CHUYÊN ĐỀ 1

Vị trí, vai trò, ý nghĩa và chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

 

I. Vị trí, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

1. PBGDPL tác động vào ý thức của đối tượng

Với nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, PBGDPL giúp nâng cao nhận thức và tác động trực tiếp đến ý thức của của người được tác động.

- Hoạt động PBGDPL tạo ra sự quan tâm đối với pháp luật. Từ chỗ không để ý đến pháp luật, đối tượng được PBGDPL bắt đầu dành sự quan tâm của mình đối với pháp luật, đồng thời sự hiểu biết về pháp luật cũng ngày càng được nâng cao.

- Thông qua PBGDPL tạo được niềm tin vào pháp luật. Khi đã có niềm tin, đối tượng sẽ biết tự điều chỉnh hành vi của mình theo đúng các quy định của pháp luật. Không những thế, họ còn có ý thức phê phán, lên án những hành vi vi phạm, đi ngược lại với các quy định của pháp luật.

2. PBGDPL là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục chính trị tư tưởng

Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức chính trị. Vì vậy, khi thực hiện PBGDPL sẽ tạo ra khả năng cho việc giáo dục chính trị, hình thành ở đối tượng giáo dục những hiểu biết nhất định về chính trị. Ngược lại, giáo dục chính trị có những sự đan xen nhất định trong nội dung của mình những tư tưởng pháp lý.

3. Giáo dục ý thức pháp luật có quan hệ chặt chẽ với đạo đức

Pháp luật là cơ sở của việc hình thành đạo đức mới. Các nguyên tắc căn bản của đạo đức mới được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật. Do đó, pháp luật bảo vệ và phát triển đạo đức, bảo vệ tính công bằng, chủ nghĩa nhân đạo, tự do, lòng tin và lương tâm con người. Giáo dục đạo đức tạo nên những tiền đề cần thiết để hình thành ở công dân sự tôn trọng sâu sắc đối với pháp luật. Ngược lại, giáo dục pháp luật tạo ra khả năng thiết lập trong đời sống thực tiễn thường ngày những nguyên tắc của đạo đức, củng cố các nghĩa vụ đạo đức, thiết lập lập trường không dung thứ với các biểu hiện chống đối xã hội.

Giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cùng tác động vào lòng tin của con người đối với sự cần thiết tuân theo những nguyên tắc cơ bản của đạo đức mới, lòng tin đối với giá trị xã hội của pháp luật và lòng tin đối với những quy phạm đạo đức và pháp luật trong đời sống thực tế hàng ngày, hướng đến hoàn thiện những mối quan hệ lẫn nhau giữa con người với con người.

4. Giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thi hành pháp luật

Việc thực thi và chấp hành pháp luật phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có yếu tố ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của Nhân dân. Pháp luật chỉ có thể có hiệu lực và đi vào cuộc sống khi nó được người dân tự giác tuân thủ, chấp hành. Bởi thế có thể coi ý thức pháp luật như là tiền đề tư tưởng cho sự củng cố và phát triển nền pháp chế. Trong thực tế, không phải lúc nào việc chấp hành pháp luật cũng trở thành ý thức tự nguyện. Bởi vậy, trong điều kiện hiện nay, vai trò của giáo dục pháp luật là hình thành ý thức pháp luật, góp phần giúp mỗi người nhận ra tính công bằng của pháp luật, chấp hành pháp luật trên cơ sở tự nguyện, xuất phát từ nhu cầu của bản thân, mà không phải do miễn cưỡng phải chấp hành do lo sợ bị trừng phạt. Tuân thủ pháp chế còn phụ thuộc không nhỏ vào trình độ văn hóa pháp lý của Nhân dân. Trình độ văn hóa pháp lý không chỉ phản ánh hiểu biết các quy định của pháp luật cần thiết cho mỗi con người, gắn liền với các nghĩa vụ của họ mà còn là sự hiểu biết một cách sâu sắc ý nghĩa của pháp luật trong cuộc sống xã hội, sự tôn trọng pháp luật và biết vận dụng pháp luật một cách đúng đắn.

Tóm lại, PBGDPL tạo điều kiện cho việc nâng cao hiểu biết pháp luật, văn hóa pháp lý của người dân. Đồng thời, sự phát triển của văn hóa pháp lý cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động thực thi pháp luật của các cơ quan Nhà nước. Hiệu quả tác động này lại phụ thuộc vào trình độ văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ, công chức; phụ thuộc vào việc họ thực thi đúng pháp luật, có thái độ tôn trọng pháp luật. Bởi vậy, thực hiện nhiệm vụ nâng cao văn hóa pháp lý đòi hỏi không chỉ nâng cao trình độ văn hóa chung của Nhân dân mà còn phải tăng cường năng lực thực thi pháp luật cho độ ngũ cán bộ, công chức các cơ quan Nhà nước. Một trong những nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật là do trình độ văn hóa pháp lý của một bộ phận Nhân dân, trong đó có cả cán bộ, công chức còn thấp.

Trong điều kiện xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thì một trong những điều kiện quan trọng là làm sao để người dân được tham gia tích cực vào các hoạt động quả lý xã hội bằng pháp luật. Tăng cường dân chủ cũng có nghĩa là mở rộng sự tham gia của người dân vào các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, thực hiện giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Chính điều này đã nâng cao trách nhiệm của mỗi người trong xã hội. PBGDPL góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự lớn mạnh của tính tích cực, bảo đảm hành trang kiến thức pháp lý cần thiết cho sự tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật.

II. Chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

         1. Chủ trương, chính sách của Đảng

Trong những năm qua, công tác  PBGDPL luôn được Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền, địa phương quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, coi đây là bộ phận của công tác chính trị, tư tưởng, khâu đầu tiên của thi hành pháp luật, là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị với nhiều chủ trương, chính sách mới nhằm tăng cường công tác PBGDPL; bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Trong nhiều văn kiện, Đảng ta đều khẳng định vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác PBGDPL; xác định rõ mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp tăng cường công tác này; giao nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, các cấp và cả hệ thống chính trị trong triển khai thực hiện.Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thức XII đã xác định “Trong những năm tới, đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời, đề ra yêu cầu “tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật" và nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ“nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân”, “… chăm lo, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân...”.

Các yêu cầu trên cùng với các quan điểm, chủ trương, chính sách về PBGDPL của Đảng đã được đề ra tại Chỉ thị số 32-CT/TWngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; Thông báo Kết luận số 74-TB/TW ngày 11/5/2007, Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW tạo thành cơ sở chính trị đòi hỏi phải được kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa bằng những giải pháp đổi mới cụ thể.

Ngày 20/6/2020, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 80-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW (Kết luận số 80/KL-TW). Trong đó, xác định:

- PBGDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; phát huy sự tham gia chủ động, tích cực của Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp và của mọi công dân trong công tác PBGDPL và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.

- Đa dạng hóa nguồn lực xã hội cho công tác PBGDPL. Đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng kinh phí, ưu tiên bố trí nguồn lực cho các nhóm đối tượng đặc thù yếu thế, đồng bào dân tộc, người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

-Kết hợp chặt chẽ công tác PBGDPL với nâng cao ý thức chấp hành pháp luật; ý thức chấp hành pháp luật là thước đo hiệu quả công tác PBGDPL. Bảo đảm tính đồng bộ, xuyên suốt, hiệu quả giữa PBGDPL với xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật.

-Triển khai công tác PBGDPL gắn với việc xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật;phát huy mạnh mẽ vai trò, trách nhiệm của các lực lượng Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng; Mặt trận và đoàn thể nhân dân trong công tác PBGDPL.

- Đổi mới tổ chức, hoạt động của cơ quan, đơn vị tham mưu, thực hiện quản lý nhà nước về PBGDPL. Kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL các cấp. Chú ý củng cố đội ngũ người làm công tác PBGDPL; có chính sách thích hợp để sử dụng đội ngũ người biết tiếng dân tộc thiểu số, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp thực hiện PBGDPL kịp thời, thực chất, hiệu quả.

-Nội dung PBGDPL cần bám sát thực tiễn cuộc sống và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong từng giai đoạn, địa bàn, đối tượng cụ thể; Kịp thời thông tin đầy đủ ngay từ khi soạn thảo các vấn đề có tác động lớn đến xã hội, các vấn đề được xã hội quan tâm hoặc cần định hướng dư luận xã hội để tạo sự đồng thuận cao trong thực thi chính sách, pháp luật.Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức, cách thức PBGDPL, bảo đảm phù hợp với nhu cầu xã hội và từng nhóm đối tượng. Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT, kỹ thuật số, mạng xã hội trong công tác PBGDPL; phát huy sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng; ưu tiên khung giờ thu hút đông đảo khán, thính giả đối với các chuyên trang, chuyên mục về pháp luật;nâng cao chất lượng các hoạt động đối thoại, giải đáp, tư vấn pháp luật.Xây dựng và nhân rộng các mô hình hay, cách làm hiệu quả gắn với từng chủ đề nội dung, đối tượng, đổi mới toàn diện công tác PBGDPL trong nhà trường.Những chủ trương, chính sách của Đảng đối với công tác PBGDPL, tổ chức thi hành pháp luật là một trong những yếu tố quyết định tạo nên sự chuyển biến và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này.

  2. Pháp luật hiện hành của Nhà nước về công tác PBGDPL

Thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, ngày 20/6/2012, Quốc hội  khóa XII thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2013; tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất, góp phần đưa công tác PBGDPL đi vào nề nếp, bài bản, tạo nên những bước phát triển mới.Để thi hành Luật, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 28/2013/NĐ-CP ngày 04/4/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật PBGDPL; Nghị định số 52/2015/NĐ-CP ngày 28/5/2015 về cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật. Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng đã ban hành các văn bản để quy định chi tiết trong ngành, lĩnh vực quản lý[1]. Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các Nghị định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp đều xác định trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong bảo đảm triển khai thực hiện công tác PBGDPL.

Luật PBGDPL năm 2012 xác định PBGDPL là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Nhà nước bảo đảm nguồn lực cần thiết cho công tác PBGDPL; quan tâm PBGDPL cho một số đối tượng đặc thù, bao gồm: người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân; người lao động trong các doanh nghiệp; nạn nhân bạo lực gia đình; người khuyết tật; người đang chấp hành hình phạt tù, người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo.

Luật quy định công dân có quyền được thông tin pháp luật có trách nhiệm chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm quyền được thông tin, tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân. Nhà nước thực hiện xã hội hóa công tác PBGDPL, khuyến khích và có chính sách để các tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp cho PBGDPL; phát triển các dịch vụ pháp lý hỗ trợ công tác này. Đây chính là những điểm mới, tiến bộ của Luật PBGDPL năm 2012.

Bên cạnh đó, Luật PBGDPL lấy ngày 09 tháng 11 hàng năm là Ngày Pháp luật nước Cộng hoà XHCN Việt Nam nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức, nhân dân và doanh nhân.

Luật PBGDPL năm 2012 xác định vai trò tầm quan trọng của công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường trong việc đào tạo thế hệ công dân trẻ của đất nước, trong đó khẳng định giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân được lồng ghép trong chương trình giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo; là một nội dung trong chương trình giáo dục trung học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học.Theo đó nội dung giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân được xây dựng phù hợp với từng cấp học và trình độ đào tạo, phù hợp với mục tiêu giáo dục, ngành nghề đào tạo, bảo đảm tính thống nhất, phổ thông, cơ bản, thiết thực, đồng bộ và có hệ thống.

