:
tránh thời điểm mưa bão; dịp mùa vụ (chỉ họp nhanh, ngắn gọn những nội dung cần
thiết phải lấy ý kiến bà con vào dịp mùa vụ; nếu có tuyên truyền, phổ biến pháp
luật khi phải họp dân trong dịp mùa vụ thì cũng chỉ lưu ý, nhắc nhở bà con về
một lĩnh vực pháp luật thật ngắn gọn, không trình bày dài dòng).
Xây dựng chương trình họp: Để buổi họp dân đạt hiệu quả,
Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố phải xây dựng chương trình họp chi tiết, phân
công người thực hiện cụ thể. Riêng về nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật
cần phối hợp với chính quyền xác định lĩnh vực cụ thể, người tiến hành (ví dụ
tuyên truyền pháp luật về biên giới có thể mời bộ đội biên phòng; tuyên truyền
pháp luật về hộ tịch có thể mời công chức tư pháp hộ tịch ở xã…)
b) Lựa chọn nội dung pháp luật đưa vào cuộc họp
Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, thực tiễn của từng thời
điểm; trên cơ sở hướng dẫn nội dung sinh hoạt (họp) thôn, tổ dân phố hàng tháng
của Ủy ban nhân dân cấp xã. Trưởng thôn, Tổ trưởng Tổ dân phố quyết định đưa
nội dung pháp luật vào tuyên truyền, phổ biến cho bà con nhân dân là một trong
các nội dung của buổi họp. Ví dụ: Tuyên truyền pháp luật về phòng, cháy chữa
cháy khi mùa khô (mùa đông) đến; tuyên truyền pháp luật về an toàn giao thông,
vệ sinh thực phẩm vào dịp cuối năm…
c) Phương thức thực hiện
Căn cứ vào chương trình họp đã chuẩn bị, đến nội dung
tuyên truyền pháp luật, thì trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố mời người đã được
phân công lên trình bày. Đối với những nội dung pháp luật khó, quan trọng, có
thể mời báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh (nhờ Sở Tư pháp giới thiệu) hoặc báo
cáo viên pháp luật cấp huyện (nhờ Phòng Tư pháp giới thiệu); mời tuyên truyền
viên pháp luật trên địa bàn xã, phường, thị trấn. Đối với những nội dung pháp
luật phổ thông, thường nhật thì có thể trực tiếp Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân
phố hoặc mời già làng, trưởng bản thực hiện. Khi thực hiện tuyên truyền pháp
luật, thì Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc già làng, trưởng bản phải
nghiên cứu trước văn bản pháp luật, liên hệ với thực tiễn ở thôn, làng, bản
mình hoặc tham khảo ý kiến của những người chuyên môn như công chức hộ tịch,
công an, bộ đội biên phòng để bảo đảm bài trình bày đúng quy định pháp luật,
được bà con đón nhận và áp dụng vào cuộc sống.
3. Phát huy vai trò của các tổ chức tự quản
trong cộng đồng dân cư.
a) Vai trò của tổ chức tự quản đối với công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
Tổ chức tự quản của Nhân dân ở cộng đồng dân cư, tổ dân
phố là tổ chức quần chúng hoạt động trên cơ sở tự nguyện, tự chịu trách nhiệm,
do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định thành lập nhằm phát huy vai trò
tích cực của quần chúng Nhân dân trong phòng, tự quản, tự bảo vệ về an ninh,
trật tự, tham gia phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, quản lý, giáo dục các
thành viên gia đình; giáo dục, giúp đỡ người mãn hạn tù hoàn lương; bảo vệ an
ninh Tổ quốc…
Tổ chức tự quản chính là hình thức phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân tham gia quản lý xã hội. Từ đó phát huy tinh thần đoàn kết, gắn bó
Nhân dân trong cộng đồng dân cư, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Có thể thấy, thông qua mô hình/tổ chức tự quản của Nhân
dân tại cộng đồng dân cư đã góp phần nâng cao ý thức Nhân dân ở khu dân cư, tổ
dân phố, thôn, làng, ấp, bản; người dân nắm được quy định pháp luật hướng dẫn
cộng đồng cùng thực hiện và kịp thời phát hiện hành vi vi phạm để ngăn chặn
hoặc thông báo cho cơ quan, người có thẩm quyền xử lý; từ đó xây dựng cộng đồng
dân cư văn hóa, văn ninh, chấp hành pháp luật, vì lợi ích của cộng đồng và mọi
công dân.
b) Yêu cầu xây dựng mô hình/tổ chức tự quản của Nhân dân
Việc xây dựng mô hình/tổ chức tự quản của Nhân dân phù
hợp với nguyện vọng của Nhân dân và phải bảo đảm có sự quản lý của Nhà nước. Cụ
thể như sau:
- Xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân;
- Mục tiêu hoạt động vì lợi ích cộng đồng dân cư;
- Được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định
thành lập.
c) Phương thức thực hiện
Cùng với lực lượng công an, cán bộ của Mặt trận Tổ quốc,
cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân là lực lượng gần dân, sát dân, nắm được nhu
cầu đời sống của Nhân dân cần chủ động phối hợp với các tổ chức đoàn thể, tổ
chức chính trị xã hội trên địa bàn thôn, bản, tổ dân phố nghiên cứu, đề xuất
xây dựng mô hình/tổ chức tự quản trong cộng đồng dân cư và đề nghị Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã ra quyết định thành lập (như mô hình Câu lạc bộ phụ nữ
phòng, chống ma túy”; “Tuần tra nhân dân”; “Tuyến đường Hội Phụ nữ thôn/Phường
… tự quản”.
Các mô hình/tổ chức tự quản trong cộng đồng dân cư cần tổ
chức họp hàng tuần, tháng, nội dung quan tâm như: Phổ biến chủ trương chính
sách mới và những công việc của cộng đồng dân dự về bảo vệ môi trường, giữ gìn
an ninh trật tự, an tòan xã hội; tự chủ, tự quản trong việc quản lý, giáo dục
các thành viên trong gia đình; thực hiện các cuộc vận động do Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc phát động. Theo đó, cần phân công người đứng ra chủ trì cuộc họp chuẩn
bị nội dung pháp luật cần phổ biến, tuyên truyền. Ngoài việc tuyên truyền cho
thành viên của tổ chức mình, Tổ chức tự quản trong cộng đồng dân cư cần có biện
pháp tuyên truyền, phổ biến cho thành viên trong gia đình và ngoài cộng đồng.
Ví dụ yêu cầu mọi người chấp hành luật an toàn giao thông để bảo đảm an ninh
giao thông trên tuyến phố.
4.
Tổ chức tuyên truyền, cổ động thông qua các hình thức: Bảng tin, áp phích, khẩu
hiệu, các ấn phẩm; tranh cổ động
Một trong những hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp
luật sinh động tại cơ sở là dán, treo, mắc thông tin, khẩu hiệu pháp luật tại
nơi công cộng.
a) Yêu cầu đối với thông tin, khẩu
hiệu
+ Nội dung đơn giản, ngắn gọn, cô
đọng, đủ ý.
+ Hình thức: Sinh động, bắt mắt
b) Địa điểm dán, treo, mắc áp phích, khẩu hiệu, tranh cổ
động: Tại nơi đông dân cư qua lại hoặc hay tổ chức hội họp (như: Nhà văn hóa
thôn, tổ dân phố, trụ sở Ủy ban nhân dân, Cổng trường học, ngã ba, ngã tư đường…).
c) Phương thức thực hiện:
+ Phân công cụ thể đơn vị chịu trách nhiệm xây dựng áp
phích, khẩu hiệu, tranh cổ động. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
đoàn thể, phân công mỗi đơn vị chịu trách nhiệm xây dựng, dán, treo mắc áp
phích, khẩu hiệu, tranh cổ động về pháp luật. Ví dụ: Hội Nông dân chịu trách
nhiệm tuyên truyền, xây dựng, dán, treo mắc áp phích, khẩu hiệu, tranh cổ động
về an toàn vệ sinh thực phẩm trong chăn nuôi, trồng trọt; Hội phụ nữ chịu trách
về lĩnh vực bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, bảo vệ trẻ em, hôn nhân và gia
đình…).
+ Xác định chủ đề pháp luật phổ biến cho mỗi dịp, ngày kỷ
niệm, ngày lễ, như ngày Giờ Trái đất - tuyên truyền pháp luật về bảo vệ môi
trường; Ngày “Toàn dân phòng chống ma túy 26/6” – tuyên truyền pháp luật về
phòng, chống ma túy; “ngày vì người nghèo 17/10” – phổ biến các chủ trương, chính sách cho vay
vốn, hỗ trợ lãi suất, hỗ trợ học nghề; Ngày “Quốc tế chống tham nhũng 09/12” –
phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng; Ngày Quốc tế Phụ nữ 08/3, Ngày
Quốc tế thiếu nhi 01/6 – phổ biến pháp luật về bình đẳng giới, về bảo vệ quyền
trẻ em…
+ Nguồn kinh phí thực hiện: Có thể đề nghị Ủy ban nhân
dân cấp xã hỗ trợ hoặc huy động nguồn tài trợ của các doanh nghiệp, tổ chức.
5. Lồng ghép trong các sự kiện lễ, hội, ngày truyền thống của tổ chức, đoàn
thể, địa phương.
Ở
nước ta, văn hóa tín ngưỡng của người dân luôn được Đảng và Nhà nước tôn trọng,
thừa nhận và tạo điều kiện phát triển. Việc theo tôn giáo, thờ cúng thần thánh,
thờ cúng ông, bà, tổ tiên không chỉ là quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân mà còn là một nét đẹp truyền thống văn hóa của dân tộc, được người dân
lưu truyền qua nhiều thế hệ và được Nhà nước tạo điều kiện duy trì, phát triển
nhằm giáo dục nhân cách đạo đức con người, với giá trị “uống nước nhớ nguồn”.
Theo thống kê, cả nước có gần 9.000 lễ hội, trong đó có khoảng 7.000 lễ hội dân
gian truyền thống, gần 1.400 lễ hội tôn giáo, hơn 400 lễ hội lịch sử, cách
mạng…[2].
Các lễ, hội luôn nhận được sự tham gia đông đảo của người dân đến từ mọi thành
phần trong xã hội (trí thức, doanh nhân, công nhân, nông dân,…) không phân biệt
độ tuổi, giới tính, dân tộc… Do đó mỗi lễ hội là dịp để tuyên truyền, đưa pháp
luật đến với người dân một cách gần gũi, thiết thực.
a) Các hình thức tuyên truyền pháp
luật trong các sự kiện lễ, hội tại địa phương
- Dán, treo, mắc băng rôn, khẩu hiệu, pano, áp phích tại
khu vực tổ chức Lễ hội.
- Bố trí chuyên gia pháp luật (luật gia, luật sư, người
am hiểu kiến thức pháp luật…) thực hiện tư vấn pháp luật miễn phí.
- Thực hiện trợ giúp pháp luật.
- Phát tài liệu pháp luật, tờ gấp, tài liệu giới thiệu
quy định pháp luật.
- Trò chơi có thưởng về tìm hiểu pháp luật hoặc lồng ghép
01 câu hỏi pháp luật trong các trò chơi dân gian.
- Hình thức khác phù hợp với đặc điểm của địa phương,
vùng, miền.
b) Yêu cầu hoạt động lồng ghép phổ biến pháp luật trong
các sự kiện lễ, hội tại địa phương
- Nội dung pháp luật dự kiến tuyên tuyền, phổ biến tại lễ
hội phải mang tính thời sự (vấn đề đang được dư luận xã hội quan tâm, hoặc vấn
đề nổi cộm tại địa phương).
- Hình thức thể hiện: Đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu
c) Phương thức thực hiện
- Công chức tư pháp hộ tịch (hoặc cán bộ, chiến sĩ quân
đội phối hợp với công chức tư pháp hộ tịch) phối hợp với công chức văn hóa đề
xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cho phép thực hiện hoạt động phổ biến pháp
luật trong dịp lễ hội tại địa phương.
- Phối hợp với Ban Tổ chức lễ hội xây dựng chương trình,
kịch bản đưa pháp luật vào phổ biến, tuyên truyền tại Lễ hội.
- Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực
hiện theo kịch bản đã được phê duyệt.
- Thực hiện việc lồng ghép nội dung pháp luật trong lễ
hội theo kịch bản.
6.
Đưa vào việc thực hiện các cuộc vận động, các phong trào xã hội.
Hiện nay, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
chủ trì thực hiện nhiều cuộc vận động, phong trào, như: Cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh; Phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo – Không
để ai bị bỏ lại phía sau”; “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”… Các
cuộc vận động, phong trào này luôn nhận được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng
nhân dân, do đó đây là dịp để tuyên truyền, phổ biến pháp luật một cách hiệu
quả.
a) Nội dung và hình thức tuyên truyền pháp luật trong các
cuộc vận động, các phong trào
- Nội dung
Để đưa nội dung pháp luật cần phổ biến vào trong các cuộc
vận động, các phong trào cần phù hợp với mục tiêu, chủ đề của cuộc vận động,
phong trào. Ví dụ với Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh thì tuyên truyền pháp luật về cán bộ, công chức, công vụ; về phòng,
chống tham nhũng… Phong trào “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thì
tuyên truyền pháp luật về an toàn thực phẩm, chống hàng giả, hàng nhái…
- Hình thức
Lồng
ghép trong quá trình triển khai cuộc vận động. Ví dụ: Đưa nội dung pháp luật
vào bàn luận trong phóng sự khi thực hiện truyền thanh tại cơ sở về cuộc vận
động, phong trào; đưa vào trong tờ gấp tuyên truyền cuộc vận động, phong trào…
b)
Phương thức thực hiện
-
Bộ phận pháp luật của Mặt trận Tổ quốc ở xã chủ động đưa nội dung pháp luật vào
tuyên truyền, phổ biến trong quá trình thực hiện cuộc vận động, phong trào.
-
Công chức tư pháp hộ tịch tham mưu,đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã thực hiện phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở xã, phường, thị trấn để lồng ghép
phổ biến nội dung pháp luật trong các cuộc vận động, các phong trào.
+
Tham mưu xây dựng, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã và Chủ tịch Mặt trận
Tổ quốc ở xã ký Chương trình phối hợp hoặc Kế hoạch phối hợp lồng ghép phổ biến
pháp luật trong các cuộc vận động, các phong trào.
+
Xây dựng Kế hoạch triển khai và tổ chức triển khai theo kế hoạch.
Ngoài
ra, có nhiều hình thức kết hợp, lồng ghép phổ biến pháp luật thông qua các hoạt
động văn hóa ở cơ sở, như: phổ biến trên hệ thống loa truyền thanh cơ sở; lồng
ghép trong các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, nhân đạo, tình
nguyện; trong sinh hoạt của các đội văn nghệ quần chúng, câu lạc bộ thể thao
(cầu lông, bóng bàn …). Tùy đặc điểm thực tế của địa phương, công chức văn hóa,
chiến sĩ quân đội nhân dân và công chức tư pháp hộ tịch tham mưu lãnh đạo lồng
ghép các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật thông qua các hoạt động văn
hóa ở cơ sở. Thực hiện tốt mô hình này, nhận thức pháp luật của bà con nhân dân
sẽ được nâng lên rõ nét, từ đó góp phần xây dựng tình đoàn
kết, gắn bó, đồng lòng trong cộng đồng dân cư, nâng cao ý thức chấp hành và
tuân thủ pháp luật.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA Ở CƠ SỞ
1. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
Việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện có
ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dưới tác động của quá trình hội nhập quốc tế, đô thị hóa và cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, xã hội Việt Nam đã có những bước chuyển, thay đổi về một
phần về lối sống, quan điểm (có cả tích cực và tiêu cực). Do đó, cần bồi dưỡng
tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo sự
chuyển biến trong nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật; hình thành lối sống có
ý thức tự trọng, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi
trường; tôn vinh cái đúng, cái đẹp, tích cực, nhân rộng các giá trị đạo đức cao
đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, lạc hậu; hành vi vi
phạm pháp luật, tiêu cực làm tha hóa con người.
2. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh
Mỗi địa phương, cộng đồng phải là một môi trường văn hóa
lành mạnh, là cơ sở để xây dựng gia đình văn hóa, cộng đồng văn minh, đoàn kết.
Thực hiện chiến lược phát triển gia
đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân
cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Xây dựng và nhân
rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha
mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương
yêu nhau. Xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư, các cơ quan,
đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt chuẩn thực chất về
văn hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống
văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ
hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong
trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa".
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách phù hợp, tiến kịp sự phát triển của xã hội. Để xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tiến bộ, là nền tảng tinh thần của xã hội,
nhất thiết phải có hệ thống pháp luật hướng tới việc bảo vệ các giá trị, đạo
đức, lối sống, nếp sống văn hóa tốt đẹp, bảo vệ, tôn trọng quyền làm chủ của
người khác, của cộng đồng. Thông qua vai trò quản lý nhà nước, xây dựng hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật, dùng luật pháp để điều chỉnh hành vi con
người cho phù hợp, nhằm dần trở thành ý thức tự giác của mỗi người, hướng tới
thực hiện chuẩn mực về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống văn hóa.
3. Duy trì, củng cố và phát triển các thiết
chế văn hóa ở cơ sở
Trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc
tế, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách lớn tại Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thức XIII của Đảng, công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là
một trong những nhiệm vụ cấp thiết để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, phục
vụ tích cực cho việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân thường
thông qua các mô hình, thiết chế văn hóa ở cơ sở, do đó, việc duy trì, củng cố
và phát triển các mô hình, thiết chế này là cần thiết. Cần phát huy vai trò của
hệ thống chính trị trong việc xây dựng đời sống văn hóa nhằm tạo điều kiện cho
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, tạo dựng môi trường văn hóa lành
mạnh, giữ gìn, bảo tổn bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc; là yếu tố căn cốt
hình thành ý thức trách nhiệm và sự tự giác của người dân trong chấp hành chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Việc củng cố và phát triển, tăng cường
các thiết chế văn hóa ở cơ sở (Nhà văn hóa, đội văn nghệ quần chúng, câu lạc bộ
thể thao, các phong trào cổ động, các lễ hội truyền thống,...) cần được các cấp
ủy, chính quyền quan tâm, thực hiện, góp phần xây dựng tư tướng chính trị trong
quần chúng nhân dân, xây dựng nếp sống văn minh, kỷ cương xã hội, xây dựng con
người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa./.
CHUYÊN
ĐỀ 11
Kỹ
năng phổ biến, giáo dục pháp luật qua hệ thống truyền thanh nội bộ trong các
đơn vị quân đội
Cùng với sự phát triển của công
nghệ thông tin những năm gần đây, nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin,
công nghệ kỹ thuật số 4.0 được đẩy mạnh tại Việt Nam, nhiều loại hình thông tin
phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là sự phát triển của hệ thống thông tin trên
Internet; hệ thống này có nhiều lợi thế để thay thế các phương thức truyền
thông truyền thống tại Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế một số hình thức
truyền thống như truyền thông trên hệ thống truyền thanh ở cơ sở vẫn được duy
trì và giữ vai trò quan trọng. Hiện nay trong bối cảnh đất nước cùng chung tay
phòng, chống dịch Covid-19 việc duy trì truyền thanh nội bộ có vai
trò quan trọng trong giáo dục chính trị, tư tưởng, tuyên truyền, phổ biến pháp
luật cho cán bộ, chiến sỹ góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Hệ thống truyền thanh nội bộ trong quân đội là cánh tay
nối dài của hệ thống đài phát thanh từ trung ương đến cơ sở, nhằm kịp thời đưa
thông tin đến các chiến sỹ, nhất là các thông tin pháp luật; từ đó đáp ứng nhu
cầu tìm hiểu thông tin pháp luật của các chiến sỹ trong quân đội.
1. Khái quát về hệ thống truyền thanh ở cơ
sở
Ở Việt Nam, loa truyền thanh công cộng,
còn gọi là loa phát thanh công cộng, truyền thanh cơ sở, hay loa phát thanh
phường, xã là hệ thống phát thanh cấp phường, xã tại Việt Nam, bao gồm một loa
hay nhiều loa được lắp đặt ở các vị trí thích hợp nhằm mục đích truyền tin tới
người dân.
Hệ thống truyền thanh cơ sở của Việt Nam
ra đời vào khoảng năm 1945, khi chính quyền Việt Nam Dân chủ cộng hoà muốn đẩy
mạnh các hoạt động tuyên truyền tới dân chúng. Tuy nhiên, do chiến tranh, việc phát triển hệ thống phát thanh gặp nhiều
khó khăn, phải đến năm 1954, sau ngày giải phóng Thủ đô, khi Đài Tiếng
nói Việt Nam được phát thanh trở lại thì hệ thống loa truyền thanh cơ sở được
phát triển mạnh. Những năm đó, cả miền
Bắc sôi động với những phong trào xây dựng đời sống mới, loa truyền thanh được
mắc khắp các khối phố nội thành và các làng xã ngoại thành. Cho tới
những năm 1960, người dân miền Bắc chủ yếu nghe loa truyền thanh của Đài Tiếng
nói Việt Nam, tiền thân của loa truyền thanh cơ sở ngày nay. Loa được phát
thanh theo giờ cố định, thông tin cho người dân thông tin chính sách của Đảng,
nhà nước, thông tin về cuộc kháng chiến chống Mỹ, mùa vụ, đời sống xã hội …Sau
năm 1975, loa truyền thanh ngày càng phổ biến, đặc biệt, hệ thống loa phóng
thanh đã phổ biến khắp đất nước, loa phát thanh được sử dụng rộng rãi ở các
ngôi làng nông thôn và các thị trấn, nơi 70% người dân Việt Nam sinh sống. Ngày
nay, hệ thống loa phát thanh đã được lắp đặt tại 100% các xã, phường, thị trấn
tại Việt Nam và có tên gọi mới là Đài truyền thanh cấp xã. Từ các xã, mạng lưới
loa truyền thanh cơ sở được mở rộng ra đến các thôn, xóm, bản, buôn, sóc…
Với chức năng chính là tuyên truyền thông tin đến người
dân, hệ thống phát thanh ở cơ sở đã có nhiều bước phát triển để phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội đất nước, trở thành một phương thức thông tin liên
lạc hữu hiệu, hiệu quả. Chính vì những ưu điểm của phương thức thông tin này,
từ lâu, đây đã trở thành một hình thức PBGDPL đến người dân được các địa phương
trên cả nước ứng dụng rộng rãi.