Nhằm huy động sức mạnh cũng như nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong công tác PBGDPLLuật quy định trách nhiệm chung của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, đồng thời quy định thêm trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình giáo dục pháp luật trong các cấp học và trình độ đào tạo; quy định thời gian, lộ trình hoàn thành việc chuẩn hóa giáo viên dạy môn giáo dục công dân, giáo viên, giảng viên dạy pháp luật; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở dạy nghề. Bên cạnh đó, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, Luật quy định trách nhiệm của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã hội nghề nghiệp về pháp luật, cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp, cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân và gia đình.

Có thể đánh giá, thể chế, chính sách về PBGDPL về cơ bản đã hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ xác định rõ quyền được thông tin pháp luật của người dân cũng như trách nhiệm của các cấp, các ngành, nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức thực thi pháp luật, gắn kết với công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống; nâng cao nhận thức pháp luật, dân trí pháp lý, từng bước bảo đảm quyền được thông tin pháp luật của công dân, xây dựng lối sống tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật trong mỗi người dân. Nhờ đó, công tác PBGDPL được triển khai bài bản, hiệu quả và thực chất hơn, nội dung và hình thức phong phú hơn, bám sát nhu cầu của người dân và yêu cầu của việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của các Bộ, ngành, địa phương; gắn với những vấn đề dư luận xã hội quan tâm, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, gắn kết chặt chẽ giữa công tác xây dựng, thi hành với bảo vệ pháp luật. Những kết quả mang lại từ thực tiễn đã khẳng định vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác PBGDPL trong đời sống pháp luật, không chỉ nâng cao nhận thức pháp luật, văn hóa pháp lý của người dân mà còn góp phần vào việc đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật, góp phần hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt nam XHCN.

 

CHUYÊN ĐỀ 2

Kỹ năng xây dựng kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật

 

I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PBGDPL

Xây dựng kế hoạch là việc đề ra một cách có hệ thống những công việc dự định làm trong một thời gian nhất định, với cách thức, trình tự, thời hạn tiến hành cụ thể.

Kết quả của từng lĩnh vực công tác, từng hoạt động phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có một phần không nhỏ là việc lập kế hoạch triển khai các mặt công tác và hoạt động đó. Việc xây dựng kế hoạch PBGDPL là xuất phát từ chính những đặc thù của công tác này.

Thứ nhất, đặc thù về đối tượng cần được PBGDPL

Đó là cán bộ, chiến sĩ trong quân đội cần được phổ biến, giáo dục pháp luật là rất đa dạng.

Về trình độ văn hóa, có những người có trình độ văn hóa tốt nghiệp phổ thông, có người tốt nghiệp cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ ở những lĩnh vực khác nhau và đang công tác tại những địa bàn khác nhau ở trung ương, thành phố, thị xã, biên giới, cửa khẩu, hải đảo…

Các lĩnh vực quản lý khác nhau, địa bàn khác nhau đã tạo ra sự đa dạng về kiến thức trong các đối tượng cần được phổ biến. Sự khác nhau về trình độ và lĩnh vực, địa bàn quản lý trong lực lượng quân đội đòi hỏi phải có kế hoạch để xác định nội  dung pháp luật, hình thức chuyển tải thông tin, kiến thức pháp luật đến họ cho phù hợp.

Thứ hai, đặc thù về chủ thể tham gia PBGDPL

PBGDPL được xác định là nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành, chính vì vậy PBGDPL không chỉ là trách nhiệm của riêng của cơ quan, đơn vị, mà là trách nhiệm của từng cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nhân dân. Kế hoạch PBGDPL là cơ sở để huy động các cán bộ, chiến sĩ tham gia triển khai công tác PBGDPL.

Thứ ba, công tác PBGDPL đòi hỏi tính tổ chức cao, cần được triển khai kịp thời, thường xuyên, liên tục và yêu cầu kết hợp giữa việc triển khai đại trà với thực hiện có trọng tâm, trọng điểm

Một trong những yêu cầu đầu tiên để một văn bản nào đó được thực thi trong cuộc sống là văn bản đó phải được kịp thời phổ biến, giới thiệu đến các đối tượng chịu sự điều chỉnh của văn bản đó. Đồng thời, PBGDPL là cả một quá trình mà hiệu quả của nó không thể nhìn thấy ngay tức thời. Do đó, PBGDPL phải được làm liên tục, thường xuyên với phương châm “mưa dầm, thấm lâu”.

Từ những đặc thù nêu trên, cho thấy việc xây dựng kế hoạch PBGDPL là hết sức cần thiết, cụ thể là:

- Với việc xác định rõ đối tượng, nội dung, hình thức, biện pháp, tiến  độ và phân công thực hiện cụ thể, kế hoạch PBGDPL góp phần triển khai công tác PBGDPL được thực hiện thường xuyên, liên tục, khắc phục tình trạng tùy tiện, lúc làm không thường xuyên.

- Trong khi phải thực hiện cùng lúc các nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, giữ vững độc lập chủ quyền và thực hiện công tác quản lý nhà nước, kế hoạch PBGDPL tạo điều kiện cho cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL chủ động hơn trong tổ chức công việc.

- Kế hoạch PBGDPL là cơ sở để các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng bố trí kinh phí cho công tác này.

- Kế hoạch PBGDPL là căn cứ để kiểm tra, đánh giá, khen thưởng việc thực hiện nhiệm vụ PBGDPL ở cơ quan, đơn vị trong từng giai đoạn.

II. YÊU CẦU VÀ CĂN CỨ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PBGDPL

1. Yêu cầu đối với kế hoạch PBGDPL

Kế hoạch PBGDPL trong lực lượng quân đội nhân dân trong từng năm, từng giai đoạn cần bảo đảm các yêu cầu sau:

Thứ nhất, kế hoạch PBGDPL phải có mục tiêu, giải pháp, tiến độ cụ thể, sát hợp, có tính khả thi và hiệu quả.

Kế hoạch càng chi tiết, càng cụ thể, càng tạo điều kiện thuận lợi khi triển khai trên thực tế. Đồng thời, trong từng giai đoạn kế hoạch PBGDPL phải bám sát tình hình của cơ quan, đơn vị, các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phải phù hợp với nguồn nhân lực và kinh phí cho công tác này để đảm bảo hiệu quả thực sự.

Thứ hai, các nhiệm vụ đặt ra trong kế hoạch PBGDPL cần kết hợp giải quyết toàn diện các yêu cầu của công tác PBGDPL với các vấn đề trọng tâm ở cơ quan, đơn vị và tại địa bàn nơi có trụ sở.

Mục tiêu chung của công tác PBGDPL là nâng cao hiểu biết cho đối tượng, hình thành ở họ lòng tin vào pháp luật, tạo lập thói quen, ý thức tự giác chấp hành pháp luật và biết áp dụng, thực thi pháp luật trong công việc hàng ngày cũng như sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bản thân. Kế hoạch PBGDPL cần phải hướng tới việc thực hiện các mục tiêu chung đó, đồng thời cũng nhằm giải quyết những vấn đề rất cụ thể của cơ quan, đơn vị trong giai đoạn triển khai. Ví dụ, các vấn đề về chế độ, chính sách đối với quân nhân, sĩ quan, liệt sĩ chính sách đối với người có công…

2. Căn cứ xây dựng kế hoạch PBGDPL

Kế hoạch PBGDPL được xây dựng dựa trên một số căn cứ sau đây:

- Trên cơ sở Kế hoạch, chương trình PBGDPL dài hạn của Chính phủ, Hội đồng phối hợp PBGDPL trung ương và Bộ Tư pháp - cơ quan quản lý nhà nước về PBGDP, hàng năm, Bộ Quốc phòng đều có kế hoạch triển khai công tác PBGDPL tại cơ quan mình. Do vậy, kế hoạch PBGDPL tại các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng cần được xây dựng dựa trên chương trình, kế hoạch và sự chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Quốc phòng và cơ quan quản lý nhà nước về PBGDPL.

- Kế hoạch PBGDPL cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nhân dân cần căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị trong từng giai đoạn, đặc biệt là tình hình thực tế ở cơ quan, đơn vị. Đây là căn cứ quan trọng để xây dựng kế hoạch vì hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước về PBGDPL mang tính hướng dẫn chung, trong khi ở mỗi cơ quan, đơn vị lại có những đặc thù riêng liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ chính trị, những vấn đề trọng tâm, trọng điểm riêng trong từng thời điểm.

- Công tác PBGDPL được thực hiện xuất phát từ lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của các tầng lớp nhân dân, trong đó có cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nhân dân. Chính vì vậy, việc xây dựng Kế hoạch PBGDPL nhất thiết phải dựa trên nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ, chiến sĩ trong từng năm, từng giai đoạn. Khi thông tin pháp luật được phổ biến, giới thiệu đáp ứng được nhu cầu của cán bộ, chiến sĩ cần tìm hiểu thì công tác này sẽ mang lại hiệu quả hơn so với việc thực hiện theo ý chí chủ quan của cấp trên hoặc của cán bộ thực hiện công tác PBGDPL.

III. QUY TRÌNH XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PBGDPL

1. Giai đoạn chuẩn bị

Trước khi xây dựng dự thảo Kế hoạch PBGDPL, cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL trong quân đội nhân dân cần thực hiện một số công việc chuẩn bị sau:

Thứ nhất, lựa chọn loại Kế hoạch PBGDPL cần xây dựng

Có nhiều loại kế hoạch PBGDPL như: Kế hoạch PBGDPL theo thời gian, gồm: Kế hoạch dài hạn (từ ba đến năm năm), kế hoạch ngắn hạn (hàng năm hoặc hàng quý, hàng, tháng); kế hoạch tuyên truyền một nội dung pháp luật (ví dụ tuyên truyền về bầu cử Quốc hội, bảo vệ môi trường, thuế thu nhập cá nhân…) hoặc một văn bản pháp luật cụ thể (ví dụ, tuyên truyền về Luật Nghĩa vụ quân sự; Luật Lực lượng dự bị động viên…); kế hoạch tổ chức hoạt động PBGDPL cụ thể (ví dụ, Kế hoạch tổ chức Hội nghị tập huấn; Kế hoạch tổ chức thi tìm hiểu pháp luật…). Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL xác định loại kế hoạch PBGDPL cần xây dựng. Ở cấp trung ương, tỉnh, huyện cần xây dựng kế hoạch PBGDPL hàng năm làm cơ sở cho việc tổ chức thực hiện công tác PBGDPL. Ngoài ra, tùy theo yêu cầu của đợt tuyên truyền văn bản pháp luật quan trọng hoặc theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị có thể xây dựng các kế hoạch PBGDPL cụ thể khác.

Thứ hai, xác định căn cứ xây dựng kế hoạch

Tùy thuộc vào loại kế hoạch, cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL xác định các căn cứ để xây dựng. Cụ thể là các chương trình của Chính phủ, kế hoạch, hướng dẫn của Hội đồng phối hợp PBGDPL trung ương, cơ quan quản lý nhà nước về PBGDPL, của Bộ Quốc phòng, các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, bảo vệ an ninh tổ quốc và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa bàn nơi đặt trụ sở.

Thứ ba, xác định mức độ hiểu biết và nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ, nhân dân địa phương

Để xác định được mức độ hiểu biết và nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL có thể tiến hành khảo sát bằng việc hỏi trực tiếp hoặc phát phiếu điều tra, thông qua đề xuất của cán bộ, chiến sĩ ở các cơ quan, đơn vị hoặc nắm bắt thông qua việc giao tiếp hàng ngày với cán bộ, chiến sĩ, hoặc tại cuộc họp, giao ban, giải quyết các công việc liên quan đến cán bộ, chiến sĩ…Mục đích chính là để đánh giá xem cán bộ và chiến sĩ hiểu biết pháp luật ở mức độ nào và họ cần tìm hiểu những nội dung gì để khi xây dựng kế hoạch sẽ xác định được những nội dung thích hợp với nhóm cán bộ, chiến sĩ.

2. Xây dựng kế hoạch PBGDPL

2.1. Xây dựng dự thảo kế hoạch PBGDPL

a) Nội dung chính của kế hoạch PBGDPL

Mỗi loại kế hoạch PBGDPL có những nội dung cụ thể khác nhau, tuy nhiên cần đảm bảo những nội dung chính sau:

- Mục đích, yêu cầu của kế hoạch PBGDPL: Cần nêu rõ mục đích, kết quả cụ thể cần đạt được cũng như các yêu cầu đặt ra khi triển khai kế hoạch.

- Đối tượng tác động của kế hoạch: Là toàn thể cán bộ, chiến sĩ tại cơ quan, đơn vị hoặc nhóm đối tượng cụ thể trong từng cơ quan, đơn vị.

- Nội dung pháp luật cần được phổ biến đến đối tượng: Việc xác định nội dung pháp luật cần được phổ biến đến đối tượng căn cứ vào yêu cầu chung của kế hoạch, hướng dẫn của cơ quản lý nhà nước về PBGDPL, của Bộ Quốc phòng và nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ, chiến sĩ tại từng cơ quan, đơn vị. Nội dung pháp luật không chỉ dừng lại ở các luật, pháp lệnh hay văn bản của trung ương mà còn là văn bản chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện tại địa bàn đơn vị đóng quân, nhất là các nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ cụ thể của cán bộ, chiến sĩ.

- Hình thức thực hiện PBGDPL: Trên thực tế, công tác PBGDPL được triển khai bằng nhiều hình thức khác nhau như: Tuyên truyền miệng về pháp luật; PBGDPL qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng lưới truyền thanh ở nội bộ đơn vị; biên soạn, phát hành tài liệu PBGDPL; dạy và học pháp luật trong nhà trường; tổ chức các hình thức thi tìm hiểu pháp luật; xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật; PBGDPL thông qua sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật, thông qua lồng ghép hoạt động văn hóa nghệ thuật.

Tuy nhiên trên địa bàn các cơ quan, đơn vị, không phải tất cả các hình thức đều phát huy hiệu quả. Vì vậy, khi xây dựng kế hoạch PBGDPL cho cơ quan, đơn vị mình, cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL cần lưu ý lựa chọn các hình thức PBGDPL phù hợp với đối tượng cần phổ biến.

- Tiến độ (thời gian) thực hiện: Kế hoạch PBGDPL cần xác định thời gian thực hiện các công việc đề ra. Tiến độ cụ thể vừa bảo đảm công tác PBGDPL được kịp thời, phù hợp với nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội tại địa bàn nơi cơ quan, đơn vị có trụ sở.

- Các biện pháp thực hiện:

+ Xác định biện pháp thực hiện PBGDPL phù hợp với đối tượng, với địa bàn thực hiện: Có thể tổ chức các hình thức PBGDPL độc lập, cũng có thể tổ chức PBGDPL lồng ghép trong các chương trình, kế hoạch khác ở địa phương như xây dựng nông thôn mới, vệ sinh môi trường, đô thị văn minh…

+ Phân công trách nhiệm hợp lý, rõ ràng cho các chủ thể tham gia PBGDPL: Trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL; sự phối hợp với cơ quan, đơn vị có liên quan, các tổ chức đoàn thể.

+ Hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch; chế độ thông tin, báo cáo; sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng.

+ Kinh phí: Nêu rõ nguồn kinh phí thực hiện kế hoạch.

Kinh phí chi tiết thực hiện kế hoạch PBGDPL có thể được ghi ngay trong kế hoạch hoặc lập thành bản dự toán riêng (kèm theo kế hoạch). Các nội dung chi và mức chi về PBGDPL thực hiện theo quy định của Bộ Tài chính có nội dung chi cho công tác PBGDPL và theo hướng dẫn, quy định của Bộ Quốc phòng về mức chi cụ thể.

b) Thể thức trình bày kế hoạch PBGDPL

Kế hoạch PBGDPL là một dạng văn bản hành chính. Theo quy định tại Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ về công tác văn thư thì Kế hoạch có thể ban hành kèm theo Quyết định (Mẫu 1) hoặc ban hành độc lập (Mẫu 2). Khi xây dựng kế hoạch PBGDPL, cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL phải căn cứ vào hướng dẫn về thể thức kỹ thuật trình bày văn bản hành chính theo Nghị định nêu trên.

2.2. Tổ chức lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo Kế hoạch và hoàn chỉnh nội dung theo kế hoạch

- Dự thảo kế hoạch được đưa ra lấy ý kiến đóng góp của các cán bộ, chiến sĩ tại cơ quan, đơn vị và các cơ quan, đơn vị, tổ chức, đoàn thể có liên quan, những người trực tiếp tham gia triển khai kế hoạch sau khi được phê duyệt.

- Sau khi tổng hợp ý kiến đóng góp, cán bộ, chiến sĩ được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch tiếp tục chỉnh lý hoàn chỉnh nội dung kế hoạch để trình phê duyệt.

2.3. Trình lãnh đạo cơ quan, đơn vị phê duyệt kế hoạch (bao gồm kế hoạch nội dung và dự toán kinh phí thực hiện).

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PBGDPL

Ngay sau khi kế hoạch PBGDPL được Thủ trưởng cơ quan, đơn vị phê duyệt, cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL phối hợp với các cán bộ, chiến sĩ, bộ phận đơn vị được phân công trong kế hoạch tổ chức thực hiện kế hoạch theo đúng đối tượng, nội dung, hình thức, biện pháp và thời gian đã xác định.

Trong quá trình thực hiện kế hoạch, cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL có nhiệm vụ:

1. Chủ trì tổ chức các hoạt động PBGDPL cho cán bộ, nhân dân trên địa bàn.

2. Thực hiện vai trò là đầu mối phối hợp cán bộ, chiến sĩ của cơ quan, tổ chức có liên quan triển khai các hoạt động PBGDPL đến nhân dân.

3. Tham mưu Thủ trưởng cơ quan, đơn vị xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật chuyên nghiệp, nòng cốt là các cán bộ, chiến sĩ am hiểu kiến thức pháp luật, có tâm huyết và khả năng truyền đạt kiến thức pháp luật; cử đội ngũ này tham gia các lớp tập huấn kiến thức pháp luật và kỹ năng tuyên truyền, PBGDPL.

4. Tại cơ quan có Hội đồng phối hợp PBGDPL, cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL có trách nhiệm giúp Hội đồng phối hợp PBGDPL tổ chức các phiên họp, xây dựng báo cáo, kế hoạch hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL, tham mưu tổ chức các hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL theo kế hoạch đề ra.

5. Thông tin, báo cáo việc thực hiện công tác PBGDPL của cơ quan, đơn vị với cơ quan cấp trên và theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về PBGDPL. Việc duy trì và thực hiện nghiêm túc, thường xuyên chế độ thông tin, báo cáo là một yêu cầu trong quy trình tổ chức thực hiện công tác PBGDPL, nhằm đảm bảo thông tin hai chiều, vừa giúp cơ quan cấp trên và cơ quan tư pháp cùng cấp nắm được tình hình thực hiện công tác PBGDPL, từ đó có sự chỉ đạo, hướng dẫn sát với tình hình thực tế; góp phần duy trì được mối liên hệ thường xuyên giữa cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL với các cơ quan này, qua đó tạo thuận lợi cho cán bộ, chiến sĩ làm công tác PBGDPL.

Các báo cáo công tác PBGDPL được thực hiện hàng quý, 6 tháng và cả năm hoặc khi kết thúc Chương trình, hoạt động PBGDPL cụ thể.

6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện kế hoạch PBGDPL: Cần kiểm tra xem các nội dung của kế hoạch đã được thực hiện đến đâu? Những gì còn tồn tại? Nguyên nhân, cách khắc phục. Trong trường hợp cần thiết có thể kiến nghị đơn vị chủ trì thực hiện có biện pháp phù hợp cho việc tổ chức thực hiện kế hoạch trên thực tế như: Điều chỉnh kế hoạch, nội dung, tạo điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí, lực lượng…

7. Sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch PBGDPL nhằm rút ra những kinh nghiệm cần thiết để tổ chức thực hiện công tác này ngày càng tốt hơn. Trong quá trình đánh giá cũng cần chú trọng công tác khen thưởng để động viên, khích lệ những điển hình làm tốt, phát huy kết quả đã đạt được, khơi dậy phong trào thi đua thực hiện công tác PBGDPL trong lực lượng quân đội nhân dân./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 3

Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp

 

I. GIỚI THIỆU CHUNG
1. Khái niệm, vị trí, vai trò của tuyên truyền miệng trong phổ biến, giáo dục pháp luật
Tuyên truyền miệng về pháp luật là một hình thức tuyên truyền mà người nói trực tiếp nói với người nghe về lĩnh vực pháp luật trong đó chủ yếu là phổ biến, giới thiệu các quy định pháp luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghe, hướng cho người nghe hành động theo các chuẩn mực pháp luật.

Tuyên truyền miệng pháp luật có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhiều hình thức tuyên truyền khác; lồng ghép với các hình thức tuyên truyền khác và là một bộ phận quan trọng trong tổng thể các hình thức tuyên truyền pháp luật. Điều đó được thể hiện như sau:

- Tuyên truyền miệng là một công đoạn không thể thiếu trong phần lớn các hình thức tuyên truyền pháp luật. Ví dụ: Tuyên truyền pháp luật thông qua công tác hòa giải ở cơ sở thì hòa giải viên vẫn phải trực tiếp nói cho người được hòa giải về các nội dung pháp luật có liên quan.

- Tuyên truyền miệng pháp luật là hình thức chủ yếu được thực hiện thông qua hội nghị, hội thảo, tập huấn, sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật; là biện pháp chủ yếu của phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo nói, báo hình, qua mạng lưới truyền thanh cơ sở.

- Trong việc thực hiện tuyên truyền miệng pháp luật, báo cáo viên phải sử dụng lồng ghép với các hình thức tuyên truyền pháp luật khác, ví dụ như: trước khi tuyên truyền, báo cáo viên cần phải biên soạn đề cương mà giá trị của nó được coi như là tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật; trong khi tuyên truyền miệng, báo cáo viên sử dụng các hình ảnh minh họa có giá trị như là tuyên truyền thông qua tranh ảnh trực quan.

- Tuyên truyền miệng là hình thức tuyên truyền linh hoạt, có nhiếu ưu thế, có thể tiến hành ở bất cứ nơi nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào với số lượng người nghe không bị hạn chế. Khi thực hiện việc tuyên truyền miệng, người nói có đủ điều kiện thuận lợi để giải thích, phân tích, sáng tỏ nội dung cần tuyên truyền.