Trong quân đội nhân dân Việt Nam, hệ thống loa truyền thanh nội bộ, những
năm qua đã được lãnh đạo các cấp quan tâm đầu tư trang bị cơ sở vật chất hiện
đại, đồng thời chú trọng đổi mới nội dung, cách thức thể hiện nên chương trình
truyền thanh nội bộ ở các đơn vị ngày càng thu hút được người nghe, nhất là sĩ
quan và chiến sĩ trẻ.
2.
Khái quát về hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật qua mạng lưới truyền thanh
ở cơ sở trong quân đội
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) qua mạng
lưới truyền thanh ở cơ sở trong quân đội là một hình thức PBGDPL truyền thống,
được triển khai thực hiện từ rất sớm bên cạnh các hình thức PBGDPL khác như hội
nghị, tập huấn, báo chí …Cũng là một hình thức PBGDPL qua truyển thông, nhưng
phạm vi, đối tượng hướng đến của mạng lưới truyền thanh nội bộ trong quân đội
lại khá hẹp, thường là một đơn vị bộ đội (một trung đội, một đại đội hoặc 1
tiểu đoàn….). Mặc dù phạm vi hẹp nhưng hệ thống loa truyền thanh nội bộ vẫn có
rất nhiều ưu điểm trong việc PBGDPL cho các sỹ quan và các chiến sỹ:
- Có khả năng tuyên truyền nhanh, kịp thời, khi có một
chính sách, văn bản pháp luật mới được ban hành, hệ thống truyền thanh nội bộ
có thể tổ chức phát thanh trong thời gian ngắn (So với các phương tiện truyền
thông khác phải qua rất nhiều khâu trung gian mới có thể phát sóng).
- Gần
gũi, dễ tiếp cận với các sỹ quan và các chiến sỹ: Nội dung pháp luật được phát thanh trên
hệ thống truyền thanh nội bộ trong quân đội thường là các nội dung pháp luật
liên quan mật thiết, thiết thực đến đời sống hàng ngày của các sỹ quan và các
chiến sỹ; phản ánh trung thực những
sự việc, những con người có thật trong thực tiễn thi hành pháp luật tại đơn vị
bộ đội; kịp thời giải đáp những băn
khoăn, thắc mắc của các sỹ quan và các chiến sỹ về chính sách, pháp luật …Nhiều chương trình phát
thanh do cán bộ, chiến sỹ thực hiện, có thể được thực hiện bằng tiếng địa
phương, bằng ngôn ngữ dễ hiểu, dễ nhớ giúp các chiến sỹ dễ dàng tiếp nhận và
ghi nhớ các thông tin pháp luật.
- Chủ động về thời gian: Việc mở loa phát thanh tại các đơn vị thường là vào
2 buổi sáng và chiều trong ngày. Tuy nhiên, hệ thống truyền
thanh nội bộ có thể lựa chọn thời gian
phát thanh một cách phù hợp với thực tế thời gian sinh hoạt, lao động sản xuất
của các chiến sỹ để buổi phát thanh hiệu quả; việc chọn thời gian phát thanh
phù hợp làm tăng đáng kể số lượng người nghe.
- Chủ động trong việc
lựa chọn nội dung: Các tổ truyền thanh tại các đơn vị quân đội có thể chủ động
lựa chọn nội dung cho các buổi phát thanh phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính
trị của đơn vị và mong muốn tìm hiểu pháp luật của các sỹ quan và chiến sỹ.
- Có khả năng tác động
tới nhiều đối tượng tại một địa điểm trong cùng một thời gian và có thể thực
hiện phát thanh được nhiều lần: Phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) qua hệ
thống truyền thanh nội bộ có số lượng người nghe khá đông đảo, phạm vi có thể
là một trung đội, một đại đội hoặc một tiểu đoàn. Thậm chí, hệ thống truyền
thanh trong quân đội còn có thể tuyên truyền thông tin nhanh chóng đến các đơn
vị đóng quân trên đảo xa, các cán bộ, chiến sỹ làm việc trên tàu, biển, từ đó
chương trình phát thanh nội bộ đã kịp thời cung cấp cho cán bộ, chiến sĩ nhiều
thông tin hữu ích, có sức lan tỏa, tác động mạnh mẽ đến đời sống, tâm tư, tình
cảm và ý thức trách nhiệm của quân nhân.
- Tiết kiệm được thời
gian, nguồn lực triển khai và kinh phí vì không phải tập trung các sỹ quan,
chiến sỹ tại một điểm để tổ chức Hội nghị phổ biến pháp luật.
3. Cách thức tổ chức, thực hiện PBGDPL trên hệ
thống loa truyền thanh nội bộ
Hiện nay, Trung tâm Phát thanh - Truyền hình Quân đội là đơn vị trực thuộc Tổng cục Chính trị
của Quân đội nhân dân Việt Nam và hệ thống truyền thanh
nội bộ trong quân đội do Phòng chính trị tại các đơn vị quân đội trực tiếp quản
lý, khai thác máy móc thiết bị, duy trì hoạt động để thực hiện phát thanh phục
vụ nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền của đơn vị.
Khi thực hiện PBGDPL cho chiến sỹ qua hệ
thống truyền thanh nội bộ tại đơn vị, cán bộ chiến sỹ được giao nhiệm vụ xây
dựng các bản tin, thông tin phát thanh cần có sự phối hợp chặt chẽ với cán bộ,
chiến sỹ làm công tác chính trị, tuyên giáo. Để công tác này được thực hiện có
trọng tâm, trọng điểm, thường xuyên, liên tục cần xây dựng kế hoạch PBGDPL trên
Hệ thống truyền thanh nội bộ ngay từ đầu năm, trong đó phân công cán bộ chủ
trì, phối hợp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:
a) Cán bộ, chiến sỹ được giao làm công
tác phát thanh có những trách nhiệm chính như sau:
- Tham mưu, đề xuất lãnh
đạo đơn vị trong công tác tổ chức PBGDPL trên Hệ thống truyền thanh
nội bộ. Chủ trì, phối hợp với các phòng,
ban trong đơn vị tổ chức PBGDPLqua hệ thống truyền thanh nội bộ.
- Xây dựng nội dung
PBGDPL của chương trình phát thanh.
- Giúp đơn vị xây dựng
đội ngũ cộng tác viên ở các phòng, ban trong đơn vị tham gia viết tin, bài cho
chương trình phát thanh để PBGDPL.
b) Cán bộ phụ trách công tác tuyên giáo hoặc chính trị có
những trách nhiệm sau:
- Bảo đảm cơ sở vật
chất, trang thiết bị kỹ thuật cho công tác phát thanh (lắp đặt mạng lưới truyền
thanh trong nội bộ đơn vị);
- Đề xuất, tham mưu việc
xây dựng đội ngũ cộng tác viên;
- Xây dựng kế hoạch
PBGDPL trên hệ thống truyền thanh nội bộ;
- Tổ chức thực hiện
chương trình phát thanh về PBGDPL;
- Bảo đảm kinh phí thực
hiện chương trình phát thanh (kinh phí viết tin, bài, biên tập, phát thanh…).
- Tổ chức giao ban định
kỳ, các cuộc họp cộng tác viên để trao đổi, rút kinh nghiệm trong công tác
PBGDPL qua hệ thống phát thanh nội bộ;
- Tổ chức sơ kết, tổng
kết, khen thưởng, biểu dương các cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác
PBGDPL qua hệ thống truyền thanh nội bộ.
c) Xây dựng Kế hoạch PBGDPL trên hệ thống truyền thanh nội bộ tại
đơn vị:
Cán bộ, chiến sỹ được giao làm công tác phát thanh và cán bộ
phụ trách công tác tuyên giáo hoặc chính trị phối hợp với nhau trong
việc xây dựng Kế hoạch PBGDPL trên Hệ thống truyền thanh nội bộ của
đơn vị. Tuỳ đặc điểm tình hình, điều kiện của đơn vị để lựa chọn việc xây dựng
Kế hoạch định kỳ (năm, quý,
tháng, tuần) hoặc đột xuất phục vụ sự kiện chính trị pháp lý của đơn vị bộ đội
để trình lãnh đạo đơn vị quyết định.
Kế hoạch PBGDPL
trên Hệ thống truyền thanh nội bộ cần có
những nội dung chủ yếu sau:
- Lựa
chọn nội dung cần PBGDPL:
+ Nên lựa chọn những nội
dung pháp luật gần gũi, thiết thực với các sỹ quan và chiến sỹ để tổ chức phát
thanh PBGDPL: Giới thiệu đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương, chú trọng những
văn bản pháp luật liên quan trực tiếp nhiệm vụ và đời sống của chiến sỹ như:
Luật Quốc phòng; Luật Nghĩa vụ quân sự; Luật
Biên giới quốc gia; Luật Biển Việt Nam; Luật Dân quân tự vệ; Luật
Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ;Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh;Luật Cảnh sát biển Việt Nam;Luật
Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; Bộ luật Lao động; Luật Hôn nhân và gia đình; Bộ
luật Dân sự, Bộ luật Hình sự; Luật Tiếp cận thông tin; Luật An toàn giao thông
đường bộ; Luật An ninh mạng; Luật Phòng, chống ma tuý …những vấn đề được cán
bộ, chiến sỹ quan tâm (Ví dụ: chế độ, chính sách đối với sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng, công nhân quốc phòng, viên chức quốc
phòng, chế độ về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội với quân nhân.....), nội dung những văn bản mới được ban hành,
những quy định liên quan thiết thực tới các sỹ quan và chiến sỹ.
+ Phản ánh thực tiễn thi
hành, chấp hành pháp luật ở đơn vị quân đội, nêu gương người tốt, việc tốt
trong thực hiện, chấp hành pháp luật, đồng thời phê phán những cán bộ, chiến sỹ
vi phạm pháp luật trên tại đơn vị.
+ Xây dựng chuyên mục
giải đáp pháp luật: Giải đáp những thắc mắc, băn khoăn, những kiến nghị của cán
bộ, chiến sỹ liên quan đến những quy định pháp luật, đến tình hình thực thi và
chấp hành pháp luật…
- Lựa chọnhình thức thể hiện phù hợp: Để truyền
tải nội dung của chương trình phát thanh cần xác định hình thức thể hiện phù
hợp, sinh động, có thể lựa chọn một trong các hình thức như: Tin, bài, hỏi-đáp
pháp luật, tiểu phẩm pháp luật, thơ ca, hò vè, hát, câu chuyện truyền thanh về
pháp luật…Biên soạn các tài liệu PBGDPL ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, có thể
bằng tiếng địa phương để cán bộ, chiến sỹ dễ tiếp thu.
- Lựa chọn thời lượng phát thanh:Thời lượng phát
thanh tuyên truyền về pháp luật được xác định phù hợp với đặc điểm về điều kiện
của từng đơn vị bảo đảm dung lượng vừa phải với nhu cầu tiếp nhận của chiến sỹ,
đồng thời bảo đảm hài hòa với các chương trình phát thanh về văn hóa, kinh tế,
xã hội, … Qua thực tiễn cho thấy loại hình này có hiệu quả cao đối với đơn vị
đóng quân ở địa bàn nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa – nơi mà điều kiện
thông tin còn nhiều hạn chế. Vì vậy, đối với những địa bàn này, cần tăng thời
lượng phát thanh trên mạng lưới truyền thanh cơ sở trong đó có phát thanh
PBGDPL.
- Thời gian phát thanh: Thực hiện theo quy định của đơn vị, cần lựa chọn,
bố trí phù hợp với giờ giấc sinh hoạt, tập luyện, sản xuất của các cán bộ,
chiến sỹ, nhằm thu hút đông đảo người nghe, phát huy cao nhất hiệu quả tác động
của chương trình.
Ví dụ: Lựa chọn thời
điểm phát thanh vào thời điểm trước khi cán bộ, chiến sỹ học tập, tập luyện,
hoặc buổi trưa khi các cán bộ, chiến sỹ nghỉ ngơi, hoặc chiều tối khi các chiến
sỹ đã hết giờ tập luyện. Thời gian phát thanh cần phải bố trí vào buổi sáng sớm
(khoảng từ 5h30 đến 6h30) hoặc buổi chiều tối (từ 17h30 đến 18h30); hoặc có thể
lựa chọn vào buổi trưa (từ 11h00-12h00).
-
Cách thức phát thanh: Tùy thuộc vào điều
kiện, hoàn cảnh của đơn vị và địa phương mà xác định cách thức phát thanh phù
hợp, hoặc phát thanh qua hệ thống loa cố định hoặc tổ chức phát thanh lưu động.
Ở
các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa do gặp khó khăn về địa hình, kinh phí… chưa
xây dựng được mạng lưới truyền thanh cố định thì nên trang bị những phương tiện
cơ động, ít tốn kém để tổ chức phát thanh lưu động. (Một số đơn vị bộ đội đóng
quân tại các miền núi, vùng sâu, vùng xa có trách nhiệm tuyên truyền, PBGDPL
cho bà con địa phương nên tổ chức phát thanh lưu động).
Ví dụ: Thực tiễn áp dụng
ở một số địa phương vùng sâu, vùng xa, nhiều cán bộ, chiến sỹ có trách nhiệm
phát thanh đã lắp đặt loa truyền thanh trên xe đạp, xe máy đi đến các vùng
thôn, bản xa xôi để thực hiện phát thanh PBGDPL. Hoặc ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long, hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, nhiều cán bộ, chiến sỹ đã lắp
đặt loa truyền thanh trên xuồng, cano để đi tuyên truyền PBGDPL đến người dân
các khóm, ấp...
-
Phân công tổ chức thực hiện kế hoạch phát thanh:
+ Cán bộ thông tin chịu
trách nhiệm thực hiện chương trình, phụ trách về kỹ thuật phát thanh.
+
Cán bộ phụ trách phát thanh chịu trách nhiệm về nội dung pháp lý của chương
trình phát thanh, cung cấp tài liệu, văn bản để chuẩn bị nội dung chương trình.
+ Phát thanh viên: Bảo
đảm các yêu cầu như không nói ngọng, không nói lắp, giọng đọc rõ ràng, truyền
cảm. Đây cũng là cách thức thu hút sự quan tâm của người nghe đối với tin tức
pháp luật vốn khô khan.
d) Chuẩn bị các điều kiện để thực hiện chương trình phát
thanh:
Bao gồm các công việc
sau: (i) Biên soạn tin, bài, chuyên đề…cho chương trình; (ii) Biên tập nội dung
chương trình; (iii) Chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật phát thanh; (iv) Duyệt
chương trình trước khi phát thanh chính thức.
Nội dung phát thanh được soạn thảo trên máy vi tính, bảo
đảm câu chữ rõ ràng, dễ tiếp thu và trước khi phát sóng đều được lãnh đạo đơn
vị xem xét, biên tập, thẩm định kỹ lưỡng.
Để các tin, bài truyền
thanh về PBGDPL dễ thu hút các cán bộ, chiến sỹ, khi xây dựng tin, bài, các cán
bộ, chiến sỹ nên đưa ra những tình huống pháp luật thường gặp, ví dụ thực tiễn
về nội dung pháp luật liên quan, sau đó dẫn chiếu quy định của pháp luật về
trường hợp này, đưa ra cách giải quyết trực tiếp để cán bộ, chiến sỹ dễ hình
dung, áp dụng trong thực tiễn.
Lưu ý: Trong quá trình
chuẩn bị nội dung cho chương trình phát thanh PBGDPL qua mạng lưới truyền thanh
nội bộ, cán bộ phụ trách công tác phát hành và các cộng tác viên có thể khai
thác tài liệu pháp luật từ các nguồn sau: Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật,
Cổng Thông tin điện tử chính thống của các cơ quan nhà nước, Tủ sách pháp luật
xã, phường, thị trấn; Điểm bưu điện văn hóa xã; Tủ sách, ngăn sách pháp luật
của các cơ quan, tổ chức, trường học đóng trên địa bàn xã, phường, thị trấn;
những tài liệu pháp luật như đề cương tuyên truyền, sách hỏi – đáp pháp luật,
tờ gấp pháp luật, câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật, tình huống pháp
luật… do các cơ quan tư pháp cung cấp.
Để bảo đảm tính chính
xác, khách quan của thông tin PBGDPL, cần trích dẫn nguồn tài liệu (nếu có).
e) Tổ chức thực hiện chương trình phát thanh:
Chương trình phát thanh
tuyên truyền pháp luật khi được thực hiện cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Nội dung pháp luật
thiết thực, đáp ứng nhu cầu của cán bộ, sỹ quan, chiến sỹ, được biên soạn ngắn
gọn, xúc tích, dễ nhớ, dễ hiểu.
- Cách thể hiện phong
phú, hấp dẫn với nhiều thể loại khác nhau (tin, bài, câu chuyện, tiểu phẩm…);
giọng đọc của phát thanh viên rõ ràng, truyền cảm.
- Chất lượng âm thanh
tốt, âm lượng vừa đủ.
- Bố trí thời gian, thời lượng phát sóng chương
trình phù hợp.
4.
Giải pháp, định hướng thực hiện PBGDPL qua hệ thống truyền thanh nội bộ trong
thời gian tới
4.1. Lắp đặt đồng bộ hệ thống loa truyền thanh không dây:
Trước đây, hệ thống phát thanh ở cơ sở hiệu quả, nhưng vẫn có nhược điểm về cơ
sở vật chất do công tác lắp đặt khó khăn, nhất là vùng miền núi, vùng sâu, vùng
xa vì phải lắp đặt đường dây truyền tải cồng kềnh. Điều này sẽ tăng chi phí lắp
đặt, gây khó khăn trong việc bảo trì, sửa chữa kịp thời nếu có trục trặc hay hệ
thống loa phát thanh bị hỏng.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ
và mạng lưới công nghệ thông tin, hệ thống loa truyền thanh không dây đã dần
thay thế hệ thống loa truyền thanh truyền thống. Hệ thống loa truyền thanh
thông minh đang là giải pháp đột phá về chuyển đổi số của hệ thống truyền thanh
nội bộ. Loa truyền thanh thông minh ứng dụng công nghệ thông tin, viễn thông
thế hệ mới sẽ thay thế, khắc phục những nhược điểm của truyền thanh hữu tuyến
(có dây) và truyền thanh vô tuyến (không dây) FM. Với những ưu thế vượt trội, việc
lắp đặt loa truyền thanh thông minh sẽ giải quyết triệt để những hạn chế của loa
truyền thanh truyền thống. Từ đó, tiết kiệm chi phí và nguồn nhân lực cho hệ
thống truyền thanh nội bộ; phát huy hiệu quả tốt hơn trong việc truyền tải tin
tức, thông tin tuyên truyền đến cán bộ, chiến sỹ, góp phần làm tốt công tác
thông tin tuyên truyền tại đơn vị.Trong thời gian tới, để phát huy và nâng cao
chất lượng, hiệu quả hình thức PBGDPL qua hệ thống phát thanh ở các đơn vị quân
đội, cần đẩy mạnh phát triển mạng lưới thông tin cơ sở hiện đại, đồng bộ, bảo
đảm kết nối với trung ương, thống nhất từ trung ương đến các địa phương. Như
vậy, việc thực hiện PBGDPL qua hệ thống loa truyền thanh ở các đơn vị trong
quân đội đã góp phần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
PBGDPL.
Việc lắp đặt, bố trí các cụm loa cần
đồng đều tại các đơn vị, mỗi đơn vị trung bình có 1 cụm loa trở lên; cần được
bố trí linh hoạt, hiệu quả, đảm bảo các cụm loa hoạt động hiệu quả mà không gây
ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của người dân xung quanh.
4.2. Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ,
chiến sỹ thực hiện phát thanh, xây dựng các chương trình phát thanh:
Cùng với việc đầu tư cơ sở vật
chất cho hệ thống truyền thanh nội bộ tại các đơn vị, cần đề xuất lãnh đạo đơn
vị định kỳ tổ chức tập huấn, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ,
chiến sỹ thực hiện công tác phát thanh, những người trực tiếp sản xuất, tiếp
sóng các chương trình truyền thanh; các đơn vị bộ đội cần tổ chức các lớp tập
huấn hướng dẫn các kỹ năng PBGDPL trong đó có kỹ năng PBGDPL qua hệ thống
truyền thanh nội bộ ở đơn vị cho chiến sỹ phụ trách công tác phát thanh và các
cộng tác viên.
Hiện nay, thông tin tuyên truyền
nói chung và thông tin PBGDPL trong quân đội nói riêng ngày càng có vai trò
quan trọng, đóng góp vào sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, hệ
thống truyền thanh nội bộ trong quân đội là hình thức thông tin cơ sở giúp cán
bộ, chiến sỹ tiếp nhận đầy đủ thông tin thiết yếu, đưa chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống nhanh chóng, kịp thời, góp phần tạo sự đồng thuận, xây dựng tình đoàn kết
trong đơn vị thời kỳ đổi mới và hội nhập, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam./.
CHUYÊN
ĐỀ 12
Kỹ năng tham gia hỗ trợ PBGDPL trong nhà trường
I. Khái quát về hoạt
động phổ biến giáo dục pháp luật trong nhà trường
1. Vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường
Thứ nhất, phổ
biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường góp phần giáo dục đạo đức, lối sống,
hình thành nhân cách, rèn luyện hành vi ứng xử cho thế hệ trẻ ngay từ trên ghế
nhà trường, tạo nếp sống, hành động “theo Hiến pháp và pháp luật”.
Phổ biến, giáo dục pháp
luật trong nhà trường bao gồm hai lĩnh vực: phổ biến pháp luật và giáo dục pháp
luật. Hoạt động giáo dục pháp luật là một hoạt động giáo dục cụ thể, gắn với
hoạt động giáo dục nói chung. Nội dung giáo dục pháp luật là một phần của nội
dung chương trình giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo
dục quốc dân. Giáo dục pháp luật trong nhà trường thực hiện thông qua việc dạy
và học nội dung, kiến thức pháp luật trong trong chương trình giáo dục chính
khóa qua các môn học như giáo dục công dân (ở cấp học phổ thông), pháp luật
(trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học) hoặc được lồng ghép, tích hợp vào
các môn học có liên quan như: đạo đức, tìm hiểu tự nhiên xã hội… (ở cấp học phổ
thông), chính trị (trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học). Phổ biến pháp
luật trong nhà trường được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục ngoại
khóa, giáo dục ngoài giờ lên lớp với các hình thức như nói chuyện pháp luật,
thi tìm hiểu pháp luật, viết báo tường, sinh hoạt theo chủ đề pháp luật, Tọa
đàm, Hội thảo chuyên đề, tham dự phiên tòa… Phổ biến pháp luật góp phần củng cố
những tri thức được học trong chương trình, bồi dưỡng tình cảm, niềm tin pháp
luật, đồng thời rèn luyện, uốn nắn hình thành hành vi ứng xử theo chuẩn mực
pháp luật quy định. Phổ biến pháp luật trong nhà trường giúp người học tiếp cận
pháp luật toàn diện hơn, đầy đủ hơn, thấm sâu hơn, vượt qua rào cản khô khan
của ngôn ngữ văn bản.