2. Quy mô và đối tượng của tuyên truyền miệng pháp luật

Quy mô của tuyên truyền miệng pháp luật rất đa dạng. Có thể tổ chức dưới dạng hội nghị, lớp tập huấn, các buổi nói chuyện chuyên đề thu hút nhiều người nghe hoặc có thể tổ chức dưới hình thức tuyên truyền miệng cá biệt chỉ có một hoặc vài ba người.

Đối tượng của tuyên truyền miệng rất phong phú cho đủ mọi thành phần: cán bộ, trí thức, công nhân, nông dân, doanh nhân, phụ nữ, người cao tuổi, thanh thiếu niên...Như vậy, đối tượng của tuyên truyền miệng là bất cứ người nào trong xã hội đang cần được tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

Trên cơ sở 3 tiêu chí chính: Đối tượng, quy mô và không gian, người nói cần lưu ý nghiên cứu tâm lý người nghe trong các lớp tập huấn, các buổi nói chuyện chuyên đề, các buổi họp, các buổi tuyên truyền cá biệt.

II. PHƯƠNG THỨC TỔ CHỨC MỘT SỐ HÌNH THỨC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG PHÁP LUẬT

1. Mở các lớp tập huấn

Nội dung tập huấn có thể là một văn bản pháp luật quan trọng kèm theo văn bản hướng dẫn thi hành hoặc nhiều văn bản pháp luật độc lập. Những văn bản pháp luật này có thể là văn bản tuyên truyền lần đầu hoặc là văn bản được tuyên truyền lặp lại. Học viên của lớp tập huấn là những báo cáo viên, biên tập viên, phóng viên, cán bộ thi hành pháp luật, cán bộ quản lý trong lĩnh vực văn bản điều chỉnh.

Ở các lớp tập huấn, giảng viên không chỉ giới thiệu về các nội dung cơ bản của văn bản mà phải đi sâu vào những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực nghiệp vụ nhất định: thẩm quyền của các chủ thể, các biện pháp quản lý, thủ tục tiến hành các công việc. Chú trọng đổi mới phương pháp tập huấn, kết hợp phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại, lấy người học là trung tâm, áp dụng phương pháp tích cực, mọi người cùng tham gia, có sự trao đổi qua lại giữa học viên và giảng viên, huy động tính tích cực tham gia của học viên, giảng viên chỉ là người hướng dẫn, định hướng cho học viên vừa học lý thuyết vừa thực hành; kết hợp với các phương tiện hỗ trợ như tranh ảnh, băng hình để buổi tập huấn sinh động, người học dễ tiếp thu, thuộc bài ngay tại lớp và biết vận dụng thành thạo trong thực tiễn.

Việc tổ chức các lớp tập huấn có thể ở quy mô lớn (mấy trăm người) cũng có thể ở quy mô nhỏ (mấy chục người). Lưu ý cần bố trí thời gian để triệu tập được đúng, đủ học viên, có quy chế để việc học tập được nghiêm túc. Cũng cần tổ chức viết thu hoạch hoặc kiểm tra, tổ chức đánh giá kết quả tập huấn (qua phiếu, phỏng vấn trực tiếp…), cấp chứng chỉ để kích thích ý thức và tinh thần học tập của học viên. Về hình thức nên có trang trí, khai mạc, bế mạc để lớp học trang trọng và tăng tính hiệu quả.

2. Nói chuyện chuyên đề về pháp luật

Một buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật thường là một buổi nói về một lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quản lý... gắn với một số chế định, ngành luật. Một buổi nói chuyện chuyên đề thường không đóng khung trong phạm vi pháp luật, trong khuôn khổ một vấn đề khép kín mà mở ra nhiều lĩnh vực có liên quan, nhiều hướng suy nghĩ. Chính vì thế, các buổi nói chuyện chuyên đề thường thu hút được đông đảo báo cáo viên pháp luật, cán bộ nghiên cứu, cán bộ xây dựng pháp luật, cán bộ tuyên truyền pháp luật, hòa giải viên, thành viên các Câu lạc bộ pháp luật... tham gia.

Báo cáo viên trong các buổi nói chuyện chuyên đề phải là người có kiến thức chuyên ngành sâu rộng về lĩnh vực được trình bày và am hiểu pháp luật.

Khi tổ chức một buổi nói chuyện chuyên đề nói chung và chuyên đề pháp luật nói riêng, người ta thường gắn vào các sự kiện chính trị, thời sự, những ngày có ý nghĩa lịch sử...

3. Lồng ghép việc tuyên truyền pháp luật vào một buổi họp

Do đối tượng dự, buổi họp rất đa dạng, có thể là cán bộ, công chức; người quản lý doanh nghiệp; người lao động; người dân ở thôn, bản, tổ dân phố, cho nên tùy từng đối tượng mà người tuyên truyền lựa chọn nội dung pháp luật để lồng ghép cho phù hợp. Nội dung pháp luật được truyền tải có thể trên cơ sở kế hoạch của cấp trên hoặc có thể do cán bộ tuyên truyền đề xuất trên cơ sở tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương.

Khi lồng ghép nội dung pháp luật vào một buổi họp, điểm quan trọng bậc nhất là cách đặt vấn đề với người nghe. Cần đặt vấn đề sao cho người nghe thấy rằng vì sự quan trọng và cấp thiết của việc tuyên truyền văn bản pháp luật lồng ghép vào hội nghị, cuộc họp này chứ không phải “nhân thể” hội nghị, cuộc họp này mà phổ biến văn bản. Nếu có thể được, người nói công bố việc tuyên truyền pháp luật là một nội dung trong chương trình cuộc họp hoặc công bố chương trình cuộc họp trước cho người dự cuộc họp. Một việc quan trọng nữa là xác định thời điểm, bối cảnh để phổ biến pháp luật sao cho hợp lý nhất để người nghe dễ tiếp thu và tạo không khí thoải mái cho người nghe. Qua đó, việc lồng ghép tuyên truyền pháp luật vào cuộc họp sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.

4. Tuyên truyền miệng cá biệt

Tuyên truyền miệng cá biệt là hình thức tuyên truyền miệng về pháp luật mà đối tượng (người nghe) chỉ có một hoặc vài ba người. Nếu như tuyên truyền trong hội nghị cung cấp cho người nghe hiểu biết chung về pháp luật thì tuyên truyền cá biệt thường cung cấp cho người nghe những nội dung pháp luật cụ thể; vận dụng pháp luật trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể mà người nghe đang quan tâm. Hình thức tuyên truyền này thường được sử dụng trong trường hợp người thừa hành pháp luật làm việc với đối tượng của mình; người tư vấn pháp luật hướng dẫn, giải thích cho người được tư vấn; cán bộ trợ giúp pháp lý hướng dẫn, trợ giúp pháp luật cho người được trợ giúp...

Trong tuyên truyền cá biệt, người nói thường ở vị trí “có lợi” đối với người nghe. Nhưng không vì thế mà trong khi thực hiện nhiệm vụ, người nói có thái độ áp đặt, lời nói mệnh lệnh đối với họ mà phải làm cho họ thực sự hiểu, tin, tôn trọng pháp luật, từ đó tự giác tuân thủ pháp luật. Muốn vậy người nói phải căn cứ từng đối tượng mà có biện pháp tuyên truyền thích hợp; tìm hiểu sâu hoàn cảnh, truyền thống của gia đình họ, vận dụng đạo lý, phong tục, tập quán, mục đích, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật để giải thích, thuyết phục họ.

Để chuẩn bị cho buổi tuyên truyền cá biệt đạt kết quả, cán bộ làm công tác tuyên truyền pháp luật cần chuẩn bị các nội dung sau đây:

- Các quy định pháp luật liên quan đến sự việc của đương sự;

- Dự kiến tình huống, câu hỏi mà đương sự có thể hỏi, chất vấn;

- Phong tục, tập quán ở địa phương, đạo lý và những kiến thức xã hội có thể phải vận dụng;

- Nhân thân đương sự: Hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của đương sự trước đây; điều kiện, hoàn cảnh, truyền thống gia đình, nguyện vọng ... của đương sự.

Khi tuyên truyền cá biệt đòi hỏi phải vận dụng kỹ năng tuyên truyền miệng hết sức tinh tế. Người nói còn phải là người nhạy cảm, tâm lý và có kinh nghiệm trong công tác này. Bên cạnh đó, để thuyết phục người nghe, tin ở pháp luật thì người nói phải thể hiện để người nghe tin mình là một cán bộ, công chức tốt (không có biểu hiện tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, gây phiền hà, có trách nhiệm với công việc, liêm khiết...). Trong khi tuyên truyền miệng cá biệt, những quy tắc tuyên truyền hội nghị không thể áp dụng một cách cứng nhắc, thậm chí học hàm, học vị, chức vụ... của người nói không có ý nghĩa lớn đối với người nghe.

Điều quan trọng nhất là người nói phải tạo được lòng tin, sự tôn trọng của người nghe; làm sao để người nghe tin rằng vận dụng pháp luật vào điều kiện, hoàn cảnh này là hoàn toàn chính xác. Như vậy, nếu một buổi tuyên truyền pháp luật ở hội nghị nhằm đạt yêu cầu chung là nâng cao niềm tin, hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật cho người nghe bằng cách cung cấp các hiểu biết, nhận thức chung về pháp luật cho họ thì tuyên truyền cá biệt có mục đích cao hơn là thông qua việc vận dụng pháp luật vào một hoàn cảnh, sự việc cụ thể để nâng cao niềm tin, ý thức chấp hành pháp luật của người nghe. Để đạt được mục đích, yêu cầu này người nói không những phải am hiểu pháp luật, hiểu biết đời sống xã hội mà phải có sự cảm thông sâu sắc với cuộc sống của đối tượng. Đôi khi, trong quá trình tuyên truyền cá biệt người nói cần phải tâm sự chân tình, chia sẻ với người nghe về hoàn cảnh của họ; có những lời khuyên, động viên một cách chân thành, tình cảm để tạo sự tin tưởng, yêu mến của người nghe với mình. Đó là những yếu tố cơ bản để thuyết phục đối tượng.

III. KỸ NĂNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG VỀ PHÁP LUẬT

1. Gây thiện cảm ban đầu cho người nghe

Việc gây thiện cảm ban đầu cho người nghe rất quan trọng. Thiện cảm ban đầu thể hiện ở nhân thân, tâm thế và biểu hiện của người nói khi bước lên bục tuyên truyền. Danh tiếng, phẩm chất đạo đức, học hàm, học vị, chức vụ của người nói là nguồn thiện cảm ban đầu cho người nghe; kích thích người nghe háo hức chờ đón buổi tuyên truyền. Thiện cảm ban đầu tạo ra sự hứng thú, say mê của người nghe, củng cố được niềm tin về vấn đề đang tuyên truyền. Thiện cảm ban đầu còn được tạo ra bởi khung cảnh của hội trường, khung cảnh của diễn đàn, dáng vẻ bề ngoài, y phục, nét mặt, cử chỉ, phong thái, lời giao tiếp ban đầu. Như vậy, báo cáo viên cần phải tươi cười bao quát hội trường, có lời chào mừng, chúc tụng, có câu mở đầu dí dỏm, hài hước, công bố thời gian, chương trình làm việc rõ ràng, thoải mái... sẽ gây được thiện cảm ban đầu đối với người nghe. Thế nhưng, thiện cảm ban đầu chủ yếu là ở cách đặt vấn đề đầu tiên của người nói. Trong những phút đầu tiên của bài giới thiệu, người nói phải nêu được khoảng từ 3, 4 vấn đề chủ yếu mà người nghe cần tìm hiểu nhất. Ví dụ khi tuyên truyền cho đối tượng là công nhân về Bộ luật Lao động thì các vấn đề mà công nhân quan tâm nhất là hợp đồng lao động; bảo hộ lao động; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; tiền lương; bảo hiểm xã hội... Việc nêu các vấn đề đó còn tuỳ thuộc ở khả năng thuyết trình của báo cáo viên. Báo cáo viên có thể bắt đầu từ một câu chuyện pháp luật được các phương tiện thông tin đại chúng nói đến nhiều thời gian qua hoặc có thể bắt đầu từ một bộ phim đã chiếu khá phổ biến hoặc cũng có thể bằng các tình huống xảy ra gần địa bàn nơi tổ chức tuyên truyền...