Thứ hai, phổ
biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục
toàn diện.
Công cuộc đổi mới đất
nước, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam đòi hỏi có những con người mới, có
tri thức khoa học, có hiểu biết về pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật. Xã
hội càng phát triển, nhu cầu hiểu biết pháp luật và vận dụng pháp luật trong
các hoạt động kinh tế hay để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân
trong xã hội càng lớn. Do đó, ngoài việc trang bị các kiến thức văn hoá, khoa
học kỹ thuật, việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường nhằm trang bị
những tri thức pháp luật cơ bản cho học sinh, giáo dục ý thức tự giác tuân thủ
pháp luật cho các công dân trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước là việc làm
đúng đắn, cần thiết và cấp bách đáp ứng đòi hỏi khách quan của sự phát triển
của xã hội nhằm nâng cao dân trí pháp lý và thực hiện chủ trương của Đảng đã đề
ra trong các Nghị quyết hội nghị Trung ương.
2. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp
luật trong nhà trường
Hình
thức phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường được hiểu là các cách thức
đưa pháp luật đến học sinh, sinh viên, giúp các em nắm được các quy định pháp
luật phù hợp với nhận thức và lứa tuổi của các em.
Đối với hình thức giáo dục pháp luật trong nhà trường
được thực hiện bằng 02 hình thức:
(1)
Giáo dục chính khóa
Đối với hình thức giảng dạy pháp luật
trong chương trình chính khoá, đặc trưng chính của hình thức này là truyền đạt
các nội dung pháp luật bằng các phương pháp sư phạm thực hiện trong nhà trường.
Các nội dung giáo dục pháp luật trong nhà trường được đưa vào chương trình
giảng dạy chính khoá thông qua các môn học như: Đạo đức (bậc giáo dục tiểu
học), Giáo dục công dân (bậc giáo dục trung học cơ sở, trung học phổ thông),
pháp luật (trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề), pháp luật đại cương, pháp luật
chuyên ngành (bậc đại học, cao đẳng và các trường thuộc cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội). Theo quy định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, chương trình và sách giáo khoa môn học Đạo đức, môn Giáo dục công dân
ở các trường phổ thông và môn Pháp luật ở trung cấp chuyên nghiệp do Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành; đối với các trường cao đẳng và đại học, Hiệu trưởng
quyết định về chương trình, nội dung cụ thể của môn học và tổ chức biên soạn
giáo trình môn học trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu giáo dục, chuyên môn, ngành
nghề đào tạo và khung chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
(2) Giáo dục ngoại khóa và các hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp.
Giáo dục ngoại khóa là các hoạt động nằm ngoài chương trình giáo dục
chính khóa. Hoạt động ngoại khóa liên quan đến tất cả các hoạt động văn hóa,
thể thao, giải trí, xã hội ngoài giờ học trên lớp. Đây là một trong những “sân
chơi” để học sinh, sinh
viên tự nguyện tham gia theo nhu cầu, khả năng của bản thân. Đối với sinh viên,
hoạt động ngoại khóa đóng vai trò rất lớn không chỉ giúp các em nhận thức tầm
quan trọng của việc hiểu biết pháp luật và thi hành pháp luật mà còn hình thành
trong các em ý thức sống và làm việc theo pháp luật.
Hoạt động ngoại khóa cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc bổ sung các kỹ năng và kinh nghiệm cho học sinh trong cuộc sống tập
thể ở nhà trường, trong gia đình và ngoài xã hội; góp phần phát triển nhân
cách, năng khiếu và tài năng sáng tạo của học sinh, giúp cho các em có sự phát
triển toàn diện.
II. Kỹ
năng tham gia hỗ trợ phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường
Các nội dung giáo dục
pháp luật trong nhà trường được đưa vào chương trình giảng dạy chính khoá thông
qua các môn học. Việc giáo dục pháp luật trong nhà trường sẽ do các giáo viên,
giảng viên các môn học: Đạo đức, Giáo dục công dân, pháp luật, pháp luật đại
cương, pháp luật chuyên ngành giảng dạy theo chương trình giảng dạy do Bộ Giáo dục
và Đào tạo quy định.
Vì
vậy, các cán bộ, chiến sỹ quân đội nhân dân tham gia công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật trong nhà trường thông qua các hoạt động giáo dục ngoại khóa như
tuyên truyền trực tiếp cho giáo viên và học sinh tại trường học; phối hợp xây
dựng tài liệu giới thiệu pháp luật cho học sinh, sinh viên; phối hợp tổ chức
các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; tham gia nói chuyện chuyên đề về pháp luật,...
Để
thực hiện có hiệu quả việc tham gia hỗ trợ PBGDPL trong nhà trường, các cán bộ,
chiến sỹ có thể tham khảo một số kỹ năng cơ bản sau đây:
1. Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp
1.1. Khái
niệm phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp
Phổ biến, giáo
dục pháp luật trực tiếp là một hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật mà người nói trực tiếp nói với người nghe về
lĩnh vực, nội dung, chủ đề pháp luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho
người nghe, hướng cho người nghe hành động theo các chuẩn mực pháp luật.
1.2. Một số kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật trực
tiếp
1.2.1.
Tạo thiện cảm với người nghe
Việc tạo thiện cảm với người
nghe rất quan trọng.
Thiện cảm của báo cáo viên thể
hiện ở nhân thân, tâm thế và biểu hiện thái độ của người nói (như danh tiếng,
phẩm chất đạo đức, học hàm, học vị, chức vụ của người nói, dáng vẻ bề ngoài, y
phục, nét mặt, cử chỉ, phong thái, ngôn ngữ). Ngay từ ban đầu, báo
cáo viêncần phải tươi cười, có lời chào
mừng, lời chúc, có câu mở đầu thu hút sự chú ý, công bố thời gian, chương trình
làm việc rõ ràng, thoải mái[3]... để
gây được thiện cảm ban đầu đối với người nghe.
Thiện cảm còn được tạo ra bởi
khung cảnh của hội trường, khung cảnh của diễn đàn, cách thức tổ chức, bố trí,
sắp xếp chỗ ngồi, vị trí cho người nghe (dễ tiếp cận cho mọi đối tượng, thân
thiện với các nhóm dễ bị tổn thương như người khuyết tật, người già..., bố trí
bàn ghế, thời gian phù hợp…).
1.2.2.
Tạo sự hấp dẫn, gây ấn tượng trong khi
nói
Phổ biến, giáo dục pháp luật
trực tiếp cần tạo nên sự hấp dẫn, gây ấn tượng bằng giọng nói, điệu bộ, ngôn
ngữ. Giọng nói phải rõ ràng, mạch lạc, truyền cảm, tránh cách nói đều đều; âm
lượng phải thay đổi theo nội dung và nhấn mạnh vào những điểm quan trọng. Động
tác, cử chỉ cần phù hợp với nội dung và giọng nói; người nói cần đưa ra ví dụ,
số liệu, dẫn chứng để minh hoạ, đặt câu hỏi trao đổi thảo luận, gia tăng sự
tương tác, để tăng thêm sự chú ý của người nghe.
Kỹ năng lựa chọn, sử
dụng ngôn ngữ
a) Tính hội thoại
- Câu ngắn, câu đơn: người nghe
dễ nhớ, dễ hiểu; không ảnh hưởng đến việc thở lấy hơi của người nói.
- Câu nhiều mệnh đề nối tiếp nhau
với cấu trúc câu đơn giản: bài nói sôi nổi, có kịch tính, thu hút sự chú ý của
người nghe.
- Cấu trúc liên kết, tăng tiến,
quan hệ (không chỉ /mà còn; càng / ngày càng; mặc dù / nhưng...) để làm nổi
bật, nhấn mạnh vấn đề.
- Nên
đặt những thông tin quan trọng ở giữa câu: người nghe dễ dàngtiếp thu.
Ví dụ:Năm 2013, Quốc hội khóa XIII đã
thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam - đây là sự kiện chính trị- pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến
mới trong lịch sử lập hiến của nước ta.
b) Tính chính xác
Tính chính xác của lời nói trong thuyết trình thể hiện:
- Chính xác về phát âm.
- Chính xác về từ (từ phải rõ
nghĩa, đơn nghĩa; tránh dùng từ đa nghĩa,
diễn đạt không rõ ràng).
- Chính
xác về câu (câu đúng ngữ pháp, đúng ngữ nghĩa, tránh đặt câu tối nghĩa).
c) Tính phổ thông
- Được biểu hiện ở nội dung, cách
diễn đạt phù hợp trình độ người nghe và bối cảnh giao tiếp.
- Cần hạn chế việc sử dụng các từ
địa phương, các thuật ngữ pháp lý khó.
- Cần lấy ví dụ, các tình huống
thường xảy ra trong đời sống để minh hoạ.
- Không lạm dụng từ nước ngoài,
chỉ sử dụng từ nước ngoài khi tiếng Việt không có từ thay thế.
d) Tính truyền cảm
- Tính truyền cảm là đặc trưng
riêng của ngôn ngữ nói.
- Để
tạo ra tính
truyền cảm cho bài nói, có thể sử dụng các biện pháp tu từ: ẩn dụ, so sánh,
nhân hóa, từ láy, điệp từ, điệp ngữ, câu ẩn chủ ngữ, câu hỏi...
đ) Tránh dùng từ lấp khoảng
trống:
Từ lấp khoảng trống là những từ
hoặc cụm từ được liên tục lặp đi lặp lại trong lúc đối thoại: “vậy đấy”, “bạn
biết không”, “được chứ”, “à”, “ờ”, “à há”…
Loại bỏ những từ này giúp cuộc
đối thoại rõ ràng, chuyên nghiệp, thuyết phục hơn; tăng sức ảnh hưởng đến người
nghe bằng cách sử dụng ngôn từ có sức biểu cảm mạnh.
e) Thuyết
trình thông
qua 2 kênh: Kênh ngôn ngữ và kênh phi ngôn ngữ:
- Kênh
ngôn ngữ:
+ Dùng các
yếu tố như ngữ điệu, cường độ, âm lượng, nhịp độ lời nói và sự ngừng giọng…Ngữ
điệu: phong phú, biến hoá, có sự vận động của âm thanh, tránh cách nói đều đều,
đơn điệu, buồn tẻ.Cường độ: To hay nhỏ phụ thuộc vào khuôn khổ kích thước hội
trường, số lượng và đặc điểm người nghe.
+ Nhịp độ
lời nói: Nhanh hay chậm phụ thuộc vào nội dung bài thuyết trình, tình
huống, không gian và đối tượng nghe, khả
năng hoạt động của tư duy và sự chú ý của người nghe. Thông thường khi trình
bày bài nói, nhịp độ chậm hơn đọc khoảng 1,5 lần.
- Kênh phi ngôn ngữ:
Giao tiếp phi ngôn ngữ là cách
gửi và nhận thông điệp từ những gì mà chúng ta thể hiện ra bên ngoài trong quá
trình giao tiếp. Nó bao gồm tất cả những thao tác của từng bộ phận trên cơ thể
như: cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt, nụ cười, giọng
điệu, tư thế
đứng, di chuyển linh hoạt, cử động bàn tay…
Trong quá trình giao tiếp, lời
nói gồm 3 yếu tố chính là ngôn ngữ, cường độ giọng nói và phi ngôn ngữ. Trong
đó, ngôn ngữ góp phần nhỏ nhất với 7,01% tác động đến người nghe, 37,98% là
cường điệu giọng nói và phi ngôn ngữ
trở nên quan trọng nhất với 55,01%.
Kỹ năng khôi phục và tăng cường sự chú ý
Khi sự chú ý của người nghe bị giảm, báo cáo viên pháp luậtcần chủ động tìm cách
khôi phục và tăng cường sự chú ý của người nghe:
- Điều chỉnh giọng nói cho phù
hợp;
- Thay đổi tư thế đứng, nên rời
bục giảng và tiến gần về phía người nghe hoặc đi vào giữa hội trường tiếp tục
nói;
- Sử dụng các phương tiện trực
quan như sơ đồ, bản đồ, biểu băng, băng ghi hình…;
- Thay đổi trạng thái giao tiếp từ
độc thoại sang đối thoại bằng cách đặt câu hỏi và đề nghị người nghe trả lời;
- Chuyển sang nói bằng giọng hài
hước, sử dụng biện pháp gây cười như: chơi chữ, nói lái, kỹ thuật tương phản
hoặc kể một câu chuyện cười phù hợp để giảm bớt sự căng thẳng, khôi phục trở
lại sự chú ý.
1.2.3.
Trả lời
câu hỏi khi thực hiện đối thoại
Báo cáo viên pháp luậtcần phải trả lời câu hỏi của người nghe và tạo điều kiện, dành thời gian để hỏi về những
vấn đề họ quan tâm nhưng chưa được giải
thích hoặc giải thích chưa rõ.Quá trình trả lời câu hỏi của người nghe cần chú
ý một số vấn đề sau:
- Tôn trọng và chú ý lắng nghe ý
kiến của người hỏi.
- Nên thận trọng khi trả lời,
chắc chắn đáp án đúng mới trả lời, trường hợp câu hỏi khó chưa trả lời được
ngay thì đề nghị sẽ trả lời sau.
- Trả lời rõ ràng, đúng, trúng
yêu cầu của câu hỏi.
- Lập luận có cơ sở khoa học, có
căn cứ xác đáng, trên cơ sở các quy luật lôgíc và phương pháp chứng minh, lời
nói nhã nhặn, khiêm tốn, phù hợp với vị trí của mình trong quan hệ giao tiếp.
- Có
thể đặt tiếp những câu hỏi gợi ý để người nghe tự trả lời câu hỏi của mình.
- Nếu người nghe đưa ra nhiều câu
hỏi một lúc thì có thể tìm cách hạn chế
bớt phạm vi vấn đề của các câu hỏi.
- Đối với những câu hỏi không thuộc phạm vi của tập huấn, không có trách nhiệm trả
lời thì báo cáo viên pháp luậtcó thể từ chối hoặc chỉ dẫn
người hỏi tìm gặp những người có trách nhiệm để trả lời.
1.3. Các bước tiến hành một buổi phổ biến pháp luật trực
tiếp
b)
Tiến hành một buổi phổ biến pháp luật trực tiếp
Một buổi phổ biến pháp luật trực tiếp, gồm 03 phần: Mở đầu,
triển khai nội dung và kết luận.
- Mở đầu
Thông thường có hai cách mở đầu: Trực tiếp và gián tiếp
+ Mở đầu trực tiếp: Giới thiệu với người nghe về chủ đề và giới hạn phạm vi nội dung sẽ trình bày. Cách mở đầu này ngắn, gọn, giúp người nghe nhận biết ngay nội
dung chính.
+ Mở đầu gián tiếp: Nêu vấn đề
có liên quan tới chủ đề của bài
thuyết trình để dẫn dắt người nghe đến chủ đề chính. Ví dụ, báo cáo
viên có thể nhắc đến sự kiện được dư luận xã hội quan tâm, kể một câu chuyện
pháp luật, chiếu một đoạn phim, đề nghị trả lời câu hỏi hoặc đưa ra con số
thống kê tình hình vi phạm pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể (giao thông,
bạo lực học đường...), từ đó gắn chủ đề của buổi tuyên truyền.
- Triển khai nội dung (phổ biến những quy định pháp luật cụ
thể trong lĩnh vực nhất định)
+ Nội dung
pháp luật phù hợp với khả năng nhận thức và đặc điểm độ tuổi của học sinh, sinh
viên.
+ Đưa nhiều ví dụ, dẫn chứng minh họa, giúp người nghe dễ
hiểu, hình dung được việc áp dụng vào thực tế.
+ Nêu được hậu quả pháp lý của việc không tuân thủ,
chấp hành pháp luật.
- Kết luận
+ Tóm tắt những vấn đề cơ bản đã trình bày, nhấn mạnh lại chủ
đề hoặc thông điệp muốn truyền tải. Đồng thời, gợi mở những vấn đề cần tiếp tục
có sự nghiên cứu, tìm hiểu.
+ Đánh giá hiệu quả của buổi phổ biến pháp luật, giúp báo cáo
viên nhìn lại cách thức tổ chức, phương pháp và kỹ năng của bản thân để tiếp
tục trau dồi, nâng cao năng lực phổ biến pháp luật.
2. Kĩ
năng xây dựng tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường được thực
hiện thông qua nhiều loại tài liệu khác nhau, rất đa dạng, phong phú,
trực tiếp là nguồn tư liệu, bổ sung hỗ trợ cho các hoạt động giáo dục pháp luật
trong nhà trường dưới cả 2 dạng hình thức là chính khoá và ngoại khoá. Những
tài liệu này ngoài việc bổ sung những kiến thức pháp luật mới, còn góp phần
trang bị kĩ năng, nghiệp vụ phổ biến cho người làm công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật nói chung và cho đội ngũ giáo viên, học sinh, sinh viên nói riêng.
Các loại tài liệu này chủ yếu thể hiện dưới các dạng như sách pháp luật, cẩm
nang pháp luật, truyện tranh, tờ gấp pháp luật, infographic, tiểu phẩm/ câu chuyện
pháp luật,...
2.1. Kỹ năng biên soạn sách, cẩm nang pháp luật
Sách
pháp luật, cẩm nang pháp luật (gọi chung là sách pháp luật) là một loại tài
liệu tuyên truyền, phổ biến nội dung, kiến thức pháp luật thiết yếu trong các
lĩnh vực của đời sống, qua đó, giúp người đọc chủ động tìm hiểu, nghiên cứu,
tiếp cận kiến thức pháp luật qua việc đọc sách, nghiên cứu sách để đáp ứng nhu
cầu của bản thân.
Tổ chức biên soạn sách pháp luật
Việc
tổ chức biên soạn sách pháp luật cần theo các bước cơ bản sau:
-
Bước 1: Xây dựng kế hoạch biên soạn sách
-
Bước 2: Biên soạn theo kế hoạch biên
soạn và phân công
-
Bước 3: Biên tập
-
Bước 4: Thẩm định
-
Bước 5: Tổ chức in ấn, phát hành sách
Kỹ năng biên soạn nội dung sách pháp luật phổ
thông
Sách
pháp luật phổ thông gồm: Sổ tay hỏi đáp pháp luật, sổ tay hướng dẫn tìm hiểu
pháp luật, sổ tay pháp luật bỏ túi. Với mỗi loại sách/sổ tay có yêu cầu kỹ năng
biên soạn khác nhau, cụ thể như sau:
a) Sổ tay hỏi đáp pháp luật
Sổ
tay hỏi đáp pháp luật được xây dựng để tuyên truyền, phổ biến về các văn bản
pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Nội dung sổ tay hỏi
đáp pháp luật có thể là nội dung pháp luật trong một lĩnh vực cụ thể như an
toàn giao thông, phòng, chống bạo lực học đường, phòng cháy chữa cháy… hoặc
trong nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến các quan hệ xã hội thường gặp
trong đời sống hàng ngày.
Kỹ
năng biên soạn sổ tay hỏi đáp pháp luật chủ yếu dựa trên phương pháp đặt câu
hỏi và cách trả lời câu hỏi. Có các dạng câu hỏi sau:
-
Câu hỏi trực tiếp: Là loại câu hỏi trực tiếp vào nội dung vấn đề. Câu hỏi trực
tiếp thường dùng trong trường hợp cần giải thích các khái niệm, các thuật ngữ
pháp lý, hoặc các vấn đề có tính lý thuyết.
Ví dụ: “Hành vi nào bị nghiêm
cấm khi tham gia giao thông?”
-
Câu hỏi tình huống: thông qua một tình huống, một sự việc để hỏi về một vấn
đề.
Ví dụ: A
năm nay 17 tuổi, A điều khiển xe máy có dung tích xi lanh trên 120 cm3”.
Hỏi hành vi của A có đúng quy định của pháp luật không?
Đối
với câu hỏi loại này câu trả lời cần phân tích sự việc, đối chiếu với quy định
của pháp luật sau đó hướng dẫn cách giải quyết cụ thể.
Yêu
cầu, đối với câu hỏi và câu trả lời: Câu hỏi và đáp án trả lời
phải đảm bảo yêu cầu ngắn gọn, thiết thực, dễ hiểutheo từng vấn đề đúng quy
định của pháp luật. Đối với tình huống pháp luật cần có nội dung rõ ràng, rõ
vấn đề pháp lý cần giải quyết qua tình huống; cách giải quyết tình huống phải
logic, theo quy định của pháp luật hiện hành.
b) Sổ tay giới thiệu pháp luật
Sổ
tay giới thiệu pháp luật thường sử dụng để tuyên truyền, phổ biến các văn bản
pháp luật (luật, bộ luật, pháp lệnh, nghị định) mới ban hành, mới sửa đổi, bổ
sung. Sổ tay được viết dưới dạng các chuyên đề chuyên sâu.
- Bố cục sổ tay gồm 03 phần:
+
Giới thiệu chung về nội dung của cuốn Sổ tay; tình hình thực tế liên quan trực
tiếp đến các vấn đề thuộc nội dung sổ tay; Giải thích các khái niệm, thuật ngữ
nêu ra trong nội dung sổ tay.
+
Các chuyên đề về quy định của pháp luật về vấn đề nêu trong nội dung sổ tay;
các điểm mới, điểm sửa đổi, bổ sung (nếu có) so với các quy định pháp luật
trước đây; hướng dẫn thực hiện.
+
Kết luận.
Tất
cả các nội dung trong sổ tay đều phải viết thật ngắn gọn, cô đọng, rõ ràng mạch
lạc dễ hiểu để sổ tay không quá dài và quá nhiều chữ.
2.2. Biên soạn tờ gấp/infograpic giới thiệu pháp
luật
Tờ gấp/infographic
giới thiệupháp luật là một trong những hình thức tuyên truyền pháp luật hiệu quả,
bởi tính cô đọng, dễ hiểu, đơn giản, bắt mắt.
Tờ gấp/infographic giới thiệupháp
luật có thể được trình bày dưới các dạng sau:
+
Hỏi - đáp trực tiếp.
+ Thông qua các tình huống pháp luật.
+ Mô phỏng bằng sơ đồ (thường áp dụng đối với các quy trình, thủ tục
luật định).
Thiết
kế tờ gấp/infograpic giới thiệu pháp luật cho học sinh,
sinh viên cần sinh động, có thể mời họa sĩ để thiết kế, có hình ảnh hoạt hình
hoặc thực tiễn để minh họa.
Sau khi
xây dựng xong tờ gấp/infograpic
giới thiệu pháp luật, có thể
đăng tải trên website của các trường học, trên các trang mạng xã hội, … hoặc
in, phát cho các học sinh, sinh viên khai thác, sử dụng.
2.3. Biên soạn câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm
pháp luật
Câu
chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật là hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
hiệu quả đối với học sinh, sinh viên, các em có thể áp dụng vào thực tiễn khi
xảy ra tình huống tương tự. Một câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật không
nên quá dài, chỉ nên từ 1 - 3 trang A4 là phù hợp.
Yêu
cầu đối với câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật
-
Đặt tên câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật
Tên
câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luậtphải cô đọng, thể hiện chủ đề nội dung
tác phẩm; tránh đặt tên khó hiểu, dài dòng.
-
Yêu cầu về nội dung
Phải
phản ánh thực trạng của đời sống pháp luật, về một sự việc có thật, gắn với đời
sống hàng ngày hoặc định hướng, gợi mở cho người đọc quan tâm, tìm hiểu và áp
dụng pháp luật.
-
Hình thức thể hiện
Phải
ngắn gọn, diễn đạt bằng một ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ. Câu chuyện pháp
luật nên được thể hiện dưới hình thức văn kể, đơn giản, theo trình tự diễn biến
câu chuyện. Câu chuyện pháp luật chủ yếu được sử dụng cho hình thức tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên hệ thống phát thanh, truyền thanh.
Tiểu phẩm pháp luật nên được thể hiện dưới hình thức đối thoại, có bối cảnh,
cần nhiều người thể hiện hoặc cần được thể hiện dưới nhiều vai (nhân vật). Tiểu
phẩm pháp luật thường được sử dụng cho hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
qua sân khấu, truyền hình, phát thanh.
Người
làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hoàn toàn có thể sử dụng câu chuyện
pháp luật để xây dựng thành tiểu phẩm pháp luật và ngược lại, từ tiểu phẩm pháp
luật có thể cô đọng lại thành câu chuyện pháp luật để sử dụng cho công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật.
3.
Kĩ năng trong tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật
Việc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trong nhà
trường luôn nhận được sự tham gia, hưởng ứng sôi nổi của học sinh, sinh viên.
Có một số hình thức tổ chức thi tìm hiểu pháp luật như sau:
a)
Thi nói
Là hình thức thi mà thí
sinh phải thể hiện sự hiểu biết của mình
bằng việc trình bày, thuyết trình, đưa ra quan điểm về chủ đề
pháp luật nhất định. Việc đánh giá
trình độ hiểu biết pháp luật, khả năng diễn đạt của người dự thi thông qua Ban Giám khảo cuộc thi. Trong thi nói có ba loại hình
thi: thi hùng biện, thi trả lời câu hỏi/tình huống trực tiếp; thi biểu diễn tiểu phẩm kịch bản.
- Thi hùng biện là hình thức thi mà thí sinh phải trình
bày nội dung pháp luật theo chủ đề nhất định. Việc thi hùng biện thể hiện khả
năng diễn thuyết, lập luận, mức độ am hiểu pháp luật của thí sinh.
- Thi trả
lời câu hỏi/tình huống trực tiếplà hình
thức thi mà người thi phải trực tiếp trả lời những câu hỏi/tình
huốngvề lĩnh vực pháp luật do Ban tổ
chức hoặc Ban Giám khảo đưa ra.
- Thi biểu diễn tiểu phẩm là hình
thức thi mà người dự thi phải xây dựng kịch
bản về sự kiện
pháp lý xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, cách xử lý những vấn đề đó
trên cơ sở các quy định pháp luật. Người
thi phải đóng vai, diễn xuất thể hiện kịch bản bằng hình thức sân khấu. Thi biểu diễn tiểu phẩm có
khả năng lôi cuốn người xem, tạo sự hấp dẫn, tránh khô khan và dễ truyền tải
đến người xem.
b) Thi viết
Là hình
thức thi mà người tham gia thi phải trả lời các câu hỏi của Ban Tổ chức bằng
cách viết lên giấy (Bài dự thi) những hiểu biết của mình về nội dung pháp luật
theo đề bài.
Hình
thức thi này có thể áp dụng ở những phạm vi và đối tượng khác nhau. Nhiều người
có thể cùng tham dự, cùng làm bài thi. Người dự thi có điều kiện nghiên cứu văn
bản, thảo luận, bàn bạc, thống nhất nội dung trả lời.
c)
Thi trắc nghiệm
Là hình thức thi mà Ban Tổ chức đưa ra câu hỏi và một số đáp án, người dự
thi trả lời bằng cách lựa chọn phương án trả lời đúng.
Thi trắc nghiệm có ba
loại hình thi gồm: trắc nghiệm trên giấy, trắc nghiệm điện tử và trắc nghiệm
trực tiếp trên sân khấu.
- Trắc
nghiệm trên giấy: Là hình thức thi mà Ban tổ chức cuộc thi in sẵn câu hỏi và
các phương án trả lời trên giấy và phát tới người dự thi.
- Trắc nghiệm điện
tử: Là hình thức thi sử dụng công nghệ thông tin (thông qua mạng internet hoặc mạng điện thoại), người dự
thi nhận câu hỏi và gửi đáp án thông qua mạng internet, Báo, Đài phát thanh, Đài truyền hình….
- Trắc
nghiệm trực tiếp trên sân khấu: Là hình thức thi mà người dự thi trả lời câu
hỏi bằng cách lựa chọn phương án đúng trong các phương án do Ban tổ chức đưa ra
sau khi nghe câu hỏi (hoặc xem tình huống) ngay tại trên sân khấu.
Mỗi hình thức thi có ưu
điểm và nhược điểm riêng, Ban tổ chức cuộc thi cần căn cứ vào nội dung thi, đối
tượng hướng tới, kinh phí, điều kiện để quyết định áp dụng hình thức thi nào
cho phù hợp. Một cuộc thi cũng có thể sử dụng một, một số hoặc tất cả các hình
thức thi nêu trên.
CHUYÊN
ĐỀ 13
Phương pháp tổ chức tập huấn theo phương pháp
tích cực (trao đổi hai chiều, lấy người học làm trung tâm...)
Việc tổ chức tập huấn theo phương pháp tích cực (trao đổi
hai chiều, lấy người học làm trung tâm ...) là một kỹ năng mới, được sử dụng
nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của người được tập huấn; đáp ứng nhu cầu
tập huấn. Đồng thời rèn luyện thái độ giải quyết vấn đề trong thực tiễn, kích
thích sự tham gia tích cực của học viên, tạo ý tưởng và khám phá các cách giải
quyết mới...
1. Phương
pháp làm mẫu: được sử dụng nhiều để hướng dẫn các thao tác kỹ
năng thực hành.
1.1. Các bước thực hiện phương pháp làm mẫu:
Bước 1: Trình
diễn ở tốc độ tiêu chuẩn
Bước này nhằm giới thiệu kỹ năng mà người
được tập huấn sắp học đồng thời giúp học viên hình dung kết quả cuối cùng mà họ
cần đạt sau bài học.
Cầntrình diễn kỹ năng mẫu chính
xác, với tốc độ tiêu chuẩn, tạo ra kết quả tốt nhất về kỹ năng đó để người được
tập huấn quan sát, ghi nhớ và đánh giá kết quả làm mẫu.
Bước 2: Trình
diễn chậm kết hợp giảng giải
Giúp người được tập huấn hiểu rõ yêu cầu và bản chất
của từng động tác nhỏ trong kỹ năng, những hệ thống logic phía sau mỗi động
tác. Trong bước này người được tập huấn lắng nghe và quan sát kỹ từng động tác,
ghi nhớ động tác và bản chất của các thao tác.
Bước 3: Người
được tập huấn ghi nhớ cách làm
Người được tập huấn phải mô tả lại quá trình thao tác
và giải thích tại sao phải thực hiện như vậy. BCVcó thể thao
tác theo mô tả của học viên, hỏi lại khi học viên mô tả chưa đủ hoặc chưa chính
xác.
Bước 4: Thực
hành độc lập
Chọn một số người được tập huấn giỏi làm thực hành mẫu,
áp dụng kỹ năng vừa được học, một mặt giúp người được tập huấn sẽ được trải
nghiệm, điều chỉnhlại các thao tác chưa phù hợp...; mặt khác những người này sẽ
hỗ trợ những người được tập huấn khác trong thực hành.
Bước 5: Rèn
luyện kỹ năng cho học viên
Chia người được tập huấn thành các nhóm thực hành nhỏ với
sự hỗ trợ của những người đã được thực hành tại Bước 4 trong mỗi nhóm.
Thời gian cho
bước này ít nhất phải chiếm 50% tổng thời gian của cả thời gian tập huấn. Cần
khuyến khích để người được tập huấn tích cực giúp đỡ nhau học tập. Người tập
huấnhạn chế can thiệp, không làm hộ người được tập huấn.
Nhưng cần có mặt để giải đáp những thắc mắc mà người được tập huấn chưa trả lời
được.
Bước 6: Đánh
giá kết quả học tập và kết thúc bài học
Bước này nhằm củng cố thêm kỹ năng của người được tập
huấn sau khi thực hành. Người tập huấncó thể yêu
cầu một số người được tập huấn trình diễn lại kỹ năng, trả lời thắc mắc của học
viên xuất hiện trong khi thực hành và nhấn mạnh lại một vài điểm quan trọng về
kỹ năng mà học viên cần chú ý.
1.2. Ưu điểm, nhược điểm của phương pháp
- Phương pháp làm mẫu có khả năng kết hợp sử dụng
nhiều giác quan của người học như nghe nhìn, giúp cho việc ghi nhớ;Tiến trình
học gắn liền với thực hành giúp rèn luyện kỹ năng tốt.
- Phương pháp này sẽ khó thực hiện với nhóm quá đông và
việc làm mẫu cần khá nhiều thời gian và vật liệu để tiến hành các bước một cách
chu đáo.
2. Phương
pháp kể chuyện
2.1. Mục đích
sử dụng:
Phương pháp kể
chuyện thường được dùng để đạt mục tiêu thay đổi không khí, thu hút sự tập
trung của người được tập huấn về một vấn đề nào đó.
Phương pháp kể chuyện cũng rất hiệu quả khi sử dụng để
tập huấn những chủ đề liên quan đến quản lý công việc và giao tiếp như: kỹ năng
quản lý, giải quyết vấn đề , tình huống xung đột, xây dựng nhóm làm việc.
2.2. Xây dựng chuẩn bị:
- Người
tập huấn dùng những câu
chuyện có thật để đưa vào tình huống tập huấn. Câu chuyện đưa ra trong lớp học
có thể tổng hợp từ một số câu chuyện nhỏ, sảy ra ở những thời điểm và những nơi
khác nhau.
- Câu chuyện
phải có cốt chuyện[4], hay, có tình tiết với những mâu
thuẫn, tình huống cụ thể và phù hợp với mục tiêu học tập.
Khi định dùng
phương pháp kể chuyện, người tập huấn phải chuẩn bị kỹ câu chuyện định kể
trong đó có đầy đủ những yếu tố nêu trên. Trong trường hợp câu chuyện do người
được tập huấn kể, người tập huấnvà những người được tập huấn khác có thể hỏi thêm để người kể
cung cấp các chi tiết đó.
2.3. Kể chuyện:
Kể
chuyện có thể coi là một nghệ thuật sử dụng giọng nói. Cùng một lúc người kể
phải thể hiện giọng nói của tất cảc các nhân vật trong chuyện; phải thể hiện
diễn biến nội tâm nhân vật thong qua giọng nói của họ. Nhân vật buồn vui hay
giận hờn , người kể cần thể hiện được điều đó. Nhân vật nói nhanh hay nói chậm;
giọng thanh hay giọng khan… đều là những thử thách mà người kể chuyện phải cố
gắng. Mức độ thể hiện chính xác cũng là mức độ thành công ở phần kể chuyện. Khi
thực sự xúc động bởi câu chuyện thì người kể sẽ thể hiện câu chuyện hay nhất.
2.4. Phân tích và rút ra bài học:
Mục tiêu của
phương pháp ngày không phải là kể một câu chuyện hay mà là qua việc kể chuyện
đó, người được tập huấn học được gì qua câu chuyện đó. Người tập
huấncó thể hướng dẫn học
viên phân tích câu chuyện tùy theo mức độ cảm nhận của người được tập huấn sau
khi nghe chuyện và khả năng linh hoạt của người tập huấn.
Nếu phần kể chuyện chưa gây được ấn tượng, cảm xúc mạnh cho người được
tập huấn, phần phân tích nên bắt đầu từ việc nhắc lại tên các nhân vật, diễn
biến hoạt động của câu chuyện đến diễn biến tâm lý của nhân vật và của người
nghe. Sau đó phân tích những vấn đề đưa ra trong câu chuyện; những điều chưa
hợp lý, xấu và tốt; nguyên nhân và hậu quả của những vấn đề đó. Và cuối cùng
đưa ra bài học kết luận cho nhân vật trong chuyện gắn với nội dung cần truyền
tải.
Nếu phần kể
chuyện gây được ấn tượng mạnh cho người được tập huấn, phần phân tích có thể
bắt đầu từ cảm xúc chung của người nghe: buồn , vui, giận…và các nguyên nhân
của những cảm xúc đó để đi đến kết luận vấn đề đưa ra trong câu chuyện, và rút
ra bài học.
2.5. Ưu điểm, nhược điểm của phương pháp:
Phương pháp
kể chuyện rất dễ sử dụng lại đạt hiệu quả cao trong việc tạo ra ấn tượng, cảm
xúc trong người được tập huấn. Vấn đề được đưa ra dưới dạng câu chuyện logic
giúp người được tập huấn dễ nhớ và nhớ lâu. Tuy nhiên phương pháp cũng đòi hỏi
người người tập huấnphải rèn luyện kỹ năng xây dựng câu chuyện phù hợp với mục
đích tập huấn và khả năng kể chuyện tốt.
3. Phương pháp làm việc nhóm
Phương pháp này giúp học viên làm việc tập trung và có
định hướng; tăng cường sự liên kết và hợp tác giữa các học viên.
*Các
bước thực hiện:
- Bước 1: Người tập huấn giao nhiệm vụ
(nhiệm vụ chung hoặc nhiệm vụ từng nhóm).
- Bước 2: Chia nhóm thảo luận (có thể
chia nhóm theo cơ quan, theo lĩnh vực chuyên môn, theo sở thích, theo vị trí
ngồi trong lớp, theo giới tính...).
- Bước 3: Các nhóm thảo luận theo
nhiệm vụ được giao.
- Bước 4: Các nhóm trình bày kết quả
thảo luận.
- Bước 5: Giảng viên tổng hợp kết quả
thảo luận.
* Chú ý:
Thực hiện phương pháp này cần có sự phân công rõ ràng:
+ Nhiệm vụ: vấn đề thảo luận, thư ký
nhóm, trưởng nhóm
+ Thời gian thảo luận, thời gian trình
bày kết quả nhóm;
+ Vị trí các nhóm thảo luận
+ Chia nhóm phù hợp với quy mô lớp
học. Tốt nhất mỗi nhóm từ 5-7 học viên vì số lẻ là số cần thiết để đi đến thống
nhất theo đa số; cách chia nhóm cần đơn giản, thuận tiện.
4.
Phương pháp đóng vai
Là phương pháp trong đó người được tập huấn diễn tả
thái độ của người khác ở những tình huống cho trước, vai diễn được các thành
viên quán sát, ghi chép lại để nhận xét và rèn luyện thái độ giao tiếp
Phương pháp này được thực hiện nhằm khuyến khích khả
năng giao tiếp, tạo điều kiện liên hệ với những tình huống nghề nghiệp cụ thể,
luyện cách xử lý tình huống.
* Ưu điểm của phương pháp đóng vai
- Làm cho việc hình dung và thảo luận
vấn đề được sống động, dễ dạng
- Học nhanh, sâu và vững các kiến
thức, kỹ năng
- Làm học viên năng động trong mọi
tình huống
CHUYÊN
ĐỀ 14
Kỹ năng truyền thông, nắm bắt, định hướng dư luận xã hội và tuyên truyền văn bản quy phạm pháp luật
ngay từ khâu dự thảo
I.
Một số vấn đề chung
1.
Mục đích, ý nghĩa của truyền thông dự thảo chính sách pháp luật trong quá trình
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Nhằm thể chế hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng
về chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng"; các định hướng lớn về công tác PBGDPL tại Kết
luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư; các nhiệm vụ, giải pháp tại
Quyết định số 1521/QĐ-TTg ngày 06/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định
số 21/2021/QĐ-TTg ngày 21/6/2021 quy định về thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn
của Hội đồng phối hợp PBGDPL, ngày 30/3/2022 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 407/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tổ chức chức truyền thông chính sách
có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
giai đoạn 2022 – 2027”. Đây là những cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng trong
tổ chức truyền thông dự thảo chính sách pháp luật trong quá trình xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Hoạt động này nhằm mục đích, ý nghĩa sau:
1.1. Đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ
thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh
nghiệp trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
hiện nay và yêu cầu đổi mới công tác PBGDPL - khâu đầu tiên của quá trình tổ
chức thi hành, đưa pháp luật vào cuộc sống, trong đó bảo đảm gắn kết chặt chẽ với công tác xây dựng,hoàn thiện pháp luật.
1.2. Tạo điều kiện cho người dân tham gia xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật thông qua việc trao đổi, đề xuất, kiến nghị với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền các nội dung cần sửa đổi, bổ sung, thay thế trong
dự thảo VBQPPL nhằm đảm bảo thực hiện quyền
làm chủ của người dân trong tham gia xây dựng pháp luật, qua đó, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường đồng thuận xã hội; góp phần củng cố,
xây dựng niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước, thực hiện thành công Nghị
quyết Đại hội Đảng XIII về phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền
làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân.
1.3. Bảo đảm thực hiện quyền
con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013, trong đó có quyền
tiếp cận thông tin pháp luật, tìm hiểu, học tập pháp luật ngay từ trong giai
đoạn soạn thảo VBQPPL theo quy định tại Điều 2 Luật PBGDPL năm 2012, Điều 3
Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.
1.4. Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015 về lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động về dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật, qua đó đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong xây dựng, hoàn
thiện pháp luật, nâng cao chất lượng, tính khả thi của văn bản, đồng thời tạo
sự đồng thuận của dư luận trong thực thi văn bản khi được thông qua/ban hành.
1.5. Đa dạng hóa, đổi mới các hình thức PBGDPL đáp ứng
yêu cầu thực tiễn về PBGDPL, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL.
2. Xác định dự thảo chính sách, pháp luật cần tập trung
truyền thông
Có 02 cách thức lựa chọn nội dung truyền thông dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật:
2.1. Xác định các dự thảo chính sách có tác động lớn đến xã hội trong
quá trình xây dựng VBQPPL
Đây là cách thực hiện đang được một số bộ, ngành, địa
phương sử dụng để truyền thông về dự thảo chính sách, pháp luật đang trong quá
trình xây dựng VBQPPL như: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tổ chức truyền
thông, phổ biến dự thảo Bộ luật Lao động đã lựa chọn một số chính sách quan
trọng, trong đó có 02 chính sách là: (i) Tuổi nghỉ hưu của người lao động và
(ii) Về mở rộng khung thỏa thuận thời giờ làm thêm tối đa…. Các nội dung chính
sách này đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp có trách nhiệm của cán bộ, nhân
dân. Qua đó cho thấy cách thức này hiệu quả, thiết thực vì lựa chọn được vấn đề
liên quan mật thiết với quyền và lợi ích chính đáng của cán bộ, Nhân dân.
Trên cơ sở Quyết định số 407/QĐ-TTg, phạm vi các dự thảo
chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng VBQPPL được xác định trên cơ sở đáp ứng 4 tiêu chí:
(i) Là các chính sách được ban hành trong các VBQPPL mà
Luật Ban hành VBQPPL quy định phải lập đề nghị xây dựng VBQPPL trước khi tiến
hành soạn thảo, trừ các nội dung thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp
luật;
(ii) Tác động trực tiếp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ của người dân, tổ chức, doanh nghiệp;
(iii) Được xác định là những vấn đề khó, nhạy cảm, dư
luận xã hội quan tâm hoặc có nhiều ý kiến khác nhau về nội dung dự thảo chính
sách;
(iv) Chính sách có tác động trên phạm vi cả nước hoặc
trên phạm vi toàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Thời điểm truyền thông
dự thảo chính sách được thực hiện ngay từ khi cơ quan chủ trì soạn thảo VBQPPL
lấy ý kiến đối với đề nghị xây dựng VBQPPL theo quy định của Luật Ban hành
VBQPPL.
2.2. Toàn văn nội dung dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Hiện cách thức này được sử dụng để truyền thông, lấy ý
kiến đối tượng chịu sự tác động trong quá trình soạn thảo thông qua việc đăng
tải trên Cổng Thông tin điện tử của Quốc hội, Chính phủ và Cổng Thông tin điện
tử của cơ quan chủ trì soạn thảo theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015. Tuy nhiên, hiệu quả của cách thức này không cao, nhiều
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật không có người dân góp ý khi đăng tải trên
Cổng Thông tin điện tử.
II.
Một số kỹ năng truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật trong quá trình xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật
1.