2. Tạo sự hấp dẫn, gây ấn tượng trong khi nói

Nghệ thuật tuyên truyền là tạo nên sự hấp dẫn, gây ấn tượng bằng giọng nói, điệu bộ, ngôn ngữ. Giọng nói phải rõ ràng, mạch lạc nhưng truyền cảm. Hết sức tránh lối nói đều đều. Giọng nói, âm lượng phải thay đổi theo nội dung và nhấn mạnh vào những điểm quan trọng, cần phải chú ý. Động tác, cử chỉ cần phải phù hợp với nội dung và giọng nói để nâng cao hiệu quả tuyên truyền của lời nói. Sắc thái có tác dụng truyền cảm rất lớn. Vẻ mặt của người nói cần thay đổi theo diễn biến của nội dung. Khi nói, cần chú ý nhìn vào một nhóm người ngồi dưới, thỉnh thoảng người nói cần thay đổi vị trí nhìn để tạo sự chú ý của cử tọa. Người nói cần đưa ra số liệu, sự kiện để minh hoạ, đặt câu hỏi để tăng thêm sự chú ý của người nghe.

Người nói cũng cần phát huy vai trò thông tin, truyền cảm của ngôn ngữ bằng cách sử dụng chính xác, đúng mực thuật ngữ pháp lý, thuật ngữ chuyên ngành và ngôn ngữ phổ thông. Người nói có thể kết hợp, lồng ghép, sử dụng hợp lý, chính xác ý tứ, ngôn từ trong kinh điển, thơ văn, ca dao, dân ca vào buổi tuyên truyền pháp luật để tăng tính hấp dẫn, thuyết phục đối với người nghe.

3. Bảo đảm các nguyên tắc sư phạm trong tuyên truyền miệng

Người nói cần tôn trọng các nguyên tắc sư phạm. Từ bố cục bài nói, diễn đạt các đoạn văn, liên kết giữa các đoạn văn đến cách nói đều phải rõ ràng, mạch lạc, lôgic. Người nghe cần được dẫn dắt từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ gần đến xa (phương pháp suy diễn) hoặc từ xa đến gần (phương pháp quy nạp) và tuỳ từng vấn đề mà dùng lý luận soi sáng cho thực tiễn hoặc từ thực tiễn mà đi sâu vào lý luận. Mục đích cuối cùng vẫn là để người nghe hiểu rõ hơn, toàn diện hơn về những vấn đề mà người nói đã nêu ra. Tuy nhiên dù phân tích, diễn giải rộng hay hẹp đều phải luôn bám sát trọng tâm của vấn đề.

4. Sử dụng phương pháp thuyết phục trong tuyên truyền miệng

Tuyên truyền miệng về pháp luật chủ yếu dùng phương pháp thuyết phục với ba bộ phận cấu thành là chứng minh, giải thích và phân tích.

- Chứng minh là cách thuyết phục chủ yếu dựa vào các dẫn chứng xác thực, khách quan để làm sáng tỏ và xác nhận tính đúng đắn của vấn đề. Các dẫn chứng đưa ra gồm số liệu, sự kiện, hiện tượng, nhân chứng, danh ngôn, kinh điển. Để có sức thuyết phục, các dẫn chứng được đưa ra phải chính xác, tiêu biểu, toàn diện và sát hợp với vấn đề nêu ra.

- Giải thích là việc dùng lý lẽ để giảng giải giúp người nghe hiểu rõ và hiểu đúng vấn đề. Lập luận trong khi giải thích phải chặt chẽ, chính xác, mạch lạc, khúc triết, không ngụy biện.

- Phân tích là diễn giải, đánh giá vấn đề nhằm tìm được đặc điểm, bản chất, điểm mạnh, điểm yếu, điểm tốt, điểm xấu, sự phù hợp, không phù hợp... của vấn đề. Việc phân tích phải dựa trên cơ sở khoa học, không được cường điệu mặt này hay hạ thấp mặt kia. Sau khi phân tích phải có kết luận, đánh giá, hướng người nghe vào định hướng tư duy đúng đắn, không làm cho người nghe hoài nghi, dao động, hoang mang.

5. Các bước tiến hành một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật

Để có một buổi tuyên truyền miệng pháp luật cần qua 2 bước:

5.1. Bước chuẩn bị: gồm 5 nội dung chính sau đây :

- Nắm vững đối tượng truyên truyền: Báo cáo viên cần nắm vững đối tượng tuyên truyền qua các yếu tố về số lượng; thành phần (trí thức, công nhân, nông dân, học sinh, thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi, phụ lão...); trình độ văn hoá; tình hình thực hiện pháp luật ở cơ sở; ý thức thực hiện pháp luật và nhu cầu tìm hiểu pháp luật của đối tượng.

Báo cáo viên có thể nắm vững đối tượng bằng phương pháp trực tiếp (tự điều tra, tìm hiểu, gặp gỡ, quan sát...) hoặc bằng phương pháp gián tiếp (qua tài liệu, sách báo, báo cáo tổng kết, trao đổi với người tổ chức buổi tuyên truyền...). Cần có thông tin đầy đủ từ phía cơ quan tổ chức tuyên truyền về thành phần dự. Chú ý những thay đổi có thể diễn ra về thành phần người nghe.

- Nắm vững vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh: Đó là các vấn đề về kỹ thuật nghiệp vụ chuyên ngành, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực đó, các tài liệu lý luận, giáo khoa, các tài liệu của nước ngoài trong lĩnh vực đó. Để nắm vững vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh đòi hỏi báo cáo viên ngoài trình độ chuyên môn tốt cần phải có quá trình tích lũy, sưu tầm với một ý thức trách nhiệm và lòng say mê với nghề nghiệp.

- Nắm vững nội dung văn bản, cụ thể là hiểu rõ bản chất pháp lý của vấn đề được văn bản điều chỉnh, sự cần thiết phải ban hành văn bản; hiểu rõ đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của văn bản; hiểu rõ ý nghĩa của các quy phạm, đặc biệt là ý nghĩa về mặt quản lý Nhà nước, về tác dụng điều chỉnh của từng quy phạm cụ thể; nghiên cứu các văn bản hướng dẫn thi hành, tài liệu hướng dẫn tuyên truyền và hệ thống văn bản điều chỉnh lĩnh vực đó.

Muốn vậy, người nói cần nắm được thông tin liên quan đến văn bản từ giai đoạn soạn thảo, lấy ý kiến đến khi ban hành (tờ trình về dự án Luật, các báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia xây dựng Luật...). Như vậy, người nói phải nắm được một cách toàn diện không những nội dung văn bản mà còn cả những vấn đề có liên quan đến việc ra đời và triển khai văn bản đó, cụ thể cần nắm vững tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của việc ban hành các văn bản đó thông qua các nghị quyết của Đảng, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội hoặc trực tiếp hơn là qua tờ trình về việc ban hành văn bản, qua các bài báo, bình luận khoa học về văn bản. Ngoài ra, trong quá trình tuyên truyền, người nói cũng cần giới thiệu có chọn lọc ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động thực tiễn liên quan đến văn bản đó.

- Sưu tầm tài liệu dẫn chứng, minh họa: Đây là nội dung rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến chất lượng, độ sâu và sức thuyết phục của buổi tuyên truyền. Tài liệu, dẫn chứng minh họa có tính chính thức, độ tin cậy cao, có thể được sưu tầm trên Báo Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam... hoặc các tạp chí chuyên ngành; các công trình khoa học đã được công bố; bài viết trên các báo, đặc san khoa học; số liệu, dẫn chứng trên các trang thông tin điện tử (trang Web) cần được lựa chọn phù hợp. Khi sưu tầm tài liệu, báo cáo viên cần chú ý đến tính chất, yêu cầu của tài liệu đó, tuyệt đối tránh tài liệu, dẫn chứng minh họa thuộc diện mật của Đảng và Nhà nước; số liệu, dẫn chứng đã cũ không còn phù hợp với hiện tại.

- Chuẩn bị đề cương: Đề cương tuyên truyền miệng (bao gồm đề cương sơ bộ và đề cương chi tiết) cần đầy đủ về nội dung, thích hợp với đối tượng, chặt chẽ về bố cục, sắc sảo về lập luận. Khi chuẩn bị đề cương cần chú ý những yêu cầu sau:

+ Đề cương không phải là một bài viết hoàn chỉnh, cụ thể mà là tài liệu nêu lên các trọng tâm cần tập trung tuyên truyền, phổ biến. Trên cơ sở đó, báo cáo viên phân tích cụ thể, mở rộng những vấn đề nêu trong đề cương. Đề cương tuyên truyền có nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo việc tổ chức triển khai tuyên truyền văn bản pháp luật cho phù hợp với từng loại đối tượng, trên từng địa bàn.

+ Cần lựa chọn vấn đề cốt lõi của văn bản có liên hệ với hệ thống pháp luật để làm rõ mối quan hệ của văn bản với hệ thống pháp luật.

+ Để thu hút người nghe và tạo điều kiện cho người nghe hiểu văn bản có tính hệ thống, toàn bộ các phần trong đề cương phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau như một câu chuyện là: yêu cầu, nhiệm vụ của văn bản; cơ chế quản lý như thế nào; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể ra sao; chế tài áp dụng đối với người vi phạm thế nào... để sao cho đạt được yêu cầu, nhiệm vụ cần tuyên truyền.

5.2. Tiến hành một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật

Một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật thường có các phần sau:

- Vào đề: Là phần giới thiệu vấn đề, định hướng tư duy, khơi gợi nhu cầu của đối tượng, thiết lập quan hệ giữa người nói với người nghe. Với tuyên truyền miệng về pháp luật, cách vào đề có hiệu quả thường là gợi ra nhu cầu tìm hiểu ý nghĩa, sự cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật.

Trước khi bắt đầu phần này, báo cáo viên cần có những lời chào mừng, chúc tụng đối với người nghe để gây thiện cảm và không khí gần gũi. Trong phần vào đề, người nói phải nêu được khoảng từ 3, 4 vấn đề chủ yếu mà người nghe cần tìm hiểu nhất để tạo sự chú ý, sức hấp dẫn cho người nghe. Việc nêu các vấn đề đó còn tuỳ thuộc ở khả năng diễn thuyết của báo cáo viên. Báo cáo viên có thể bắt đầu từ một câu chuyện pháp luật được các phương tiện thông tin đại chúng nói đến nhiều thời gian qua; có thể bằng các tình huống xảy ra gần địa bàn nơi tổ chức tuyên truyền hoặc một câu chuyện có liên quan mà tình cờ báo cáo viên biết được qua trao đổi trước buổi tuyên truyền với một số người nghe...