Các hình thức truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật
1.1. Xây dựng tài liệu truyền thông dự thảo chính sách
1.2. Truyền thông trên báo chí (Báo hình, báo nói, báo
viết, báo điện tử)
1.3. Kỹ năng tổ chức diễn đàn, đối thoại lấy ý kiến về dự
thảo chính sách, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
1.4. Truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật tại địa
bàn cơ sở
1.5. Truyền thông qua mạng xã hội và hình thức khác.
2.
Xây dựng Kế hoạch truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật
Để xây dựng Kế hoạch truyền thông dự thảo chính sách,
pháp luật cần thực hiện các bước sau đây:
2.1.
Bước 1: Xác định mục tiêu truyền thông
Việc xác định mục tiêu truyền thông cần
áp dụng mô hình SMART: Specific – cụ thể; Measurable – có thể đo lường được; Achievable – có thể đạt được; Realistic – thực tế; Time-focused
– tập trung vào yếu tố thời gian
Các mục tiêu sẽ
giúp chúng ta đo lường hiệu quả và có cơ sở để đánh giá hoạt động truyền thông
của mình. Tuy nhiên, có một yêu cầu bắt buộc đó là mục tiêu trong kế hoạch bắt
buộc phải đáp ứng 2 tiêu chí là có thể đạt được và thực tế.
2.2. Bước 2: Lựa
chọn và xác định dự thảo chính sách, pháp luật trong quá trình xây dựng VBQPPL.
Trên cơ sở chương
trình/kế hoạch xây dựng dự án, dự thảo VBQPPL của Quốc hội, Chính phủ, địa
phương hàng năm; căn cứ nội dung, tính chất dự thảo chính sách và yêu cầu thực
tiễn, các cơ quan, đơn vị cần chủ động lựa chọn, xác định các dự thảo chính
sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng VBQPPL theo các tiêu
chí được xác định tại Quyết định số 407/QĐ-TTg để tập trung tổ chức truyền
thông.
2.3.
Bước 3: Xác định đối tượng chính
Đối tượng chính là đối tượng chịu tác
động của VBQPPL. Việc xác định được đối tượng chính sẽ giúp việc truyền thông
dự thảo chính sách, pháp luật đạt hiệu quả, tiết kiệm chi phí và đưa ra những
kế hoạch phù hợp.
2.4.
Bước 3: Xác định thông điệp truyền tải
Thông
điệp giúp triển khai hiệu quả kế hoạch truyền thông của mình. Để tạo nên một
thông điệp hay cần chú ý:
- Truyền tải các công việc đã thực hiện và vì sao lại
thực hiện công việc này.
-
Truyền tải những chính sách, nội dung mới trong dự thảo VBQPPL.
-
Phù hợp với mục tiêu mà đề ra.
-
Thể hiện đầy đủ những vấn đề muốn truyền thông đến công chúng.
2.5. Bước 4: Xác định hình thức truyền thông
phù hợp
Cần
chọn hình thức truyền thông phù hợp, thu hút được nhiều đối tượng chính tham
gia. Trong mỗi hình thức truyền thông có thể chọn ra 1 loại hình phù hợp. Chẳng
hạn, đối với hình thức truyền thông trên báo chí, có thể lựa chọn loại hình
truyền thông trên báo giấy, báo điện tử, trang thông tin điện tử hoặc trên
truyền thanh, truyền hình….[5].
Tùy
vào ngân sách, mục tiêu và tính chất của truyền thông, có thể tích hợp lựa chọn
nhiều hình thức truyền thông. Tuy nhiên luôn chú ý đến tính hiệu quả vì chỉ cần
chọn lựa sai hình thức thì cho dù thông điệp hay chất lượng dự thảo chính sách,
pháp luật có tốt nhưng hoạt động truyền thông sẽ không đạt được hiệu quả như
mong đợi.
2.6. Bước 6: Xây dựng chiến thuật truyền thông
chi tiết và ngân sách
Với
bước này, những hoạt động chi tiết sẽ được miêu tả và tính đến. Xây dựng kế hoạch truyền thông chi tiết, trong đó xác định
thời điểm truyền thông, các hoạt động cần thực hiện, dự toán kinh phí thực
hiện.
2.7. Bước 7: Đo lường và báo cáo
Đây
là bước cuối của kế hoạch truyền thông nhằm đo lường, đánh giá hiệu quả hoạt
động truyền thông về dự thảo chính sách, pháp luật so với mục tiêu đã đề ra.
Đánh giá và rút kinh nghiệm cho các hoạt động truyền thông tiếp theo. Những
thước đo đánh giá một kế hoạch truyền thông hiệu quả là:
-
Tần suất xuất hiện trên báo.
-
Tương tác với công chúng sau hoạt động truyền thông.
-
Phản hồi của công chúng về hoạt động truyền thông.
- Ý kiến góp ý, phản biện của công chúng về dự thảo chính
sách, pháp luật
-
Chất lượng của VBQPPL
- Đo
lường số liệu tương tác với hoạt động truyền thông.
3.
Xây dựng tài liệu truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật
3.1. Yêu cầu chung của Tài liệu truyền thông dự thảo
chính sách, pháp luật
Để hoạt động truyền thông dự thảo
chính sách đạt hiệu quả, cơ quan chủ trì soạn thảo VBQPPL xây dựng tài liệu,
nội dung truyền thông dự thảo chính sách bảo đảm đầy đủ, ngắn gọn, dễ hiểu,
hình thức phong phú, sinh động. Tài liệu truyền thông dự thảo chính sách, pháp
luật gồm các nội dung chủ yếu sau đây: Sự cần thiết ban hành chính sách; mục
đích, quan điểm xây dựng chính sách; phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của
chính sách; Nội dung cơ bản của chính sách; Nội dung mới hoặc sửa đổi, bổ sung,
hủy bỏ, bãi bỏ so với quy định hiện hành về quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ
của người dân, tổ chức, doanh nghiệp; chú trọng các vấn đề khó, có nhiều ý kiến
khác nhau; Các nội dung khác cần thông tin rộng rãi đến người dân, tổ chức,
doanh nghiệp và toàn xã hội (nếu có).
3.2. Xu hướng sử dụng video/hình ảnh trong truyền thông dự thảo chính sách,
pháp luật
Tài liệu truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật có
thể được truyền tải thông qua một số hình thức sau: Infograpphic (sử dụng hình
ảnh trong truyền thông chính sách); Bản tin truyền thông chính sách, pháp luật
phát trên các phương tiện thông tin đại chính (báo hình, báo nói), Cổng/Trang
Thông tin điện tử; Video clip truyền thông. Xu
hướng truyền thông nói chung và truyền thông về dự thảo chính sách, pháp luật
nói riêng hiện nay là sử dụng video/hình ảnh và đã tỏ ra hiệu quả hơn hẳn
truyền thông theo phương thức truyền thống bằng những bài viết, vì các lý do
sau đây:
+ Thu hút được sự chú ý
Hầu hết mỗi người sẽ có một khoảng thời
gian tập trung nhất định, trong giai đoạn hiện nay, thông tin rất đa dạng nên mỗi
người phải lựa chọn thông tin để chú ý. Nếu bài truyền thông có video/hình ảnh
thì sẽ tạo được sự chú ý của họ. Đó là
một cách tạo động lực tuyệt vời để người xem có thể tìm hiểu sơ bộ rồi họ sẽ
tìm hiểu nội dung chi tiết hơn.
Ví dụ về truyền thông về dự
thảo Bộ Luật Lao động (sửa đổi)
+ Tập trung vào nội dung cơ bản của dự thảo chính
sách, pháp luật
Dù chất lượng nội dung bài viết tốt,
nhưng nếu có những hình ảnh minh họa phù hợp, kèm theo những câu ngắn gọn, dễ
hiểu liên quan đến chính sách, nội dung chính của dự thảo VBQPPL sẽ tạo sự hấp
dẫn, dễ hiểu, gây chú ý. Hình ảnh làm cho bài viết được sôi nổi và tạo cảm hứng
hơn.
Ví dụ về truyền thông dự thảo Luật
Đất đai sửa đổi (qua video)
4.
Kỹ năng tổ chức diễn đàn, đối thoại lấy ý kiến về dự thảo chính sách, pháp luật
4.1.
Hình thức tổ chức diễn đàn, đối thoại
Đây là hình thức tổ chức sự kiện truyền thông được nhiều
bộ, ngành, địa phương tổ chức. Hình thức này gồm 02 loại hình như sau:
4.1.1. Diễn đàn, đối
thoại trực tiếp
Tổ chức diễn đàn, đối thoại trực
tiếp lấy ý kiến dự thảo VBQPPL là một hình thức của phổ biến pháp luật trực
tiếp, tương tự tổ chức hội nghị, hội thảo lấy ý kiến. Ở đó, người chủ trì diễn
đàn, báo cáo viên/chuyên gia về pháp luật và đại biểu tham dự diễn đàn
được trao đổi, thảo luận, đối thoại trực tiếp.
Ưu điểm của hình thức này là linh hoạt, có thể tiến hành
ở nhiều nơi, với số lượng người nghe khác nhau. Có thể tổ chức tập trung cho
nhiều người tham dự để truyền thông; tạo điều kiện tương tác, giao lưu, chia sẻ
về những vấn đề, nội dung của dự thảo văn bản. Tuy nhiên, hình thức tổ chức
diễn đàn, đối thoại trực tiếp có hạn chế là chưa thực sự thuận tiện cho đối
tượng tham dự diễn đàn do phải đến địa điểm chung, có thể gây tốn kém chi phí
đi lại, ăn nghỉ.
4.1.2. Diễn đàn, đối
thoại trực tuyến
Tổ chức diễn đàn, đối thoại trực
tuyến là hình thức thực hiện trao đổi, thảo luận, chia sẻ ý kiến về một số vấn
đề, nội dung hoặc toàn bộ dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thông qua việc ứng
dụng các phương tiện công nghệ thông tin.
Tổ chức diễn đàn, đối thoại trực tuyến có ưu điểm là
thuận tiện cho đối tượng tham dự diễn đàn do không phải đến địa điểm tập trung;
không tốn kém chi phí đi lại, ăn nghỉ. Nhưng hình thức này cũng có hạn chế là
không phải nơi nào, địa bàn nào cũng có thể đáp ứng điều kiện về phương tiện,
trang thiết bị để tổ chức diễn đàn, nhất là những địa bàn còn khó khăn trong
tiếp cận, ứng dụng công nghệ thông tin.. Địa điểm tổ chức diễn đàn, đối thoại
trực tuyến phải bảo đảm, được trang bị đầy đủ các phương tiện công nghệ thông tinhiện đại. Do
không tập trung đại biểu tại địa điểm chung nên hạn chế hơn trong việc tương
tác, giao lưu, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm, thông tin so với tổ chức diễn
đàn, đối thoại trực tiếp.
4.2.
Các bước tổ chức diễn đàn, đối thoại
4.2.1. Xây dựng, ban
hành kế hoạch tổ chức
Xây dựng, ban hành kế hoạch tổ chức là công việc đầu
tiên, nhằm tạo cơ sở để việc tổ chức diễn đàn, đối thoại đạt yêu cầu về nội
dung và tiến độ thực hiện. Kế hoạch nhằm xác định mục đích, yêu cầu, nội dung,
tiến độ thời gian và phân công trách nhiệm của cơ quan, đơn vị có liên quan;
kinh phí bảo đảm. Kế hoạch tổ chức diễn đàn, đối thoại do cơ quan chủ trì tổ
chức diễn đàn xây dựng, hoàn thiện và trình người có thẩm quyền ban hành.
4.2.2. Chuẩn bị nội
dung và điều kiện tổ chức diễn đàn, đối thoại
a) Về nội dung, bao gồm các vấn đề được nêu tại mục 3.1
phần này
Nội dung của diễn đàn cần được nghiên cứu, lựa chọn,
chuẩn bị kỹ lưỡng, phải phù hợp với đối tượng tham gia diễn đàn, đối thoại và
phù hợp với thời lượng tổ chức diễn đàn.
Ví dụ: Khi tổ chức
diễn đàn, đối thoại lấy ý kiến của thanh niên về dự thảo Bộ luật Dân sự, cơ
quan chủ trì tổ chức diễn đàn cần lưu ý đây là Bộ luật có số lượng điều luật
lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó nên giới hạn, lựa chọn
những vấn đề, nội dung, điều luật có tác động, liên quan trực tiếp đến thanh
niên như: quyền nhân thân, chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự, giao dịch dân sự, giám hộ, nơi cư trú...
b)Cơ quan chủ trì có thể xem xét, quyết định về số lượng,
thành phần tham dự diễn đàn cho phù hợp, bảo đảm thành phần tham dự là đối
tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, đại diện theo ngành, nghề, vùng
miền.
c) Thời gian tổ chức diễn đàn, đối thoại phải phù hợp,
bám sát yêu cầu, tiến độ xây dựng, ban hành dự thảo văn bản theo chương trình,
kế hoạch công tác[6].
Địa điểm tổ chức diễn đàn, đối thoại bảo đảm thuận tiện, tạo điều kiện cho đối
tượng tham gia diễn đàn đầy đủ.
d) Kinh phí tổ chức diễn đàn, đối thoại phải được chuẩn
bị phù hợp với yêu cầu, mục đích, quy mô của diễn đàn. Cơ quan chủ trì và cơ
quan phối hợp tổ chức diễn đàn, đối thoại cần phân công rõ đầu mối thực hiện để
việc tổ chức diễn đàn đạt hiệu quả.
4.3.3. Lựa chọn báo
cáo viên, chuyên gia pháp luật
Báo cáo viên,
chuyên gia pháp luật là người quan trọng, được giao trách nhiệm truyền đạt,
giới thiệu về dự thảo chính sách, pháp luật. Họ cũng có thể tham gia trao đổi,
thảo luận, đối thoại tại diễn đàn và có vai trò quan trọng đến chất lượng, kết
quả tổ chức diễn đàn, đối thoại.
Khi lựa chọn báo cáo viên, chuyên gia pháp luật, cần lưu ý:
(i) Chọn báo cáo viên/chuyên
gia pháp luật là người có kinh nghiệm, hiểu biết sâu về lĩnh vực của dự thảo
văn bản; tốt nhất là tham gia Ban/Tổ soạn thảo, Tổ biên tập. Cùng với người chủ
trì diễn đàn, báo cáo viên/chuyên gia là người tham gia trao đổi, chia sẻ, giải đáp
các ý kiến góp ý của đại biểu tham gia diễn đàn, nhất là các ý kiến trái chiều,
ý kiến phản biện đối với nội dung dự thảo văn bản.
(ii) Chọn báo cáo viên/chuyên
gia pháp luật có kỹ năng thuyết trình tốt. Các quy định pháp luật luôn khô
cứng, do đó để diễn đàn, đối thoại được lôi cuốn, hấp dẫn đòi hòi báo cáo viên/chuyên
gia bên cạnh có kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, thì cũng cần có phương pháp
sư phạm và kỹ năng thuyết trình tốt.
(iii) Ngoài báo cáo viên/chuyên gia pháp luật là
diễn giả thuyết trình về dự thảo văn bản và tham gia trao đổi, thảo luận, cơ
quan chủ trì diễn đàn, đối thoại có thể mời thêm chuyên gia khác để tham gia
trao đổi, đối thoại, thảo luận với đại biểu về các nội dung, vấn đề liên quan
(có thể là chuyên gia pháp luật hoặc chuyên gia xã hội học…).
4.3.4. Dự kiến các
vấn đề, nội dung trọng tâm gợi ý trao đổi, thảo luận
Vấn đề, nội dung trọng tâm được gợi ý, thảo luận tại diễn
đàn, đối thoại có thể là:
(i) Vấn đề, chính sách chủ yếu trong dự thảo VBQPPL.
(ii) Vấn đề, chính sách cơ quan chủ trì soạn thảo còn băn
khoăn, đang còn có ý kiến, cách tiếp cận khác nhau.
(iii) Vấn đề, chính sách phức tạp, nhạy cảm, mới chưa có
kinh nghiệm thực tiễn.
(iv) Thực trạng (tập trung vào tồn tại, hạn chế, bất cập
và nguyên nhân) thi hành các quy định của văn bản hiện đang có hiệu lực để có
cơ sở thực tiễn cho việc đề nghị sửa đổi, bổ sung.
4.3.5. Dẫn đề, định
hướng diễn đàn, đối thoại
- Người chủ trì diễn đàn, đối thoại là người khai mạc,
định hướng diễn đàn và là người kết luận khi kết thúc diễn đàn, đối thoại.
- Diễn đàn, đối thoại có thành công hay không chịu sự chi
phối, tác động bởi năng lực, kinh nghiệm của người chủ trì diễn đàn.
- Dẫn đề diễn đàn, đối thoại được thực hiện ngay sau khi
phát biểu khai mạc diễn đàn, đối thoại. Tuy nhiên, cũng có trường hợp dẫn đề
diễn ra đan xen trong quá trình thực hiện từng nội dung, vấn đề của diễn đàn,
đối thoại.
4.3.6. Báo cáo
viên/chuyên gia pháp luật trình bày, giới thiệu nội dung của dự thảo VBQPPL
Tùy thuộc thời lượng tổ chức diễn đàn, đối thoại, báo cáo viên/chuyên gia dự kiến các nội
dung trình bày, giới thiệu dự thảo văn bản cho phù hợp, tránh rơi vào tình
trạng thực hiện hết nội dung nhưng chưa hết thời gian tổ chức hoặc kéo dài quá
thời gian đã định trước (“cháy” chương trình), làm ảnh hưởng tới chất lượng của
diễn đàn, đối thoại. Việc trình bày, giới thiệu nội dung của dự thảo VBQPPL có
thể theo hướng khái quát hoặc cụ thể. Thông thường, tại diễn đàn, đối thoại, báo cáo viên/chuyên gia sẽ trình bày một
số nội dung có liên quan đến dự thảo văn bản, chính sách như: (i) Sự cần thiết
ban hành; (ii) Mục đích, quan điểm chỉ đạo xây dựng; (iii) Những chính sách, nội dung cơ bản; (iv) Những vấn đề còn có quan điểm, ý kiến
khác nhau…
Tùy thuộc đối tượng tham dự diễn đàn, đối thoại, mục
đích, yêu cầu, thời lượng, báo
cáo/chuyên gia sẽ lựa chọn nội dung trình bày cho phù hợp,
đáp ứng nhu cầu về tiếp cận thông tin, lôi cuốn, tạo cảm hứng cho đối tượng.
Ví dụ, với đối tượng tham dự là người dân, báo cáo viên/chuyên gia nên bỏ qua hoặc
nói khái quát về các nội dung (i), (ii) nêu trên, nên tập trung, dành phần lớn
thời gian để thuyết minh sâu, làm rõ hơn về những chính sách, nội dung cơ bản
tại điểm (iii) và (iv) để cung cấp kiến thức, thông tin giúp cho đối tượng hiểu
hơn và tham gia ý kiến.
4.3.7. Trao đổi, thảo
luận, đối thoại hai chiều
Đây là phần quan trọng nhất của diễn đàn, đối thoại. Hiệu
quả của diễn đàn, đối thoại (thu nhận được ý kiến góp ý có chất lượng, khả thi
hay không) chịu sự chi phối của phần trao đổi, thảo luận, đối thoại hai chiều.
Trao đổi, thảo luận, đối thoại hai chiều có sự tham gia
chủ yếu của cơ quan chủ trì diễn đàn, đối thoại thông qua người chủ trì, dẫn
dắt, định hướng nêu tại điểm 4.3.4 nêu trên, báo cáo viên/chuyên gia, đại biểu tham
dự diễn đàn, đối thoại. Vì vậy, đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp, các
bên có thời lượng hợp lý để tham gia trao đổi, thảo luận, đối thoại.
Để đạt kết quả trong trao đổi, thảo luận, đối thoại,
ngoài kiến thức, kinh nghiệm, các bên tham gia cần lưu ý một số yêu cầu như
sau:
(i) Đối với người chủ trì diễn đàn/đối thoại:
Người chủ trì có nhiệm vụ định hướng, dẫn dắt diễn dàn,
bảo đảm việc tổ chức diễn đàn từ khi bắt đầu đến khi kết thúc được diễn ra theo
yêu cầu, mục tiêu, chương trình đề ra. Người chủ trì phải thực hiện nhiệm vụ
nắm bắt, xâu chuỗi, thể hiện quan điểm đánh giá, tiếp thu, ghi nhận các ý kiến
góp ý phù hợp, khả thi để nghiên cứu, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản,
chính sách. Đối với ý kiến không phù hợp, không khả thi, người chủ trì cần có
giải thích, nêu rõ lý do để tạo sự đồng thuận, chia sẻ, tạo tâm lý thoải mái
cho đại biểu.
(ii) Đối với báo cáo viên/chuyên gia: Tại phần trao đổi, thảo luận,
đối thoại, báo cáo viên/chuyên
gia tham gia chủ yếu đối với các ý kiến có liên quan đến những nội dung trình
bày về dự thảo văn bản. Có thể đại biểu chưa hiểu hoặc muốn hiểu rõ thêm về một
hoặc một số vấn đề, nội dung do báo
cáo/chuyên gia trình bày. Trên thực tế, cơ quan chủ trì tổ
chức diễn đàn, đối thoại thường sẽ mời báo cáo/chuyên gia là những người
đang công tác tại cơ quan chủ trì soạn thảo VBQPPL.
(iii) Đối với đại biểu tham dự diễn đàn, đối thoại: Để ý
kiến tại diễn đàn, đối thoại được chất lượng, đại biểu tham dự cần nghiên cứu
kỹ dự thảo văn bản và các tài liệu có liên quan; nghiên cứu, chuẩn bị trước,
chu đáo ý kiến góp ý; tập trung vào những nội dung, vấn đề gợi ý trao đổi, thảo
luận đã được người chủ trì diễn đàn định hướng trước đó.
4.3.8. Kết luận diễn
đàn, đối thoại
Người chủ trì diễn đàn, đối thoại tổng kết, kết luận diễn
đàn, đối thoại sau khi kết thúc trao đổi, thảo luận. Thông thường ý kiến kết
luận sẽ tập trung vào các vấn đề: (i) Khái quát các ý kiến phát biểu, góp ý;
(ii) Đánh giá, ghi nhận, biểu dương các ý kiến có chất lượng, khả thi; (iii) Dự
kiến những ý kiến có thể sẽ được Ban Tổ chức, cơ quan chủ trì diễn đàn, đối
thoại nghiên cứu, tiếp thu, đề xuất cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh lý, hoàn
thiện dự thảo văn bản; (iv) Rút kinh nghiệm đối với những vẫn đề còn hạn chế,
chưa đảm bảo yêu cầu, mục tiêu đề ra (nếu có).
4.3.9. Tổng hợp ý
kiến tại diễn đàn, đối thoại và báo cáo kết quả tổ chức diễn đàn
Cơ quan chủ trì tổ chức diễn đàn, đối thoại lập bảng tổng
hợp ý kiến góp ý và xây dựng báo cáo kết quả tổ chức diễn đàn, đối thoại. Trường
hợp cơ quan chủ trì tổ chức diễn đàn cũng chính là cơ quan chủ trì soạn thảo
VBQPPL thì cần tổ chức tiếp thu các ý kiến góp ý và chỉnh lý dự thảo chính
sách, pháp luật, đồng thời bổ sung các vấn đề góp ý trong Báo cáo tổng hợp,
tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý đối với dự thảo chính sách, dự thảo VBQPPL
theo hồ sơ quy định của Luật Ban hành VBQPPL. Trường hợp cơ quan chủ trì tổ
chức diễn đàn không phải là cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản thì gửi báo cáo
kèm tổng hợp ý kiến cho cơ quan chủ trì soạn thảo và kiến nghị, đề xuất việc
nghiên cứu, tiếp thu, hoàn thiện dự thảo chính sách, VBQPPL.
CHUYÊN
ĐỀ 15
Kỹ
năng phổ biến, giáo dục pháp luật qua
một số phương tiện thông tin đại chúng.
1.
Khái niệm về phương tiện thông tin đại
chúng
Theo
cách hiểu thông thường, truyền thông đại chúng (tên tiếng Anh là Mass Communications)
là một trong ba hình thức của truyền thông[7].
Truyền thông đại chúng được hiểu là các hoạt động lan truyền thông tin nhanh
chóng đến nhóm công chúng lớn với số lượng đông đảo người tiếp nhận. Hoạt động
truyền thông đại chúng được thực hiện thông qua các phương tiện cụ thể được áp dụng nhằm lan tỏa thông tin
trên diện rộng, một cách nhanh chóng, đồng thời. Các phương tiện này được gọi
là phương tiện thông tin đại chúng. Hiện nay, với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, phương tiện truyền thông đại chúng
có thể là bất kỳ nguồn nào cho phép chủ thể gửi thông tin đến công chúng một
cách đại trà, đồng thời và nhanh chóng và cho phép mọi người có thể kết nối để
truy cập thông tin. Có thể kể đến một số phương tiện như: Internet, mạng xã
hội, tivi, báo đài…;
Về mặt
pháp lý, phương
tiện thông tin đại chúng được xác định là một trong các hình thức của phổ biến,
giáo dục pháp luật (PBGDPL)[8].
Trong lĩnh vực PBGDPL, phương tiện thông tin đại chúng thường được hiểu đồng
nhất với khái niệm hoạt động “báo chí”. Ví dụ, theo khoản 2 Điều 3 Thông tư số 38/2017/TT-BTTT ngày 13/12/2017 của Bộ
Thông tin và Truyền thông hướng dẫn các cơ quan báo chí xây dựng chương trình,
nội dung phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân, khái niệm
“phương tiện thông tin đại chúng” được hiểu là phương tiện được cơ quan
báo chí sử dụng để cung cấp, truyền dẫn thông tin tới đông đảo công chúng bao
gồm các đài phát thanh, đài truyền hình, báo in, báo điện tử và trang/Cổng
thông tin điện tử. Hiện nay, các hình thức truyền thông đại chúng được phân
thành 04 nhóm bao gồm:
-
Phương tiện in được thể hiện dưới dạng như: báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản
tin thông tấn… được in thành văn bản;
-
Các chương trình được phát trên sóng phát thanh;
-
Các chương trình truyền hình, chương trình nghe – nhìn thời sự được thực hiện
bằng các phương tiện khác nhau và phát trên sóng truyền hình;
-
Các bài viết, tin tức được đăng tải trên mạng thông tin máy tính.
2. Vai trò của phương tiện thông tin đại chúng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật:
Theo
đánh giá của đồng chí Trương Vĩnh Trọng, thì phương tiện thông tin đại chúng
(hay có thể hiểu là cơ quan báo chí) được đánh giá là một trong những kênh
tuyên truyền pháp luật có sức mạnh và vai trò to lớn.[9]
Với đặc tính cơ bản của phương tiện thông tin đại chúng là tính phổ cập, nhanh
chóng, kịp thời và rộng khắp, trong công tác PBGDPL, phương
tiện thông tin đại chúng đóng vai trò quan trọng, là công cụ, phương tiện hữu
hiệu đưa pháp luật đến với cán bộ, nhân dân, cụ thể:
- Giúp
cho đông đảo cán bộ, nhân dân dễ dàng tiếp thu, nắm bắt, tìm hiểu, nâng cao
nhận thức, ý thức pháp luật.
- Góp
phần phản ánh thực tiễn thi hành pháp luật và hướng dẫn dư luận xã hội ủng hộ,
biểu dương người tốt, việc tốt trong chấp hành pháp luật, lên án, phê phán
những biểu hiện tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội, tạo
niềm tin vào pháp luật, vào công lý trong mọi tầng lớp nhân dân.
- Đóng
vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Bên cạnh việc phổ biến chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến nhân dân,
phương tiện thông tin đại chúng còn là diễn đàn mở giúp thực hiện quyền tự do
ngôn luận của nhân dân, phản ánh những đề xuất, kiến nghị của người dân với
Đảng, Nhà nước về các chính sách, các quy định pháp luật chưa thật phù hợp, về
những bất cập, những vướng mắc, bức xúc trong thực tiễn thi hành, chấp hành
pháp luật.
- Nâng
cao hiệu quả và chất lượng của thông tin pháp luật được cung cấp.
3. Các đặc trưng cơ bản của phổ biến, giáo dục pháp luật qua các phương
tiện thông tin đại chúng
3.1. Đối tượng phổ biến rộng và đa dạng: Với bản chất của hoạt động truyền thông đại chúng, PBGDPL thông
qua phương tiện thông tin đại chúng được sử dụng khi cần cung cấp thông tin
pháp luật trên diện rộng, hướng tới thu hút số lượng đông đảo các cá nhân, tổ chức. Bên cạnh
đó, do hướng tới việc tăng số lượng người được tiếp cận thông tin nên đối tượng
của các hoạt động PBGDPL qua phương tiện thông tin đại chúng sẽ rất đa dạng, ít
chịu sự kiểm soát của đối tượng thực hiện và phụ thuộc vào thị hiếu, sở thích
và nhu cầu của từng đối tượng cụ thể.
3.2. Hình thức phong phú, hấp dẫn:Như đã đề cập, việc PBGDPL qua các phương tiện thông tin đại
chúng có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức thể hiện khác nhau như: tin, bài, tọa đàm, diễn đàn,
truyện ngắn, tiểu phẩm, phim truyền hình, phim tài liệu,… cho phép các thông tin pháp luật được truyền tải, lồng ghép
dưới các hình thức giúp hấp dẫn tối đa số lượng người theo dõi, tiếp nhận thông
tin.
3.3. Tính nhanh chóng, kịp thời: Một trong những mục tiêu của truyền thông đại chúng là hướng
tới cung cấp thông tin tới một số lượng lớn chủ thể do đó, một trong những đặc
điểm nổi bật của phương tiện thông tin đại chúng là thông tin truyền
tải phải nhanh nhạy,
kịp thời, cập nhật để đáp ứng nhu cầu được thông tin, tìm hiểu về pháp luật của
người dân. Hiện nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ, đặc
tính càng được thể hiện rõ nét, đặc biệt là với hình thức báo điện tử.
3.4. Nội dung thông tin pháp luật bảo đảm tính phổ
cập, linh hoạt: Do đối tượng phục vụ của hoạt động
truyền thông đại chúng là đông đảo công chúng với nhu cầu, tính cách và suy
nghĩ khác nhau nên để tiếp cận với đại đa số quần chúng thì nội dung thông tin
cần hướng tới tính phổ cập, ngắn gọn để phù hợp với đại đa số quần chúng. Bên
cạnh đó, mỗi cơ quan báo chí hay phương tiện truyền thông đều có một tập đối
tượng, khách hàng theo dõi và trung thành riêng (như thanh niên, phụ nữ, nông
dân, nhà khoa học…) với các trình độ khác nhau. Vì vậy, nội dung thông tin pháp
luật cũng cần có sự linh hoạt để điều chỉnh ngay từ khi lựa chọn phương tiện truyền
thông để phù hợp với đặc tính, thị hiếu của từng tập đối tượng cụ thể.
3.5. Hiệu quả hoạt động PBGDPL hướng tới tạo dư luận xã hội và tăng số
lượng đối tượng tiếp cận thông tin: Như đã đề cập, một
trong những đặc điểm của hoạt động PBGDPL thông qua các phương tiện truyền
thông đại chúng là hướng tới việc tiếp cận số lượng lớn quần chúng, đồng thời
chủ thể thực hiện hoạt động PBGDPL khó theo dõi và đánh giá cụ thể sự thay đổi
của từng đối tượng được tiếp cận thông tin. Thay vào đó, hiệu quả hoạt động PBGDPL
được thể hiện thông qua số lượng người tiếp cận và khả năng tạo dư luận xã hội
về vấn đề được phổ biến.
4. Một số kỹ năng khi thực hiện PBGDPL trên phương tiện thông tin đại chúng
4.1. Chọn vấn đề, sự kiện để thực hiện truyền thông đại chúng: Những
vấn đề, sự kiện được lựa chọn nên là những
vấn đề có thật, mang tính thời sự, đang xảy ra trong đời sống chính trị pháp lý,
có tính chất tiêu biểu, có ý nghĩa quan trọng trong từng phạm vi, từng thời
điểm, được dư luận xã hội quan tâm. Việc lựa chọn vận đề cần có chọn lọc những
sự kiện, vấn đề nổi bật, cần hạn chế thực hiện truyền thông các nội dung, sự
kiện chỉ mang tính hành chính, tóm tắt thuần túy như thông tin về hoạt động
tổng kết, sơ kết công tác…
4.2. Lựa chọn cách thể hiện và phương
tiện truyền thông: Việc lựa chọn hình thức truyền
thông phù hợp sẽ làm tăng
tính hiệu quả của thông tin và tăng cường sức hút
với cộng đồng. Đối
với những vấn đề cần thông tin nhanh nhạy, kịp thời, ngắn gọn thì lựa chọn thể
loại tin, phóng sự ngắn. Đối với những vấn đề cần trình bày một cách chi tiết,
phân tích, nhìn nhận, đánh giá vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau thì lựa chọn
thể loại bài, chương trình tọa đàm, phân tích.... Đối với những vấn đề gai góc,
khó, phức tạp thì có thể cân nhắc sử dụng các hình thức chương trình , bài viết
dài kỳ. Đồi với những vấn đề “kén” người xem
thì cần lồng ghép nội dung thông tin pháp luật trong các chương trình
văn hóa, phim ảnh, game show… để thu hút sự quan tâm theo dõi của khán giả.
4.3. Xác định đối tượng thông tin: Thông thường các thông tin pháp luật có
đối tượng rộng rãi, không bó hẹp trong một phạm vi cụ thể. Tuy nhiên, để các hoạt động truyền thông phát huy hiệu
quả cao nhất, cần xác định cụ thể đối tượng chủ yếu cần được thông tin. Từ đó
căn cứ vào trình độ nhận thức, thị hiếu, sở thích nói chung của đối tượng đó mà
chọn lọc các phương tiện truyền thông đang phục vụ đối tượng này, đồng thười
lựa chọn cách thể hiện, ngôn ngữ phù hợp.
4.4. Thu thập thông tin: Phải thu thập đầy đủ số liệu, sự kiện
chủ yếu, phản ánh được, bao quát được vấn đề định nêu. Có những sự kiện, số
liệu chính và sự kiện, số liệu phụ. Tùy theo tính chất của vấn đề cần thông
tin, phải thu thập được những sự kiện, số liệu chính. Bên cạnh đó, cũng cần thu
thập các số liệu, sự kiện phụ giúp làm sáng tỏ thêm sự kiện, số liệu chính.
4.5. Xử lý thông tin:
Việc xử
lý thông tin bao gồm:
- Kiểm
tra và nắm vững tính chính xác của thông tin: sau khi thu thập thông tin, cần
kiểm tra tính chính xác, khách quan của thông tin. Nếu còn nghi ngờ, phân vân
về thông tin nào đó mà chưa có điều kiện kiểm tra, xác minh thì kiên quyết
không sử dụng. Việc kiểm tra thông tin được thực hiện bằng nhiều cách: thông
qua tư liệu, thông qua nhân chứng… Tuy nhiên, cần lưu ý nguồn thông tin kiểm
chứng phải là các nguồn chính thống, có giá trị tham khảo hoặc là các chuyên
gia có uy tín.
- Lựa chọn thông tin: Lựa chọn tức là sàng lọc và loại bỏ
những thông tin không cần thiết, những thông tin còn nghi ngờ về độ chính xác,
chân thực, khách quan.
- Sắp
xếp, so sánh, đối chiếu các thông tin khác, “dựng một bức tranh có ý nghĩa về
diễn biến của sự kiện, mối quan hệ giữa các thông tin, mối liên kết” để có được
cái nhìn bao quát về vấn đề, sự kiện.
- Nhận
dạng, phân biệt, tập trung sự chú ý vào các sự việc và nhân vật quan trọng
trong tin, bài; đồng thời giải quyết từng điểm để làm cho tin, bài hấp dẫn, dễ
hiểu.
4.6. Dựng một dàn bài:
Xây
dựng bố cục, kịch bản hay cách trình bày thông tin là công đoạn rất quan trọng,
có thể nói rằng tính sáng tạo khi thực hiện hoạt động PBGDPL trên truyền thông
đại chúng là nằm ở bố cục, sắp xếp sự kiện, số liệu để làm nổi bật chủ đề, gây
ấn tượng cảm xúc đối với người đọc. Khi đã xác định được góc độ, mục tiêu và
yêu cầu của chương trình, tin bài và đã lựa chọn được thông tin cần thiết thì
nhiệm vụ tiếp theo là làm dàn ý và sắp xếp các nội dung cho phù hợp. Việc làm
dàn ý bài viết theo một kết cấu nhất định sẽ giúp cho thông tin được truyền tải
mạch lạc, người đọc dễ hiểu, dễ cảm nhận được vấn đề, thông tin được phản ánh.
Có
nhiều cách kết cấu các thông tin pháp luật, cụ thể là:
- Kết
cấu theo thời gian: sắp xếp bài viết theo trật tự thời gian;
- Kết
cấu theo phương pháp diễn dịch: bằng cách đề cập đến thông tin chính, sau đó
chứng minh bằng các lý lẽ dựa trên các sự việc;
- Kết
cấu theo phương pháp quy nạp: trình bày nội dung bài viết từ các sự việc, tình
trạng, sau đó tổng hợp, khái quát;
- Kết
cấu kim tự tháp ngược: tức là kết cấu theo thứ tự quan trọng giảm dần, thông
tin chính đề cập trước, sau đó là các thông tin bổ sung;
- Kết
cấu theo không gian: Đề cập tới các thông tin trên thế giới sau đó tới tin
trong nước hoặc ngược lại…
4.7. Sản xuất chương trình, tin, bài:
Tin, bài tuyên truyền pháp luật phải thể hiện ngắn gọn, súc
tích, rõ ràng, luôn thu hút độc giả từ đầu đến cuối, tránh viết “dây cà ra dây
muống”. Ngôn ngữ trong tin, bài tuyên truyền pháp luật chủ yếu mang tính truyền
tải thông tin, trong sáng, dễ hiểu, giản dị, chuẩn xác trong sử dụng thuật ngữ
pháp lý. Tuy nhiên, thể tài tin, bài cũng rất cần sự sáng tạo trong ngôn ngữ
thể hiện, cần sử dụng các hình thức đảo câu, đảo ý để tăng sự hấp dẫn của tin,
bài; sử dụng trích dẫn, ví dụ cho phù hợp, góp phần mang lại cho bài viết sự
chân thực và sống động…
Mỗi
đoạn trong tin, bài cần tập trung thể hiện một ý, chuyển đoạn một cách chặt
chẽ, logic và không được hư cấu, thông tin thiếu căn cứ rõ ràng.
5. Kỹ năng phối hợp với các cơ quan báo
chí trong thực hiện các hoạt động PBGDPL trên phương tiện thông tin đại chúng
Để thực
hiện các hoạt động PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chung đòi hỏi vừa
cần có kiến thức pháp luật và nghiệp vụ truyền thông, báo chí. Do đó, sự phối
hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, nắm giữ thông tin pháp luật với các cơ
quan báo chí trong triển khai các hoạt động PBGDPL trên phương tiện thông tin
đại chúng là cần thiết. Để hoạt động phối hợp được thực hiện hiệu quả, thì cần
thực hiện các công việc sau:
5.1. Các cơ quan
quản lý nhà nước phải chủ động làm đầu mối phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với
các cơ quan báo chí trong định hướng các hoạt động PBGDPL trên các phương tiện
thông tin đại chúng
Một trong những hình thức phối hợp hiệu quả là tổ chức giao
ban, họp báo định kỳ giữa cơ quan nhà nước với phóng viên, báo chí để thông
tin, định hướng nội dung PBGDPL trong năm, từng tháng, từng quý. Các buổi sinh
hoạt này, một mặt giúp báo chí kịp thời phổ biến những chính sách, văn bản pháp
luật mới; mặt khác, đó cũng là dịp để đánh giá, rút kinh nghiệm về công tác
PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng trong lĩnh vực quản lý của cơ
quan nhà nước thời gian qua và định hướng cho công tác này trong thời gian tiếp
theo.
5.2. Xây dựng kế
hoạch thực hiện các hoạt động PBGDPL trên các phương tiện truyền thông đại
chúng
Kế
hoạch phối hợp có thể bao gồm những nội dung sau:
- Xác
định nội dung và hình thức PBGDPL trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
- Thời
lượng, độ dài của chương trình, tin bài; thời gian phát sóng, phát hành ấn
phẩm.
- Phân
công trách nhiệm thực hiện:
+ Cơ
quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm về nội dung pháp lý của hoạt động, cung
cấp sách báo, tài liệu pháp luật; tạo điều kiện cho phóng viên đi cơ sở viết
tin, bài, thực hiện chương trình, ghi âm, ghi hình trong phòng thu, trường quay
hoặc hiện trường; cử cán bộ cùng thực hiện hoạt động PBGDPL; hỗ trợ một phần
kinh phí thực hiện; giúp cơ quan báo chí tổ chức mạng lưới cộng tác viên,
chuyên gia; làm đầu mối tổ chức các cuộc sơ kết, tổng kết hoạt động PBGDPL trên
phương tiện truyền thông đại chúng, tổ chức khen thưởng các tập thể, cá nhân có
thành tích xuất sắc trong công tác PBGDPL trên phương tiện truyền thông đại
chúng.
+ Cơ
quan báo chí chịu trách nhiệm sản xuất và thực hiện các hình thức PBGDPL trên
phương tiện truyền thông đại chúng theo kế hoạch phối hợp; thực hiện theo đúng
quy định của Luật Báo chí về đính chính, cải chính, chịu trách nhiệm về nội
dung thông tin và lịch phát sóng, phát hành.
- Xây
dựng, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ cộng tác viên, phóng viên, biên
tập viên thực hiện các hoạt động PBGDPL trên phương tiện truyền thông đại
chúng. Theo đó, đội ngũ chịu trách nhiệm thực hiện các hoạt động PBGDPL
phải vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ,
có tư cách đạo đức tốt, đồng thời phải có trình độ và kiến thức về pháp luật.
Hai phương pháp để tạo nguồn cho đội ngũ này là: (i) Tuyển những người tốt
nghiệp chuyên ngành luật về cơ quan báo chí làm phóng viên, biên tập viên để
đào tạo thêm về nghiệp vụ báo chí; hoặc (ii) Đào tạo nâng cao trình độ pháp
luật cho đội ngũ phóng viên để bổ sung nguồn nhân lực thực hiện công tác này.
Để nâng
cao chất lượng đội ngũ này, cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan báo chí cần
phối hơp thực hiện một số hoạt động sau:
+ Tổ
chức các hội nghị chuyên đề, các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật ngắn ngày,
theo chuyên đề nhằm nâng cao nghiệp vụ, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cộng
tác viên, phóng viên, biên tập viên về pháp luật;
+ Tổ
chức các câu lạc bộ pháp luật cho đội ngũ cộng tác viên, phóng viên, biên tập
viên về pháp luật. Đây là nới giúp quy tụ những người có kỹ năng, kinh nghiệm
để trao đổi học tập kinh nghiệm.
+ Tổ
chức các cuộc thi viết về pháp luật để phát hiện và mở rộng mạng lưới cộng tác
viên và là nơi để nâng cao, rèn luyện nghiệp vụ cho các phóng viên, biên tập
viên.
+ Cung
cấp các tài liệu nghiệp vụ báo chí, tài liệu pháp luật cho đội ngũ cộng tác
viên, phóng viên, biên tập viên pháp luật.
- Khen
thưởng đổi với những cá nhân và tập thể có thành tích xuất sắc trong công tác
PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng. Việc khen thưởng căn cứ trên
đánh giá của các cơ quan quản lý nhà nước về hiệu quả hoạt động PBGDPL của các
cơ quan báo chí. Việc khen thưởng cần thực hiện thường xuyên, kịp thời để động
viên, khuyến khích những cộng tác viên, phóng viên, biên tập viên tích cực tham
gia, thực hiện hoạt động PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng.
CHUYÊN
ĐỀ 16
Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật cho người
dân vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng biên giới, biển đảo
Hiện nay, người dân tộc
thiểu số có số lượng trên 14 triệu
người, đa phần đang sống và làm việc tại
các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển đảo. Tại khu vực biên giới, hải đảo, những năm gần đây,
lực lượng Bộ đội Biên phòng đã triển khai
hiệu quả Đề án “Tăng cường phổ biến,
giáo dục pháp luật cho cán bộ, Nhân
dân vùng biên giới, hải đảo”. Thông
qua công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật (PBGDPL) để vận động cán bộ và Nhân dân chấp hành nghiêm túc các văn bản
pháp luật về quản lý, bảo vệ
biên giới quốc gia như hiệp định, Quy chế biên giới, Luật Biên giới quốc gia, các nghị định, quy định trong việc quản lý, bảo vệ biên giới. Từ đó làm chuyển biến và nâng cao nhận thức
của cán bộ và Nhân dân biên giới, gắn
PBGDPL với nhiệm vụ thường xuyên của Bộ
đội Biên phòng và nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội của chính quyền địaphương.