- Nội dung: Là phần chủ yếu của buổi nói, làm cho đối tượng hiểu, nắm được nội dung, chuyển biến nhận thức, nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng. Cần lưu ý là phải nêu được những điểm mới, thời sự để người nghe chú ý; khi tuyên truyền không được sao chép, đọc nguyên văn văn bản để tránh sự nhàm chán. Khi giảng cần phân tích, giải thích và nêu ý nghĩa của văn bản pháp luật đó. Viết, đọc một đoạn nào đó trong văn bản chỉ có tính chất dẫn chứng, minh họa những gì mà người nói đã phân tích, dẫn chứng ở trước.

Trong tuyên truyền văn bản phải chú ý tới hai điều, đó là: lựa chọn cách trình bày phù hợp với đối tượng và nêu được vấn đề cơ bản, cốt lõi, trọng tâm để người nghe thâu tóm được tinh thần văn bản. Sử dụng hợp lý kênh ngôn ngữ (nói) và kênh phi ngôn ngữ (cử chỉ, động tác).

Đối tượng tuyên truyền miệng rất phong phú nhưng có thể chia thành 4 loại: Cán bộ quản lý; cán bộ nghiên cứu, xây dựng văn bản; cán bộ tuyên truyền; những người phải chấp hành pháp luật (cán bộ, nhân dân). Trên cơ sở sự phân loại đó, báo cáo viên có thể xác định được mục đích, yêu cầu, nội dung trọng tâm, phương pháp trình bày cho phù hợp với từng đối tượng, cụ thể là:

+ Với cán bộ quản lý: Báo cáo viên cần xác định người nghe là cán bộ quản lý ở cấp nào để có thể có phương pháp trình bày thiên về khái quát hoặc diễn giải; thiên về lý luận hoặc thực tiễn. Đối với người nghe là cán bộ quản lý cấp tỉnh thì người nói có thể trình bày vấn đề thiên về khái quát có kết hợp phân tích, diễn giải; nhưng nếu người nghe là cán bộ cấp xã thì người nói cần phải sử dụng phương pháp suy diễn, phân tích cụ thể về thực tiễn rồi sau đó khái quát thành những đánh giá, lý luận. Người nói cần làm rõ những quy định về quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, cán bộ nhà nước; nội dung quản lý nhà nước; các hình thức vi phạm và mức độ xử lý; thẩm quyền xử lý; tổ chức thi hành văn bản...

+ Với cán bộ nghiên cứu, xây dựng văn bản: Phương pháp khái quát thường đạt hiệu quả tuyên truyền cao vì đối tượng này có trình độ, thường quan tâm đến những quan điểm, những vấn đề lý luận chứa đựng trong văn bản. Ngoài ra báo cáo viên cần làm rõ: văn bản đã đáp ứng được những nhu cầu, đòi hỏi thực tiễn nào, những gì còn hạn chế, chưa đáp ứng được; những gì đã thống nhất, những gì tồn tại; các ý kiến khác nhau về những nội dung của văn bản trước khi được ban hành; các văn bản được ban hành tiếp theo và văn bản để cụ thể hóa văn bản này; vị trí của văn bản này trong hệ thống các văn bản thuộc lĩnh vực văn bản điều chỉnh...

+ Với cán bộ tuyên truyền (bao gồm: báo cáo viên, tuyên truyền viên, phóng viên, biên tập viên các báo, đài): Có thể dùng phương pháp khái quát hoặc diễn giải tuỳ thuộc vào hình thức văn bản nhưng cần tập trung nhấn mạnh những nội dung để phục vụ cho công tác tuyên truyền của cán bộ tuyên truyền như: bản chất, ý nghĩa pháp lý của vấn đề; sự cần thiết, mục đích của việc ban hành văn bản; những số liệu, tài liệu cần viện dẫn, đối chiếu, so sánh; các vấn đề chủ yếu cần tập trung phổ biến, tuyên truyền.

+ Với những người phải chấp hành pháp luật: Sử dụng phương pháp diễn giải là phù hợp. Cần nêu bản chất, ý nghĩa của vấn đề, mục đích, sự cần thiết phải ban hành văn bản, ý nghĩa của các quy phạm liên quan đến từng đối tượng thi hành trong văn bản. Báo cáo viên cần tập trung phân tích quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ xã hội được văn bản điều chỉnh, cơ chế thực hiện quyền khiếu nại, khởi kiện, thời hiệu khiếu nại, khởi kiện...

* Trong thực tiễn tuyên truyền miệng pháp luật, vì nhiều lý do, có thể xảy ra những “trục trặc” ngoài ý muốn khi đang thực hiện buổi tuyên truyền miệng pháp luật. Những “trục trặc” thường gặp trong thực tế là:

- Nói lắp, nói nhịu: Đôi khi trong khi đang nói vì căng thẳng hay mệt mỏi báo cáo viên nói lắp, nói nhịu. Đây là hiện tượng vô thức xảy ra ngoài ý muốn của con người. Khi xảy ra hiện tượng này, thường sẽ gây nên tiếng cười, ồn ào trong người nghe. Để khắc phục hiện tượng này, báo cáo viên cần phải bình tĩnh, không được mất tinh thần; lấy lại sự tập trung vào bài giảng. Báo cáo viên có thể kể một câu chuyện vui hoặc có những câu nói hài hước để tạo nên không khí thoải mái, vui vẻ trong buổi tuyên truyền, sau đó khéo léo dẫn dắt vào bài giảng.

- Lạc đề: Hiện tượng này xảy ra do báo cáo viên phân tích, diễn giải vấn đề quá rộng dẫn đến những nội dung báo cáo viên nói không có liên quan hoặc ít liên quan đến bài giảng. Trong trường hợp này, báo cáo viên không được mất bình tĩnh; sử dụng phương pháp quy nạp, từ những vấn đề đã phân tích, diễn giải rộng ở trên, báo cáo viên khéo léo dẫn dắt người nghe đến những nội dung chính của bài giảng.  Để kiểm soát được bài giảng của mình đúng trọng tâm, không lạc đề đòi hỏi báo cáo viên phải chuẩn bị kỹ nội dung bài giảng, trong khi giảng bài cần tập trung, luôn quan tâm theo dõi đến thái độ (phản ứng) của người nghe để điều chỉnh bài giảng hợp lý.

- Thừa giờ hoặc thiếu giờ: Tình huống này thường xảy ra đối với những báo cáo viên còn thiếu kinh nghiệm trong nghề. Đây là trường hợp thời gian dự kiến ban đầu của buổi tuyên truyền miệng vẫn còn nhưng báo cáo viên đã truyền đạt hết các nội dung văn bản pháp luật hoặc đã hết giờ mà chưa truyền đạt hết nội dung. Nếu gặp phải trường hợp này, tuỳ vào từng hoàn cảnh cụ thể mà báo cáo viên cần phải nhanh nhạy chuyển sang hình thức khác có liên quan đến bài giảng như tổ chức thảo luận về những nội dung của văn bản quy phạm pháp luật, báo cáo viên sẽ trực tiếp giải đáp những thắc mắc của người nghe hoặc báo cáo viên chuẩn bị sẵn những câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng để hỏi người nghe hoặc tổ chức giao lưu, học hỏi kinh nghiệm về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật giữa báo cáo viên và người nghe, nhất là khi người nghe là những cán bộ tuyên truyền pháp luật...

Ngoài ra, cần xử lý các tình huống khác trong hội trường như: Học viên ngủ gật, nghe điện thoại di động, mất điện, học viên nói chuyện riêng...

5.3. Phần kết luận:

Là phần người nói thường điểm lại và tóm tắt những vấn đề cơ bản đã tuyên truyền. Tùy từng đối tượng mà nêu những vấn đề cần lưu ý đối với họ. Trong phần này, người nói sau khi đã phân tích, diễn giải cần phải tóm tắt lại những nội dung chính của buổi tuyên truyền miệng và những vấn đề cần lưu ý. Tuy nhiên, với mỗi một đối tượng khác nhau sẽ có cách thức tóm tắt khác nhau căn cứ vào nhu cầu, lĩnh vực công tác của đối tượng.

5.4. Trả lời câu hỏi của người nghe: Người nói cần dành thời gian cần thiết trả lời các câu hỏi mà người nghe quan tâm, chưa hiểu rõ. Đây là phần người nói có thể đánh giá được mức độ hiểu bài của người nghe; là dịp để người nói trao đổi những kinh nghiệm, hiểu biết của mình cho người nghe.

Tóm lại, hiệu quả của tuyên truyền miệng về pháp luật phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Để đạt hiệu quả tuyên truyền cao, người tuyên truyền cần phải dày công tích luỹ, chuẩn bị đề cương, phải có nghệ thuật vượt qua hàng rào ngăn cách ban đầu về mặt tâm lý, gây thiện cảm, gây sự chú ý của người nghe từ khi bắt đầu buổi nói chuyện; phải biết tạo ra nhu cầu, kích thích, hấp dẫn, gây ấn tượng cho người nghe trong suốt buổi nói; biết kết luận đúng cách để khi kết thúc còn đọng lại những điều cần thiết cho người nghe tiếp tục suy nghĩ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 4

Kỹ năng biên soạn tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật

 

I. Giới thiệu chung

          1. Tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) đóng vai trò quan trọng trong hoạt động PBGDPL. Tài liệu PBGDPL vừa là cẩm nang, công cụ, phương tiện trợ giúp đắc lực cho người làm công tác PBGDPL, vừa là cầu nối đưa pháp luật đến nhân dân, chiến sỹ.

          Biên soạn, phát hành tài liệu PBGDL là một trong những hình thức PBGDPL.

          2. Tài liệu PBGDPL gồm nhiều loại. Mỗi loại tài liệu PBGDPL phù hợp với đối tượng  khác nhau và được sử dụng trong nhiều hình thức PBGDPL khác nhau.

          - Đề cương giới thiệu, phổ biến văn bản pháp luật: Thường phục vụ cho báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật để sử dụng trong tuyên truyền miệng (tập huấn, nói chuyện pháp luật) hoặc dùng làm tài liệu tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng (qua hệ thống phát thanh, loa truyền thanh cơ sở).

          - Sách pháp luật gồm:

+ Sách nghiên cứu, bình luận, hướng dẫn, giải thích pháp luật, sách giáo khoa, sách tham khảo, sách hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật thường sử dụng trong công tác giảng dạy và học tập pháp luật trong nhà trường hoặc phục vụ nhu cầu nghiên cứu, sử dụng của các cán bộ làm công tác về pháp luật.

+ Sách pháp luật phổ thông sử dụng trong hoạt động hòa giải, trợ giúp pháp lý và trên các sóng truyền hình hoặc người dân có nhu cầu tìm hiểu có thể trực tiếp đọc sách, chủ động nghiên cứu các vấn đề pháp luật trong sách.

          - Tờ gấp pháp luật;

          - Bản tin pháp luật;

          - Pa nô, áp phích PBGDPL;

          - Băng tiếng, băng hình PBGDPL.

          - Câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật.

          - Các tài liệu PBGDPL khác.

          Trong phạm vi hoạt động PBGDPL trong quân đội nhân dân, phần này chỉ đề cập đến kỹ năng biên soạn đề cương giới thiệu, phổ biến văn bản pháp luật, sách pháp luật phổ thông, tờ gấp pháp luật, câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật.

          II. Kỹ năng biên soạn đề cương giới thiệu, phổ biến văn bản pháp luật

          1. Một số vấn đề chung

1.1. Khái niệm:

Đề cương giới thiệu, phổ biến văn bản pháp luật là tài liệu để giải thích, hướng dẫn, phổ biến một văn bản pháp luật, một nội dung pháp luật hoặc một vấn đề pháp lý. Người sử dụng có thể dựa vào đề cương để nghiên cứu nội dung văn bản, các trọng tâm cần tập trung để phổ biến hoặc để biên soạn các tài liệu PBGDPL khác một cách cụ thể, sát hợp, phù hợp với bối cảnh, đối tượng nhưng vẫn bảo đảm cho đối tượng hiểu chính xác nội dung văn bản và thực hiện thống nhất. Mặt khác, đề cương phổ biến còn có nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo việc tổ chức triển khai PBGDPL phù hợp với từng loại đối tượng trên từng địa bàn.

          1.2. Đối tượng sử dụng

Đối tượng sử dụng đề cương giới thiệu phổ biến văn bản pháp luật trong quân đội thường là các báo cáo viên pháp luật và chính trị viên.

          1.3. Yêu cầu đối với đề cương giới thiệu, phổ biến văn bản pháp luật

Để tạo điều kiện cho các đối tượng có thể sử dụng đề cương một cách linh hoạt, dễ dàng và khai thác tối đa hiệu quả, việc xây dựng đề cương cần phải bảo đảm được các yêu cầu về hình thức, nội dung như sau:

          - Về hình thức: Bố cục đề cương phải rõ ràng, chặt chẽ, hợp lý. Ngôn ngữ được sử dụng trong đề cương là ngôn ngữ đại chúng, cách hành văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Diễn đạt mạch lạc, súc tích, ngắn gọn. Độ dài của đề cương tùy thuộc vào nội dung vấn đề cần tuyên truyền.

          - Về nội dung: Đề cương phải tạo điều kiện cho người sử dụng hiểu đúng mục đích, ý nghĩa của văn bản pháp luật, hiểu chính xác quy định của  pháp luật, nắm được các ý chính, trọng tâm của vấn đề, cách vận dụng các quy định pháp luật trong các quan hệ xã hội.

2. Nội dung cơ bản của Đề cương

Đề cương giới thiệu, phổ biến một văn bản pháp luật thường bao gồm 3 phần chính sau đây:

Phần 1. Những vấn đề chung

Phần này thường nêu sự cần thiết, mục đích, ý nghĩa của việc ban hành văn bản. Phần này cũng cần nêu nguồn gốc pháp lý của văn bản (xuất phát từ Hiến pháp, Luật hoặc các văn bản quy phạm khác), vị trí, vai trò của văn bản trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội; mối quan hệ của văn bản với các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan; quan điểm và những nguyên tắc chỉ đạo việc xây dựng văn bản pháp luật; tư tưởng chủ đạo và yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong đời sống hàng ngày.

Phần 2. Nội dung chủ yếu của văn bản

- Bố cục văn bản: Số chương, tên các chương, số điều trong chương để người sử dụng có thể hình dung khái quát nội dung văn bản.

- Nội dung chủ yếu của văn bản:

+ Nhiệm vụ của văn bản;

+ Đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của văn bản;

+ Những nguyên tắc chung chi phối các quy định trong văn bản;

+ Những vấn đề được đề cập trong nội dung văn bản, ý nghĩa các quy phạm, chế định trong văn bản;

+ Những điểm mới trong văn bản so với pháp luật hiện hành, những điểm sửa đổi, bổ sung, lý do sửa đổi, bổ sung, ý nghĩa của việc sửa đổi, bổ sung. Khi cần thiết có thể nêu một số vấn đề gây tranh luận, những vấn đề đang tồn tại;

+ Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể và những người có liên quan, các quy định, thủ tục phải thực hiện;

+ Vị trí của văn bản trong hệ thống pháp luật hiện hành, các văn bản sẽ ban hành kèm theo (nếu có).

Trong điều kiện có thể, đề cương giới thiệu, phổ biến pháp luật nên có các tài liệu tham khảo kèm theo bao gồm các số liệu, các trích dẫn để khẳng định, chứng minh, so sánh, mở rộng những vấn đề đã nêu trong đề cương nhằm giúp cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật, chính trị viên, tuyên truyền viên pháp luật có điều kiện tham khảo, dẫn chứng khi thực hiện các hoạt động phổ biến pháp luật cho cán bộ và nhân dân.

Phần 3. Tổ chức thực hiện

Đây là phần hướng dẫn người sử dụng đề cương chủ yếu là các báo cáo viên pháp luật, chính trị viên, tuyên truyền viên pháp luật. Trong phần này cần làm rõ các vấn đề:

Nêu trọng tâm, trọng điểm phổ biến, gắn phổ biến văn bản với việc thực hiện những chủ trương lớn, những vấn đề thời sự và yêu cầu quản lý của ngành, của địa phương;

- Đưa ra các gợi ý về biện pháp tổ chức thực hiện, phương pháp và hình thức phổ biến đối với từng loại đối tượng, từng địa bàn căn cứ vào nhu cầu của đối tượng và điều kiện kinh tế xã hội của địa phương; đặc biệt là tập trung quan tâm đến đối tượng cần chú trọng tuyên truyền;

- Các điều kiện bảo đảm thực hiện văn bản (kinh phí, nhân lực, cơ sở vật chất).

3. Các bước cần thiết để viết Đề cương

Bước 1: Chuẩn bị

- Nghiên cứu văn bản pháp luật mới ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung.

- Thu thập và nghiên cứu kỹ các tài liệu có liên quan trong quá trình xây dựng văn bản như: Tờ trình về việc ban hành văn bản; báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản; các văn kiện của Đảng, chính sách của nhà nước;  các tài liệu trong nước và nước ngoài liên quan đến nội dung văn bản để nắm được xuất xứ của văn bản (nếu là văn bản ban hành lần đầu), văn bản gốc và yêu cầu thực tế khách quan liên quan đến những nội dung cần sửa đổi, bổ sung (đối với văn bản sửa đổi, bổ sung). Việc nghiên cứu các văn kiện của Đảng, văn bản gốc, các tài liệu trong nước và nước ngoài là cơ sở để giải thích ý nghĩa việc đưa ra các quy phạm, phân tích những điểm mới đưa ra trong văn bản hoặc những điểm sửa đổi, bổ sung cơ sở lý luận và cơ sở thực tế của việc sửa đổi, bổ sung, sự cần thiết và lý do sửa đổi, bổ sung.

-  Tìm hiểu đối tượng sử dụng, mục đích sử dụng đề cương để đưa ra các hướng dẫn, chỉ đạo cách thức, biện pháp phổ biến thích hợp.

-  Nghiên cứu tình hình kinh tế xã hội, phong tục, truyền thống, tình hình vi phạm pháp luật, yêu cầu quản lý về lĩnh vực đề cập trong văn bản, để phân tích các vấn đề nêu ra trong văn bản đã đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội và yêu cầu của công tác quản lý trong lĩnh vực đó.

Bước 2: Biên soạn đề cương.

Trước khi viết một đề cương hoàn chỉnh, thường xây dựng bố cục đề cương chi tiết. Sau khi lãnh đạo thông qua bố cục đề cương, có thể:

- Trực tiếp biên soạn bằng cách dựa trên cơ sở đề cương chi tiết và các tài liệu đã được nghiên cứu để viết đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật.

- Phối hợp với các cơ quan chuyên môn tham gia soạn thảo văn bản đề nghị viết theo bố cục đề cương chi tiết.

Bước 3: Biên tập đề cương.

Bước 4: Hoàn chỉnh, in ấn và gửi cho các đối tượng sử dụng.

III. Kỹ năng biên soạn sách pháp luật phổ thông

1. Một số vấn đề chung

1.1. Khái niệm: Sách pháp luật phổ thông là một loại tài liệu phổ biến pháp luật khá tiện dụng, được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả trong công tác PBGDPL. Đây là loại tài liệu không thể thiếu trong công tác PBGDPL nói chung và PBGDPL cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nhân dân nói riêng thông thông qua văn hoá đọc. PBGDPL thông qua sách pháp luật phổ thông có những ưu điểm và nhược điểm như sau:

* Ưu điểm:

-  Phổ biến được nhiều vấn đề, nhiều nội dung pháp luật;

-  Đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của nhiều đối tượng với nhiều trình độ nhận thức khác nhau;

- Người đọc có thể tự tìm hiểu, tiếp cận và lĩnh hội các nội dung pháp luật qua việc đọc sách, chủ động nghiên cứu các vấn đề được viết trong sách;chủ động về thời gian và các nội dung pháp luật cần tìm hiểu theo nhu cầu của bản thân.

* Nhược điểm:

- Hiệu quả việc phổ biến pháp luật qua sách pháp luật quan hệ chặt chẽ với chất lượng biên soạn sách;

-  Kiến thức người dân thu nhận được thông qua việc đọc sách, nghiên cứu sách pháp luật gắn với trình độ dân trí.

- Phổ biến pháp luật qua sách phụ thuộc vào tính chủ động và sở thích, thói quen của người đọc.

1.2. Yêu cầu của việc biên soạn sách pháp luật phổ thông

- Về nội dung: Nội dung sách phải gồm các vấn đề phổ biến, thường gặp trong đời sống hàng ngày, được nhiều người quan tâm, liên quan đến việc hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật, đến các trình tự, thủ tục thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân hoặc có liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

Về bố cục: Sách phải có bố cục rõ ràng, kết cấu lôgic, chặt chẽ, câu văn ngắn gọn, súc tích; ngôn ngữ giản dị, bình dân, dễ hiểu và chỉ mang một nghĩa, giúp ng­ười đọc hiểu một cách chính xác, thống nhất đúng với các quy định của pháp luật và dễ thực hiện.

- Về hình thức: Sách cần đ­ược trình bày khoa học, khổ chữ vừa phải, dễ đọc, chất lượng in rõ, khổ sách và độ dày vừa phải, gọn gàng, dễ mang theo, thuận tiện cho người sử dụng. Sách phục vụ các đối tượng là trẻ em phải có tranh minh họa, sách phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số phải được dịch ra tiếng dân tộc kèm theo tranh minh hoạ giúp cho người sử dụng dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo.

Về giá sách: Hợp lý, phù hợp với mức thu nhập trung bình của nhân dân, tạo điều kiện cho nhiều ng­ười có nhu cầu, có khả năng mua sách.

2. Tổ chức biên soạn sách pháp luật phổ thông

Việc tổ chức biên soạn sách pháp luật cần theo các bước sau:

2.1. Xây dựng kế hoạch biên soạn sách

Kế hoạch biên soạn sách cần có các nội dung:

-  Mục đích, yêu cầu biên soạn sách: Căn cứ mục đích của việc phổ biến pháp luật trong từng giai đoạn, từng địa bàn để xác định mục đích biên soạn sách: giới thiệu, phổ biến về những nội dung pháp luật nào? Tại sao cần phổ biến, giáo dục những nội dung pháp luật đó? Yêu cầu cần phải đạt đối với việc biên soạn sách là gì?