Trong phạm vi chuyên đề này,
do đặc thù nhiệm vụ, công tác của lực lượng
Bộ đội Biên phòng nên chỉ đề
cập kỹ năng PBGDPL cho người dân đangsinhsốngvàlàmviệctạivùngdântộcthiểusố,miềnnúi,vùngbiêngiới,biểnđảo.
Từthựctiễncôngtácvàtìnhhìnhđặcthùcủatừngđịabàn,độingũcánbộchínhtrị,báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật của Bộ Chỉ huy Bộ đội
Biên phòng các tỉnh, thành phố, các đồnbiênphòngđãtriểnkhaixâydựngnhiềumôhìnhPBGDPL.
I.
NỘI DUNG, HÌNH THỨC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁPLUẬT
1.
Từ
năm 2013 cho đến nay, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng đã và đang phối hợp với các
Bộ, ban, ngành Trung ương và địa phương thực hiện hiệu quả Đề án “Tăng cường
PBGDPL cho cán bộ, Nhân dân vùng biên giới, hải đảo” (nay là Đề án “Phát huy
vai trò của lực lượng Quân đội nhân dân tham gia công tác PBGDPL, vận động Nhân
dân chấp hành pháp luật tại cơ sở”). Đã có hàng triệu lượt người tham gia các
hoạt động của Đề án do Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố biên giới, biển đảo
chủ trì theo phương châm “có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải”. Theo đó, đối
với đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và người dân ở vùng dân tộc thiểu số,
miền núi, vùng biên giới, biển đảo nói riêng, nội dung tuyên truyền chủ yếu tập
trung vào các quy định pháp luật về dân tộc, tôn giáo, trách nhiệm tham gia bảo
vệ chủ quyền, giữ gìn quốc phòng - an ninh. Ngoài ra, nội dung PBGDPL còn tập
trung vào các quyền và nghĩa vụ của người dân;chínhsách,phápluậtmớicóliênquanđếnđồngbàodântộcthiểusố;cáclĩnh
vực pháp luật liên quan đến hôn nhân và gia đình, đào tạo nghề, lao động, việc
làm, hình sự, bảo vệ môi trường, giao thông đường bộ...
Tại tuyến biên giới
đất liền, nội dung PBGDPL tập trung vào các văn kiện pháp lý về biên giới, Luật
Biên giới quốc gia, Luật An ninh quốc gia, Nghị định số 34/2014/NĐ-CP ngày
29/4/2014 của Chính phủ về Quy chế khu vực biên giới đất liền nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật đất đai, tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ và
phát triển rừng, pháp luật về phòng, chống ma túy, buôn bán người; những quy định
pháp luật khác gắn liền với đời sống lao động của người dân...
Tại tuyến biển, hải
đảo, nội dung PBGDPL tập trung vào các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của
các quốc gia trên Biển Đông (DOC),
Luật Biển Việt Nam năm 2012, Nghị định số 71/2015/NĐ-CP ngày 03/9/2015 của
Chính phủ về quản lý hoạt động của người, phương tiện trong khu vực biêngiớibiểnnướcCộnghòaxãhộichủnghĩaViệtNam,LuậtThủysản,nhiệmvụbảo
vệ chủ quyền biển đảo của lực lượng Bộ đội Biên
phòng, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính của lực lượng làm nhiệm vụ trênbiển...
2.
Với những nội
dung trọng tâm được định hướng để triển khai PBGDPL
cho người dân vùng dân tộc thiểu số, miền
núi, vùng biên giới, biển đảo nói trên, hoạt động tuyên truyền, PBGDPL
đã và đang được Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố trong cả
nước thực hiện thông qua khá nhiều hình thức khác nhau như: Thông
qua phổ
biến pháp luật trực tiếp; biên soạn, phát hành tài liệu pháp
luật, tờrơi, tờ gấp; tuyên truyền
cổ động trực quan trên pa-nô, áp-phích… tại khu vực biên giới; phối hợp với các tổ chức đoàn thể tại các xã, phường, thị trấn biên giới tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; tổ chức sinh hoạt các câu lạc bộ pháp luật; xây dựng và
khai thác Tủ sách pháp luật tại các đồn biên phòng và các thiết chế văn hóa cơ sở; tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý; PBGDPL thông qua các loại hình
văn hóa, văn nghệ; PBGDPL thông qua tổ chức sinh hoạt “Ngày
Phápluật”...
II. MỘT SỐ KỸ NĂNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁPLUẬT
1.
Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp (kỹ năng tuyên truyền miệng về
phápluật)
Có thể nói, đây là kỹ năng được ứng dụng nhiều trong hoạt động
PBGDPL của Bộ đội Biên phòng do đặc thù của đối tượng PBGDPL là người dân tộc
thiểu sốkhuvựcmiềnnúi,vùngbiêngiới,biểnđảo.Vìvậy,việchìnhthànhkỹnăng PBGDPL trực
tiếp có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình thực hiện hoạt động này. Trong
quá trình PBGDPL trực tiếp, cần phải rèn luyện những kỹ năng sau đây:
Thứ nhất, cần
tạo được thiện cảm ban đầu cho người nghe
Đối với đồng bào dân tộc thiểu
số, cán bộ biên phòng thường rất
có uy tín và được Nhân dân yêu
mến, quý trọng, do vậy bước đầu đã
có thể tháo bỏ hàng rào tâm lý ngăn cách giữa người nói và người nghe. Tuy nhiên, do đa phần cán bộ
làm nhiệm vụ PBGDPL là người dân
tộc Kinh, có bất đồng về ngôn ngữ và phong tục, tập
quán với đồng bào dân tộc thiểu số mà mình có nhiệm vụ PBGDPL
nên rất cần nâng cao
khả năng nghe và nói tiếng dân tộc địa phương. Điều này sẽ giúp cán bộ có thể hiểu
được dân nói và nói cho dân
hiểu những vấn đề mà người dân chưa nắm bắt được bằng ngôn ngữ phổ thông và tạo được
sự đồng cảm giữa người nói và người nghe; tạo được sự hứng thú của người nghe, củng cố được niềm tin về vấn đề đang phổ biến, giáo
dục. Đặc biệt, đối với ngườidân tộc thiểu số thì dáng vẻ
bề ngoài, trang phục, quân phục, nét mặt, cử chỉ, phong thái của Bộ đội Biên phòng có ý nghĩa quan trọng đối với việc gây thiện cảm cho ngườinghe.
Thứ hai, cần
tạo sự hấp dẫn, dễ hiểu khi nói
Để tạo ra sự hấp dẫn cho một buổi
phổ biến pháp luật trực tiếp cho người dân tộc thiểu số, không chỉ ở khía cạnh
nội dung bài giảng mà ngôn ngữ, giọng nói, tính biểu cảm của giọng nói, ngôn
ngữ hình thể tác động rất nhiều đến yếu tố này. Cách nói cần sôi nổi, phóng
khoáng và trẻ trung để phù hợp và gần gũi hơn với đối tượng tuyên truyền. Có
thể truyền cảm hứng cho người dân tộc thiểu số bằng những câu chuyện liên quan
đến nghề nghiệp, tình yêu, âm nhạc hoặc văn hóa dân tộc..., thậm chí có thể sử
dụng ca dao, hò, vè hoặc ngôn ngữ bình dân để có sự tương tác giữa người nói và
người nghe. Nên đơn giản hoá các khái niệm pháp lý mang tính nguyên tắc, quy
định, đưa chúng trở thành những thuật ngữ giản dị, dễ hiểu sẽ giúp cho các điều
luật trở nên gần gũi, đời thường và dễ tiếp thu hơn. Ngoài ra, cán bộ biên
phòng không nên giải thích, phân tích các khái niệm một cách quá trừu tượng mà
nên thay thế bằng việc đặt khái niệm đó trong một hoàn cảnh, tình huống cụ thể
gần gũi với đời sống, sinh hoạt và cách nghĩ, phong tục, tập quán của người dân
tộc thiểu số thì sẽ tạo sự hấp dẫn và hiệu quả hơn.
Thứ ba,
cần sử dụng phương pháp thuyết phục trong khi PBGDPL
Đây là một phương pháp rất hiệu quả
nằm trong nhóm ba phương pháp của phổ biến pháp luật trực tiếp là thuyết phục, nêu gương và ám thị. Các điều luật, quy tắc nên được
dẫn dắt từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp và được chứng minh bằng các
hình ảnh, số liệu, sự kiện và nhân chứng cụ thể, tiêu biểu và sát với vấn đề
cần chứng minh. Ví dụ như muốn chứng minh về việc đi xe với tốc độ cao hoặc sử
dụng rượu, bia dễ gây tai nạn, cán bộ biên phòng nên dẫn chứng bằng những bức
ảnh, câu chuyện cho thấy hậu quả của các phương tiện gây tai nạn khi tham gia
giao thông với tốc độ cao, lạng lách, đánh võng hoặc sử dụng rượu, bia quá nồng
độ cho phép. Từ đó, cán bộ sẽ giảng giải điều luật để đối tượng được tuyên
truyền hiểu đúng vấn đề. Đặc biệt, đối với người dân tộc thiểu số, tính hiếu
kì, hay hỏi hoặc lập luận, nói lý “theo kiểu đồng bào” cũng là một đặc điểm để
cán bộ tranh thủ đẩy mạnh tính tương tác hai chiều, qua đó có thể hiểu được đối
tượng được tuyên truyền, phổ biến lĩnh hội được kiến thức đến đâu, muốn hiểu
sâu về vấn đề gì để từ đó linh hoạt thay đổi phương pháp, giúp buổi phổ biến
pháp luật trực tiếp sôi nổi, hấp dẫn, hiệu quả hơn.
2. Kỹnăngxâydựngtàiliệuphổbiến,giáodụcphápluật
Đây là kỹ năng PBGDPL thông qua việc
đọc, nghe và xem. Tài liệu PBGDPL rất đa dạng như: sách, tờ rơi, tờ gấp, băng
tiếng, băng hình, kịch bản…; đóng vai trò quan trọng trong hoạt động PBGDPL,
đồng thời là cẩm nang, phương tiện, công cụ hoạt động của những người làm công
tác PBGDPL và là cầu nối đưa pháp luật đến với đối tượng được phổ biến. Tài
liệu PBGDPL có đối tượng sử dụng rất rộng rãi từ báo cáo viên pháp luật, tuyên
truyền viên pháp luật, cán bộ, công chức, viên chức đến người dân, trong đó có
người dân tộc thiểu số. Sau đây là một số kỹ năng biên soạn tài liệu PBGDPL cho
người dân tộc thiểu số.
2.1.Sách phổ biến, giáo dục
phápluật
SáchPBGDPLlàmộtloạitàiliệuphổbiếnphápluật.Phổbiếnphápluậtthôngqua
văn hoá đọc của người đọc sách là hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật đặc thù với nhiều thể loại như: sách nghiên cứu pháp luật, sách dạy học pháp luật, sách/sổ tay pháp luật phổ thông, sách hỏi - đáp pháp
luật, sách hệ thống văn bản pháp luật... Tuy nhiên,đốivới ngườidânởvùngdântộcthiểusố,miền núi, vùng biên giới, biển đảo thường là
lao động tự do, thời gian làm việc
chủ yếu thường không ổn định, trình độ văn hóa không đồng đều nên việc
phổ biến những nội dung,kiếnthứcphápluậtthiếtyếuthôngquaviệcđọcsáchchưamanglạihiệuquảcao.
Để nâng cao hiệu quả
PBGDPL, một trong các vấn đề cần quan tâm
là nội dung sách cho người dân tộc thiểu số cần phải viết đơn giản, dễ
hiểu, bố cục rõ ràng, ngôn ngữ giản
dị và cần tập trung vào các nội dung, vấn đề gắn liền với nghĩa vụ, quyền lợi của
đồng bào dân tộc thiểu số, pháp luật về biên giới, biển đảo... Về hình thức, sách được
trình bày đẹp, màu sắc phong phú, hình ảnh bắt mắt, độ dày vừa phải và nếu được thì có thể in song
ngữ gồm tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số nơi đối tượng PBGDPL sinh sống
để hướng tới nhiều đối tượng độc giảhơn.
2.2.Tờ gấp phápluật
2.2.1.
Tờ gấp pháp luật cần nội dung ngắn
gọn, rõ ràng trên khuôn khổ một tờ giấy, hình thức cần hấp dẫn (in nhiều màu,
có tranh, ảnh minh họa), thuận tiện trong sử dụng, tiết kiệm thời gian cho
người đọc. Có thể biên soạn tờ gấp với nhiều kích thước khác nhau tùy theo độ
dài của nội dung nhưng kích thước phổ biến, giá thành rẻ là khổ giấy A4 khi gấp
lại được 3 bình với kích thước 21cm x 10cm. Bố cục tờ gấp gồm: bìa trước, bìa
sau, phần nội dung cho các trang, trám tranh, ảnh cho các trang, đặt tít của tờ
gấp, tít của từng phần, chọn chữ, chọn màu và phân bố, làm vi-nhét cho từng
trang. Bìa trước ghi tên của tờ gấp và tranh hoặc ảnh nhằm gây ấn tượng về chủ
đề của tờ gấp. Bìa sau cũng có tác dụng làm tăng tính thẩm mỹ của tờ gấp bằng
những khẩu hiệu, tranh, ảnh… Khi phân bố nội dung cho các trang, cố gắng để mỗi
trang thể hiện được một phần nội dung của tờ gấp và giữa các phần có thứ tự
lôgíc với nhau. Tít của từng phần có thể theo tên chương, mục của văn bản hoặc
tự đặt sát với nội dung.
2.2.2. Tờ
gấp pháp luật là loại tài liệu PBGDPL được sử dụng khá phổ thông tại các khu
vực miền núi, biên giới, biển đảo. Với ưu điểm của mình, tờ gấp pháp luật có
đối tượng sử dụng rộng rãi và là một trong những hình thức tuyên truyền pháp
luật hiệu quả. Tuy nhiên, loại tài liệu này cũng có hạn chế là nội dung ngắn và
lượng thông tin ít cũng như giá trị sử dụng không lâu bằng các loại tài liệu
khác. Khi biên soạn nội dung cho tờ gấp pháp luật, cần căn cứ vào nhu cầu và đối
tượng sử dụng để lựa chọn những nội dung pháp luật phù hợp với từng đốitượng.
Ví dụ, đối với người dân tộc thiểu số đang trong độ tuổi
lập gia đình, tờ gấp tuyên truyền về Luật Hôn nhân và gia đình sẽ bao gồm phần
chung của Luật và phần riêng là những quy định cụ thể cho đối tượng nữ giới và
nam giới. Cách thức thể hiện có thể là những câu hỏi - đáp trực tiếp hoặc đưa
ra những tình huống pháp luật gần với thực trạng, phong tục, tập quán của vùng
dân tộc đó để giải thích, tuyên truyền vàđượcdịchratiếngdântộcthiểusốbảnđịahoặcsongngữ.Việcchọnảnh,bốtrí
màu, tít cho từng phần cần lựa chọn và trình bày kỹ để tăng tính thẩm mỹ cho tờ
gấp cũng như tạo được ấn tượng cho người đọc.
2.3. Băng tiếng,
bănghình
Đâylàloạitàiliệutuyêntruyền,PBGDPLđượcđánhgiárấthiệuquả,dùng
phương pháp truyền tải kiến thức pháp luật đến đối tượng được tuyên truyền
thôngqua tiếng nói, hình ảnh. Để xây dựng loại tài liệu này, có thể dựa
vào các nguồn băng hình, băng tiếng có nội dung PBGDPL do Ủy ban Dân tộc, Bộ
Thông tin và Truyền thông, Cục Tuyên huấn (Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân
Việt Nam), Cục Chính trị (Bộ đội Biên phòng) cấp phát hoặc trích sao từ các
chuyên mục “Vì chủ quyền an ninh biên giới” của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng
tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, cũng có thể tự mình viết kịch bản và xây dựng nội
dung bảo đảm phù hợp với mục đích, đối tượng, đề tài cần tuyên truyền, bảo đảm
bố cục rõ ràng, nội dung pháp luật chínhxác...
Bên cạnh đó, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho
người dânvùng dân tộc thiểu số, miền núi,
vùng biên giới, biển đảo còn được
thực hiện có hiệu quả thông qua hoạt động của 45 Đội tuyên truyền văn hóa Bộ
đội Biên phòng tỉnh và gần400 Tổ
tuyêntruyềnvănhóacủacácđồnbiênphòngbằnghìnhthứcphátthanh,chiếuphimlưu động.
Hiện nay, trung bình mỗi tỉnh, thành phố biên giới, biển đảo, Bộ đội Biên phòng đều phối hợp với các cơ quan chức năng và chính quyền
địa phương xây dựng từ 3 đến
5cụmloatruyềnthanhtạikhuvựcbiêngiới,phátthanhđềuđặnvàocácngàycuốituần bằng tiếng Việt và tiếng dân tộc bản
địa. Khi xây dựng băng tiếng, băng hình để trình
chiếu,pháttrênhệthốngloaphátthanh,truyềnthanhtạicácxãbiêngiới,cầnlưuýcách
trình bày hấp dẫn dưới nhiều hình
thức như: hỏi - đáp, tình huống, tiểu phẩm,
phóng sự, giới thiệu văn bản, nghiên cứu traođổi...
3. Kỹ
năng xây dựng Tủ sách phápluật
Tủ sách pháp
luật là nơi lưu giữ, khai thác và sử dụng sách, báo, tài liệu pháp luật để phục
vụ nhu cầu công tác, nghiên cứu, học tập, tìm hiểu của người đọc. Nếu xây dựng
và tổ chức tốt hoạt động của Tủ sách pháp luật sẽ giúp tăng cường PBGDPL ở cơ sở,
đồng thời góp phần trang bị kiến thức pháp luật cho cán bộ và Nhân dân. Hiện
nay, hầu hết các tỉnh, thành phố đã xây dựng Tủ sách pháp luật ở 100% đơn vị cấp
xã. Cả nước có 44 thư viện Bộ Chỉ huy biên phòng cấp tỉnh và hơn 400 thư viện,
tủ sách đồn biên phòng, được trang bị từ 60 đến 100 đầu sách pháp luật/thư viện/Tủ
sách và nhiều đĩa DVD, CD, sách, báo, tạp chí… Cùng với đó, các đơn vị biên
phòng đã phối hợp với các địa phương củng cố, nâng cấp Tủ sách pháp luật ở cấp
xã; tủ sách, ngăn sách pháp luật tại trung tâm học tập cộng đồng, điểm Bưu điện
- Văn hóa xã, trường học,…
Khi
xây dựng, bổ sung sách, tài liệu pháp luật cho Tủ sách pháp luật, các đơn vị
biên phòng nên căn cứ chức năng, nhiệm vụ, tình hình thực tiễn của đơn vị mình
để rà soát, bổ sung, hệ thống hóa sách, báo, tài liệu bảo đảm phù hợp, thiết thực
với đồng bào dân tộc thiểu số trên địabàn.
Vị trí đặt Tủ sách pháp luật thường là tại các phòng Hồ
Chí Minh của các đồn biên phòng. Việc sắp xếp thư mục sách, giá sách cần đảm
bảo khoa học, hợp lý để dễ dàng tra cứu và tìm sách. Các đầu sách cần được bổ
sung hàng năm, nhất là sách, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ, giải đáp pháp luật.
Tại các đồn biên phòng, do đặc thù địa bàn các xóm, bản cách xa nhau và xa đồn
biên phòng, các đơn vị nên tăng cường việc thông tin, giới thiệu về Tủ sách,
nâng cao hiệu quả khai thác sách và đều đặn luân chuyển sách từ thư viện của
đồn biên phòng đến thư viện, Tủ sách của các bản đặt tại nhà văn hóa hoặc nhà
sinh hoạt cộng đồng của người dân. Đặc biệt, cần thu hút sự tham gia của người
dân tộc thiểu số trong việc xây dựng,
duy trì hoạt động của các Tủ sách pháp luật và tham gia luân chuyểnsách.
4.
Kỹ năng xây dựng Câu lạc bộ phápluật
Câu lạc bộ pháp luật là tổ chức được thành lập và hoạt
động trên tinh thần tự
nguyệnthamgiacủanhữngngườicónhucầutìmhiểuphápluật,tíchcựcđấutranhbảo vệ pháp
luật, nhiệt tình tuyên truyền, PBGDPL. Đây là hình thức đặc biệt thích hợp để
PBGDPL cho ngườidân tộc thiểu số. Thông qua sinh hoạt của Câu lạc bộ nhằm góp
phần nâng cao hiểu biết pháp luật, gây dựng lòng tin đối với pháp luật, nâng
caoýthứctôntrọngvàchấphànhphápluật,hìnhthànhthóiquensốngvàlàmviệctheo phápluậtcủacáchộiviênnóiriêngvàtoànthểNhân
dânnóichungtạiđịabàn.
Khi xây dựng, thành
lập Câu lạc bộ pháp luật, cần khảo
sát, lựa chọn địa điểm nơi thành lập Câu
lạc bộ kỹ lưỡng trên cơ sở việc phân tích, đánh giá tình hình chính
trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội,
điều kiện dân trí, mức độ hiểu biết pháp luật của người dân trên địa bàn nói
chung để từ đó có cơ sở xây dựng kế
hoạch thành lập Câu lạc bộ. Tiếp đó, cần đẩy mạnh công tác vận động người dân
tộc thiểu số tham gia thành lập, xây dựng dự thảo Điều lệ, Quy chế tổ chức và
hoạt động của Câu lạc bộ, ra quyết định thành lập Câu lạc bộ. Việc tổ chức Lễ
ra mắt Câu lạc bộ cũng cần được tiến hành trang trọng để công khai hóa tổ chức,
chínhthứcđưaCâulạcbộđivàohoạtđộng.HộiviênthamgiaCâulạcbộcóthểlà
cán bộ, công chức xã, cán bộ biên phòng phụ trách cơ sở, hòa giải viên, trưởng
thôn, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số...
Về tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ, cần căn cứ vào
tình hình địa bàn cụ thể và ý chí của hội viên để tiến hành cho phù hợp. Ngoài
những nội dung pháp luật mà mọi đối tượng đều cần biết như dân sự, hình sự, đất
đai... thì với từng đối tượng sẽ tập trung phổ biến các lĩnh vực pháp luật
riêng. Ví dụ: đối tượng là thanh, thiếu niên dân tộc thiểu số thì tập trung phổ
biến về Luật Giáo dục, Bộ luật Lao động, Pháp lệnh Dân số, Luật Hôn nhân và gia
đình, sức khoẻ sinh sản, chính sách xoá đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế
vùng dân tộc thiểu số, miềnnúi...
Hình thức sinh hoạt của Câu lạc bộ cần đa dạng như: tổ
chức các buổi nói chuyện, tọa đàm chuyên đề về nội dung pháp luật, giới thiệu
văn bản pháp luật mới; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật, hái hoa dân chủ, giải
đáp pháp luật, thi sáng tác các tác phẩm văn hoá, văn nghệ có nội dung pháp
luật; xây dựng các tiểu phẩm văn hoá, văn nghệ (thơ, ca, hò, vè...) có nội dung
pháp luật để biểu diễn; cung cấp thông tin, tư liệu pháp luật (sách, báo, văn
bản pháp luật) phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương; tổ chức các buổi
giao lưu pháp luật với các loại hình Câu lạc bộ khác, các cơ quan, ban, ngành,
đoàn thể tại đơn vị, địa phương...
5. Kỹ
năng phổbiến, giáodục
phápluật thông qua
tổchức thi tìmhiểu phápluật
Thi tìm hiểu pháp
luật là hình thức tương đối phổ biến hiện
đang được áp dụng rộng rãi, có khả năng thu hút được nhiều đối tượng tham gia ở mọi thành phần, mọi lứa
tuổi. Thi tìm hiểu pháp luật được tổ chức với nhiều hình thức khác nhau như thi nói, thi viết, thi trắc
nghiệm dưới các dạng cụ thể:
hỏi đáp trực tiếp, thi biểu diễn sân khấu, tiểu phẩm, thi sáng tác… Tuy nhiên,
với trình độ dân trí của
người dân tộc thiểu số khu vực miền núi,
biên giới, biển đảo còn hạn chế, đời sống còn
nhiều khó khăn, thời gian chính
là dành cho lao động, sản
xuất… thì việc áp dụng hình thức
PBGDPL này để đạt
hiệu quả rất khó khăn và thực tế
chưa thực sự đạt được kết quả như mong muốn. Nếu muốn tổ chức các cuộc thi
tìm hiểu pháp luật cho
người dân tộc thiểu số khu vực miền
núi, biên giới, biển đảo thì cần lưu ý
một số vấn đề sauđây:
Lựa chọn chủ đề thi:
Việc lựa chọn chủ đề cần phải thiết thực và phù hợp với nhu cầu của người dân
tộc thiểu số theo hướng tập trung vào những vấn đề liên quan đến cuộc sống, lao
động, học tập hàng ngày của đối tượng.
Lựa chọn hình thức
thi: Là việc căn cứ vào nội dung, chủ đề, đối tượng tham gia,
mục tiêu của cuộc thi để lựa chọn hình thức thi phù hợp. Ngoài hình thức thi
viết truyền thống, còn có các hình thức thi tìm hiểu pháp luật khác như: Thi
vấn đáp hoặc trả lời trực tiếp, thi hát múa, hùng biện, thi tiểu phẩm, thi vẽ
tranh, thi hái hoa dân chủ, thi theo chủ đề có nội dung liên quan tới nghề
nghiệp, công việc của đối tượng dự thi như: “Hòa giải viên giỏi khu vực biên
giới”, “Công chức Tư pháp - Hộ tịch giỏi xã biên giới”, “Tuyên truyền viên pháp
luật giỏi ở cơ sở”...
Phát động và tổng kết
cuộc thi: Là việc tổ chức Lễ phát động và Lễ tổng kết cuộc thi
với sự hiện diện của lãnh đạo chính quyền địa phương, lãnh đạo của các cơ quan
thành viên Ban tổ chức cuộc thi, các trưởng thôn, bản, các đoàn thể quần chúng
và đặc biệt là đông đảo người dân tộc thiểu số... Lễ phát động nhằm thông báo
thể lệ, nội dung cuộc thi tới người dân trên địa bàn, nhất là đối tượng của
cuộc thi. Lễ tổng kết nhằm đánh giá toàn diện kết quả cuộc thi, rút kinh nghiệm
về phương pháp tổ chức và triển khai cuộc thi, đồng thời trao giải thưởng cho
những người đạtgiải.
Tuyên truyền về cuộc thi: Có
thể tuyên truyền về cuộc thi thông qua giới thiệu trực tiếp tại Lễ phát động, Lễ tổng kết cuộc thi hoặc
qua hệ thống loa, đài truyền thanh ở cơ sở, áp phích thông báo ở những nơi công cộng để tạo sự quan tâm của người dân trên địa bàn. Để
tạo được ấn tượng sâu sắc đối với người dân
tộc thiểu số về cuộc thi, Ban Tổ chức
cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nội dung, hình thức và các điều kiện hỗ trợ cần thiết như: hội trường, âm thanh,
ánh sáng, lôgô cuộc thi, băng
rôn, cổ động viên, người dẫn chương
trình và khách mời tham gia... Kết
quả cuộc thi cần được công bố
rộng rãi, bằng nhiều hình thức để vừa
phát huy, nhân rộng kết quả cuộc thi, động viên những người
dự thi, vừa khuyến khích, cổ vũ Nhân dân tìm hiểu pháp luật, chấp
hành, tuân thủ phápluật.
6. Kỹ
năng sân khấu hóa nội dung phổ biến, giáo dục phápluật
Sân khấu hóa nội dung
PBGDPL là hình thức phổ biến pháp luật kết hợp với sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, có sức hấp dẫn và mang lại hiệu quả cao, đặc biệt phù hợp với người
dân tộc thiểu số. Hình thức sân khấu hóa thường được áp dụng đối với các Hội
thi dưới dạng thi vấn đáp, trắc nghiệm; được các đơn vị biên
phòng phối hợp với tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội
Phụ nữ, Hội Nông dân… các xã, phường, thị trấn biên giới, biển đảo tổ chức thường niên vào các dịp kỷ niệm ngày lễ lớn, “Ngày Pháp luật” hoặc lồng ghép trong một số hoạt động tại địa phương. Thông
quahìnhthứcsânkhấuhóa,nhữngnộidungcủaphápluậtkhôngcònkhôcứngmà
gần gũi hơn với cuộc sống thường ngày, trở nên dễ nhớ, dễ hiểu đối với người dân nói chung và người dân
tộc thiểu số nói riêng.
Tùy từng dạng thi mà việc sân khấu hóa nội dung PBGDPL
đòi hỏi những kỹ năng cơ bản khácnhau:
Thi vấn đáp: Đối
tượng dự thi phải trả lời trực tiếp những câu hỏi của Ban Giám khảo về những
nội dung pháp luật cụ thể theo nội dung đề ra. Vì vậy, đòi hỏi thí sinh phải
nắm chắc kiến thức, có khả năng diễn đạt lưu loát, mạch lạc, rõ ràng và có tính
thuyết phục cao.
Thi trắc nghiệm: Đối
tượng dự thi phải đưa ra phương án lựa chọn chính xác trước những đáp án được
Ban Giám khảo đưa ra. Nên người dự thi phải có phương pháp luận vững vàng,
nhanh chóng loại trừ các phương án sai trong thời gian nhanh nhất.
Thi qua hình thức sân
khấu: Đối tượng dự thi cần có năng khiếu văn hóa, văn nghệ để
có thể thể hiện kiến thức, sự hiểu biết pháp luật và khả năng ứng xử thông qua
cách trình bày dưới dạng tiểu phẩm, kịch ngắn, thơ ca, hò, vè…, qua đó truyền
tải những thông điệp pháp luật đến ngườixem.
Khi tổ chức hội thi, để hướng
tới đối tượng là người dân tộc thiểu số, cần lựa chọn thành phần các đội dự thi,
chủ đề hội thi cùng các câu hỏi
đưa ra cũng cần sát với đời sống, học tập, công tác của đối tượng để tạo sự hứng khởi, sự
liên tưởng từ thực tế vào sân khấu, phát huy sự
sáng tạo của đối tượng. Tổ chức hội thi tùy theo mức độ, cấp độ
của địa phương để có hình thức, sự đầu tư phù hợp, tránh lãng
phí. Ngoài việc nâng cao trình độ, hiểu biết
pháp luật cho thành viên các đội dự
thi thì hội thi còn là dịp tuyên truyền
pháp luật đến các cổ động viên và người xem. Thông qua việc theo dõi trực
tiếp tại hội thi, nghe giải đáp các tình huống pháp luật liên quan đến cuộc sống thường ngày, ngườidân tộc thiểu số có dịp tiếp cận với các kiến thức pháp luật, trao đổi,
thảo luận với bạn bè, đồng nghiệp,
người thân, qua đó, nâng cao hiểu biết, ý thức
chấp hành pháp luật.
Đốivớicáctổ,độituyêntruyềnvănhóacủaBộđộiBiênphòng,việcxâydựngcác
chủ đề, chủ điểm, tình huống pháp luật thành tiểu
phẩm, kịch ngắn để thông qua đó tuyên truyền, PBGDPL cho đồng bào dân
tộc thiểu số bằng hình thức sân khấu
là rất hiệu quả, đáp ứng tâm lý mong muốn hưởng thụ các sản phẩm văn hóa
của người dân. Kịch bản PBGDPL có thể đặt các nhà biên kịchviếthoặcdochínhcáccánbộtuyêntruyềnvănhóatronglựclượngBộđộiBiên
phòng viết. Chủ đề của các tiểu phẩm, kịch ngắn thường là biểu dương nhân tố
điển hình trong thi hành, chấp hành pháp luật, đồng thời phê phán những hành vi
vi phạm pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống
tội phạm.
Điều đáng ghi nhận là do
các chiến sỹ biên phòng có kinh nghiệm biểu diễn tại các xóm, bản biên giới,
gắn bó với đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số địa phương, am hiểunhiềunétvănhóacủacácdântộcởbiên giớinêncácvởkịchngắn,tiểuphẩm“cây
đồnlábản”docácchiếnsỹbiênphòngtựbiêntựdiễndễđạtđượchiệuquả“4trong1”
là mang đến tiếng cười cho đồng bào; tôn vinh được giá trị văn hóa truyền thống
của mỗi dân tộc; bảo tồn, phát huy được những làn điệu dân ca, dân vũ của dân
tộc thiểu số vàPBGDPLhiệuquả,sátvớinhữngnộidung,vấnđềmàngườidânquantâm.
7. Kỹ
năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua pa-nô, khẩu hiệu, áp - phích
Tại vùng dân tộc thiểu số, miền núi, khu vực biên giới,
biển đảo, vai trò của tuyên truyền cổ động trực quan là hết sức cần thiết trong
việc thực hiện chức năng tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách sinh động đến người dân tộc
thiểu số một cách hấp dẫn, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ thực hiện…
Pa-nô là
hình thức tuyên truyền cổ động trực quan hiệu quả với hai loại: Pa-nô lá và Pa-nô
lớn. Pa-nô lá (thường có kích thước 0,7m x 1,5m) treo trên trụ đèn đường hoặc
được lắp dựng trụ sắt bên đường, nội dung được thể hiện bằng chữ và hình, nội
dung súc tích, cô đọng. Khi treo pa-nô lá cần lưu ý đến chiều cao an toàn giao
thông, tránh treo quá thấp. Pa-nô lớn (thường có kích thước từ 4m x 6m hoặc 9m
x 14m trở lên) là hình thức tuyên truyền cố định bằng hình ảnh lớn, tầm nhìn xa
làm nổi bật nội dung cần tuyên truyền… Tùy tình hình của địa phương để xác định
vị trí đặt pa-nô dễ nhìn, trang trọng và có tính thẩm mỹ cao, tầm nhìn không bị
che khuất hay cản trở giaothông.
Áp-phích (hay
tranh cổ động) là một loại hình nghệ thuật mang đậm tính chất kêu gọi, cổ vũ,
khích lệ, tác động trực tiếp tới người dân vùng dân tộc thiểu số, miền núi,
vùng biên giới, biển đảo về một sự việc hay một mục tiêu hành động. Áp-phích
cần được dán tại các vị trí bắt mắt, trang trọng như các phòng họp, cổng hội
trường, trụ sở cơ quan công quyền hoặc các bảng tin Nhân dân… Vị trí dán cần
vừa tầm mắt, không cao quá và cũng không thấp quá để đạt hiệu quả cao hơn.
Cờ dây, băng rôn khi
treo ngang đường phải đảm bảo an toàn giao thông (từ4,5m -
5m)vàphảinghiêmtúc,trangtrọng.Dođiềukiệnthờitiếtnắng,mưanênkhitreo băng rôn
bằng bạt in thì phải luồn dây bên trên băng rôn và dùng nẹp kẹp giữa để tránh
việc băng rôn chùng xuống không thấy khẩu hiệu tuyên truyền. Nội dung khẩu hiệu
tuyên truyền, PBGDPL in trên băng rôn cần bám sát nội dung hướng dẫn của các
ngành chức năng. Khi cắm cờ hay buộc cờ phướn cần đảm bảo thẩm mỹ, tránh tình trạng
cắm cờ hời hợt. Khoảng cách cắm cần phân bố đều, không dày quá hoặc thưa quá
hoặc cắm không thẳng hàng, thẳng lối làm mất thẩm mỹ, thiếu trangtrọng.
8.
Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tư vấn pháp luật, trợ giúp
pháplý
Tư vấn pháp luật, trợ
giúp pháp lý nhằm mục đích cung cấp dịch vụ pháp lý, giải
đáp pháp luật, hướng dẫn người dân tộc thiểu số ứng xử đúng pháp luật để thực
hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, hướng dẫn họ phương pháp, cách
thức xử sự trong những hoàn cảnh cụ thể phù hợp với pháp luật và tránh được
những hậu quả pháp lý bất lợi, từ đó nâng cao hiểu biết pháp luật cho họ. Mỗi
cán bộ biên phòng làm công tác PBGDPL cần có kiến thức pháp lý vững vàng, hiểu
biết chuyên sâu về lĩnh vực tư vấn, có khả năng tuyên truyền miệng cũng như
biên soạn tài liệu pháp luật tốt; nhiệt tình, tâm huyết, hòa đồng và hiểu biết
về văn hóa, phong tục, tập quán dân tộc của người dân tộc thiểu số.
Đối với người dân tộc thiểu số, khi tiến hành tư vấn pháp
luật, trợ giúp pháp lý, trước hết, cần tìm hiểu đối tượng để xác định rõ mục
đích, nhu cầu của họ, từ đó chọn lọc và tìm ra mục đích, vấn đề chính mà người
dân tộc thiểu số cần được tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý. Nội dung tư vấn
pháp luật, trợ giúp pháp lý cần được chuẩn bị cẩn thận, chính xác với nhiều
phương án về hình thức như: thuyết trình, hỏi đáp, đóng vai diễn các tình huống
pháp luật... và có các phương tiện hỗ trợ cần thiết. Khi tư vấn pháp luật, trợ
giúp pháp lý cần thể hiện sự tự tin, linh hoạt và tránh gượng ép. Đối với người
dân tộc thiểu số thì cần liên hệ đến một số vấn đề pháp luật thiết thực đối
với cuộc sống, học tập và công việc hiện
tại củahọ.
9.
Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hòa giải ở cơsở
Hòa
giải ở cơ sở
là hình thức PBGDPL đã góp phần hạn chế
vi phạm phápluật, giảm thiểu số vụ, việc
tranh chấp phải đưa lên
cơ quan có thẩm quyền
và Tòa án Nhân dân giải quyết trong cả nước nói chung
và khu vực dân tộc thiểu
số, miền núi, vùng biên giới, biển đảo nói riêng.
Tại các xóm, bản biên giới,
mỗi cán bộbiên phòng là thành phần nòng
cốt trong các tổ hòa giải nên cần vận
dụng kiến thứcphápluật,đạođứcxãhội,bằngsựnêugươngcủamìnhvàkinhnghiệmcuộc
sống để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục, cảm hoá các bên
tranh chấp từng bước giải quyết
mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm
pháp luật nhằm đạt được thoả
thuận phù hợp với pháp luật
và đạo đức xã hội, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự antoànxãhộiởkhuvựcmiềnnúi,biêngiới,biểnđảo.
Với hình thức này, cán bộ biên phòng làm công tác hòa
giải cần có kỹ năng tiếp cận, tìm hiểu đối tượng để nắm bắt thông tin về vụ,
việc hòa giải và nhu cầu của các bên như: kỹ năng giao tiếp; kỹ năng lắng nghe
đối tượng trình bày; kỹ năng yêu cầu các bên cung cấp thông tin, tài liệu về
vụ, việc; kỹ năng nghiên cứu, phân tích vụ, việc để tìm ra mâu thuẫn, xung đột,
nguyên nhân chủ yếu và cách thức giải quyết mâu thuẫn, xung đột… Trong khi tiến
hành hòa giải, cán bộ biên phòng có rất nhiều cơ hội để lồng ghép PBGDPL, qua
đó các bên tranh chấp và những người có liên quan được nâng cao hiểu biết pháp
luật và ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật.
Việc lồng ghép hoạt động hòa giải với hoạt động PBGDPL
cần thực hiện các bước như: Trực tiếp nắm rõ nội dung tranh chấp, nguyên nhân
phát sinh tranh chấp và yêu cầu cụ thể của các bên tranh chấp, kết hợp PBGDPL.
Từ đó, xác định tính chất của tranh chấp, lựa chọn văn bản có liên quan đến
tranh chấp để vận dụng các quy định đó vào việc giải quyết tranh chấp. Sau các
bước trên, cán bộ biên phòng làm công tác hòa giải cần gặp gỡ từng bên tranh
chấp để hòa giải kết hợp với việc giải thích pháp luật giúp họ nhận thức được
các quyền và nghĩa vụ của mình. Cuối cùng là tổ chức cho các bên tranh chấp gặp
gỡ để thảo luận với nhau việc giải quyết tranh chấp.
Trên đây là một số kỹ năng PBGDPL cơ bản mà lực lượng Bộ
đội Biên phòng đã và đang thực hiện tại vùng dân tộc thiểu số, miền núi, khu
vực biên giới, biển đảo. Với vai trò nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ và an ninh biên giới quốc gia, lực lượng Bộ đội Biên phòng quyết
tâm đẩy mạnh công tác PBGDPL và tăng cường các biện pháp, mô hình, kỹ năng
PBGDPL mang tính đồng bộ, đặc thù nhằm từng bước nâng cao nhận thức của người
dân tộc thiểu số và đồng bào khu vực biên giới nói chung. Qua đó, làm chuyển
biến hành vi, ý thức tự giác chấp hành pháp luật, đồng thời hạn chế hành vi vi
phạm pháp luật của người dân tộc thiểu số, góp phần ổn định chính trị và cuộc
sống trên địa bàn biên giới, biển đảo.
[1] Các Quyết định
của Thủ tướng Chính phủ: Số 27/2013/QĐ-TTg ngày 19/5/2013 quy định về thành
phần và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng phối hợp PBGDPL, Số 42/2017/QĐ-TTg
ngày 20/9/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg;
Số 1060/QĐ-TTg ngày 05/7/2013 về thành lập Hội đồng phối hợp PBGDPL Trung ương;
Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 27/01/2014 của Bộ Tài chính và
Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí
ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác PBGDPL và chuẩn tiếp cận pháp luật của
người dân tại cơ sở; Các Thông tư của Bộ trưởng Bộ Tư pháp: Số 12/2013/TT-BTP
ngày 07/8/2013 quy định quy trình ra thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp
luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành; Số 21/2013/TT-BTP ngày
18/12/2013 quy định trình tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm BCVPL; công nhận,
cho thôi làm TTVPL và một số biện pháp bảo đảm hoạt động của BCVPL, TTVPL; Số
10/2016/TT-BTP ngày 22/7/2016 về BCVPL, TTVPL; Số 03/2018/TT-BTP ngày 10/03/2018
quy định Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL;
[2]Dương Thị Hồng Nhung, “Khai thác nét đẹp văn hóa dân
toọc thông qua các lễ hội truyền thống Việt Nam để phát triển du lịch”, Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, đăng ngày 22/11/2021. https://dangcongsan.vn/van-hoa-vung-sau-vung-xa-bien-gioi-hai-dao-vung-dan-toc-thieu-so/khat-vong-vuon-len/khai-thac-net-dep-van-hoa-dan-toc-thong-qua-cac-le-hoi-truyen-thong-viet-nam-de-phat-trien-du-lich-597524.html.
[3] Báo cáo
viên nêu kho viên ờng bao gồm hai lĩnh vực: phổ biến quan tâm, cuan tâm, ên ờng
.
[4]Một cốt chuyện tốt cần các yếu tố hỗ trợ để nó trở nên
đáng tin, đó là các chi tiết như thời gian, địa điểm xảy ra câu chuyện, đặc
điểm bên ngoài của những nhân vật trong chuyện, những quan sát về diễn biến nội
tâm của nhân vật, những yếu tố ngoại cảnh tác động đến nhân vật trong câu
chuyện, những vai phụ trong chuyện…
[5]Năm 2019, nước ta có 845 cơ quan báo chí, 67 đài phát thanh – truyền
hình, 1.525 Trang tin điện tử tổng hợp, 420 mạng xã hội…
[6]Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh đã được Quốc hội thông qua, chương trình xây
dựng Nghị định của Chính phủ, Chương trình công tác của cơ quan, đơn vị…
[7] Truyền thông được chia làm ba loại: (i) Truyền thông cá nhân; (ii) Truyền thông tập thể và (iii)
Truyền thông đại chúng.
[8] Khoản 3 Điều 11 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.
[9] Bài viết của đồng chí Trương Vĩnh Trọng, Bí thư Trung
ương Đảng – Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật theo tinh thần của Chỉ thị số 32/CT-TW của Ban Bí thư
Trung ương Đảng, Xây dựng hệ thống pháp luật và nền tư pháp Nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2005, trang 279.
0 Nhận xét