-  Đối t­ượng sử dụng sách: Cần xác định rõ sổ tay được biên soạn cho nhóm cán bộ, chiến sĩ hay người dân? Nếu là người dân là nhóm đối tượng cụ thể nào? Việc xác định rõ đối tượng không những giúp lựa chọn nội dung, hình thức phù hợp mà còn tạo thuận lợi cho việc in, phát hành và sử dụng sách được thuận lợi, tiết kiệm, hiệu quả.

-  Các nội dung chủ yếu của cuốn sách: Có thể xác định trong kế hoạch dự thảo đề cương sách hoặc kèm theo kế hoạch là Đề cương chi tiết cuốn sách.

-  Thời gian hoàn thành và giao nộp bản thảo

-  Các thông số về cuốn sách: khổ sách, độ dày, số trang, số phát hành, giá bìa (nếu là sách để bán);

-  Số l­ượng in, nơi in;

-  Ph­ương thức phát hành;

-  Nguồn kinh phí phục vụ việc biên soạn, phát hành sách.

2.2. Thành lập Ban biên tập và dự kiến người tham gia biên soạn

-  Trư­ởng Ban biên tập kiêm Chủ biên cuốn sách - là ngư­ời chịu trách nhiệm chính về nội dung cuốn sách, có trách nhiệm đọc, chỉnh lý và duyệt lần cuối cùng tr­ước khi đư­a in sách;

-  Ban biên tập là những người tổ chức quá trình biên soạn và trực tiếp biên tập;

-  Ng­ười tham gia biên soạn sách thường là các chuyên gia trong những lĩnh vực có liên quan đến nội dung sách.

2.3. Tổ chức họp Ban biên tập triển khai việc biên soạn và thống nhất các vấn đề

-  Kế hoạch biên soạn sách, mục đích, đối t­ượng sử dụng sách;

-  Nội dung sách: Bố cục sách (mấy phần), nội dung cụ thể trong từng phần (đề cương chi tiết);

-  Thống nhất cách biên soạn;

-  Dự kiến ng­ười tham gia biên soạn;

- Cung cấp các văn bản, tài liệu tham khảo có liên quan đến nội dung sách.

2.4. Biên tập lần một

Sau khi thu bản thảo, Ban biên tập tổ chức biên tập lần thứ nhất. Mục đích của việc biên tập lần thứ nhất là:

          -  Xác định xem nội dung cuốn sách được biên soạn đã thể hiện đúng mục tiêu, yêu cầu và phù hợp với đối tư­ợng sử dụng như­ trong kế hoạch đề ra chưa.

-  Soát lại câu chữ, cách hành văn, ngữ pháp, lỗi chính tả và hình thức thể hiện cho thống nhất.

Sau khi biên tập lần thứ nhất nếu thấy bản thảo đạt yêu cầu thì gửi cho các chuyên gia để xin ý kiến thẩm định.

Nếu bản thảo chưa đạt yêu cầu Ban biên tập sẽ đề nghị người viết sửa lại theo đúng mục tiêu, yêu cầu trong kế hoạch đề ra.

2.5. Thẩm định

Ngư­ời thẩm định là các chuyên gia hàng đầu trong các lĩnh vực pháp luật liên quan đến nội dung sách. Người thẩm định chủ yếu đọc góp ý, sửa chữa nội dung sách, tính chính xác của các phân tích, giải thích và trích dẫn, các quy phạm pháp luật nêu trong sách.

2.6. Biên tập lần hai: Trên cơ sở ý kiến của các chuyên gia thẩm định, biên tập viên đọc lại bản thảo trực tiếp sửa chữa, chỉnh lý lại nội dung đối với những sai sót không nhiều, không ảnh hư­ởng lớn đến cuốn sách nếu thấy ý kiến của chuyên gia thẩm định là chính xác.

Biên tập viên đọc lại và hoàn chỉnh bản thảo sau đó đưa chủ biên đọc duyệt lần cuối.Trường hợp có những sai sót lớn hoặc có ảnh hưởng đến bố cục hay nội dung sách thì cần báo cáo với chủ biên và đề nghị ng­ười viết biên soạn lại theo các ý kiến đóng góp.

2.7. In ấn, phát hành

Đối với các sách biên soạn theo yêu cầu của nhà xuất bản thì chỉ cần chuyển bản thảo sang cho nhà xuất bản. Việc in và phát hành sẽ do nhà xuất bản đảm nhiệm.

Đối với các sách do cơ quan, đơn vị tự biên soạn thì phải làm thủ tục như: Xin giấy phép xuất bản, liên hệ với nhà in chuẩn bị các thủ tục in sách (làm ma két bìa, liên hệ với nhà in ký hợp đồng in có quy định rõ giá thành, phương thức thanh toán, xác định giá bán nếu là sách bán thu tiền). Nộp l­ưu chiểu sau khi in xong và tổ chức phát hành (trong quân đội thường cấp phát miễn phí).

3. Kỹ năng biên soạn nội dung sách pháp luật phổ thông

Sách pháp luật phổ thông gồm: sách hỏi đáp pháp luật, sách hướng dẫn tìm hiểu pháp luật, sách pháp luật bỏ túi. Với mỗi loại sách có những điểm khác nhau trong kỹ năng biên soạn.

3.1. Sách hỏi đáp pháp luật

Sách hỏi đáp pháp luật có thể sử dụng để giới thiệu, phổ biến một văn bản, một nội dung, một lĩnh vực pháp luật.Nội dung sách hỏi đáp pháp luật có thể là một nội dung, một lĩnh vực pháp luật hoặc gồm nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến các quan hệ xã hội thường gặp trong đời sống chiến đấu, lao động và sinh hoạt hàng ngày của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân.

Bố cục sách có thể sắp xếp theo:

- Theo đối t­ượng như: Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng, hạ sĩ quan, binh sĩ, người dân ở khu vực, địa bàn đóng quân.

- Theo vấn đề, theo nội dung pháp luật hoặc các lĩnh vực pháp luật: An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, biên giới, chủ quyền quốc gia, dân sự, hình sự, hôn nhân - gia đình....

Kỹ năng biên soạn sách hỏi đáp pháp luật chủ yếu dựa trên phương pháp đặt câu hỏi và cách trả lời câu hỏi. Có các dạng câu hỏi sau:

-  Câu hỏi trực tiếp: Hỏi trực tiếp vào nội dung vấn đề. Câu hỏi trực tiếp thường dùng trong trường hợp cần giải thích các khái niệm, các thuật ngữ pháp lý, hoặc các vấn đề có tính lý thuyết.

Ví dụ: “Biên giới quốc gia là gì và cách xác định đường biên giới của một quốc gia?”, “Thế nào là hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự ?”

Đối với câu hỏi trực tiếp, câu trả lời thường gồm hai phần: nêu định nghĩa (hoặc nội dung) của khái niệm, thuật ngữ; giải thích nội dung các khái niệm, thuật ngữ sau đó đưa ra một ví dụ minh hoạ.

- Câu hỏi gián tiếp: Câu hỏi gián tiếp được xây dựng trên cơ sở thông qua một tình huống, một sự việc thư­ờng xảy ra trong thực tế để đư­a ra câu hỏi. Câu hỏi gián tiếp thường được dùng trong các trường hợp tuyên truyền phổ biến các quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của người dân, các thủ tục hành chính, hoặc muốn làm rõ một quy định của pháp luật.

Ví dụ: “Sau khi xuất ngũ, T dự định sẽ trở lại trường học để học nghề. T muốn biết những đối tượng nào được hỗ trợ đào tạo nghề? Để được hỗ trợ, các đối tượng phải đáp ứng những điều kiện gì? T có thuộc đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ khi tham gia đào tạo nghề không?”

Đối với câu hỏi loại này, trước tiên cần trả lời trực tiếp vào tình huống câu hỏi đặt ra sau đó chỉ dẫn đến các quy định của pháp luật trong các văn bản có liên quan đến câu hỏi để người dân có thể tìm hiểu thêm khi cần. Cũng có thể đảo lại bằng cách đưa ra các quy định của pháp luật liên quan đến tình huống trong câu hỏi, sau đó dựa trên các quy định đó trả lời cho tình huống được hỏi.

Lưu ý: Câu hỏi đ­ược đặt dưới dạng nào cũng cần ngắn gọn, rõ ràng, chỉ hỏi về một vấn đề, một vụ việc hoặc một lĩnh vực nhất định để tránh trường hợp câu trả lời quá dài dòng gây rối, khó hiểu cho ng­ười đọc.

3.2. Sách hướng dẫn tìm hiểu pháp luật

Sách hướng dẫn tìm hiểu pháp luật thường sử dụng để tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật (luật, bộ luật, pháp lệnh, nghị định) mới ban hành, mới sửa đổi, bổ sung.

Việc biên soạn sách hướng dẫn tìm hiểu pháp luật phải đảm bảo các yêu cầu chung tại mục 2 nêu trên. Ngoài ra, nội dung, bố cục sách tìm hiểu pháp luật cần chú ý một số điểm sau:

          - Nội dung sách th­ường chỉ gắn với một văn bản pháp luật hoặc một số nội dung chính của một văn bản pháp luật.

- Bố cục sách có thể như sau:

+  Vài nét về tình hình thực tế liên quan trực tiếp đến các vấn đề thuộc nội dung sách;

+  Giải thích các khái niệm, thuật ngữ nêu ra trong nội dung sách;

+  Các quy định của pháp luật về vấn đề nêu trong nội dung sách;

+  Các điểm mới, điểm sửa đổi, bổ sung (nếu có) so với các quy định pháp luật trước đây.

+  Hướng dẫn thực hiện.

Các nội dung trong sách đều phải viết thật ngắn gọn, cô đọng, rõ ràng, dễ hiểu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mang theo người để sử dụng khi cần.

3.3.  Sách pháp luật bỏ túi

Về cơ bản sách pháp luật bỏ túi cũng giống với sách hướng dẫn tìm hiểu pháp luật. Nội dung sách pháp luật bỏ túi th­ường chỉ đề cập đến một hoặc hai vấn đề. Mỗi vấn đề là một phần độc lập. Trong từng phần, bố cục như sau:

-  Giải thích các khái niệm, thuật ngữ nêu ra trong nội dung sách;

- Các quy định của pháp luật về vấn đề nêu trong nội dung sách;

- Hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật trong nội dung.

Sổ tay pháp luật bỏ túi thường có một số cách trình bày như sau: (i) Trình bày dưới dạng danh sách giúp người đọc dễ dàng nắm được toàn bộ nội dung thứ tự; (ii) Trình bày dưới dạng bảng biểu, sơ đồ giúp người đọc nắm bắt các nội dung phức tạp dù chỉ lướt qua, tiết kiệm từ ngữ, thể hiện logic và bố cục thông tin.

III. Biên soạn tờ gấp pháp luật

1. Một số vấn đề chung

1.1. Khái niệm

          Tờ gấp pháp luật là một loại tài liệu phổ biến pháp luật được biên soạn một cách ngắn gọn, rõ ràng trên khuôn khổ một tờ giấy nên dễ dàng, thuận tiện trong sử dụng, là một trong những hình thức phổ biến pháp luật hiệu quả.

1.2. Đối tượng sử dụng

So với các loại tài liệu phổ biến pháp luật khác như đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật, bản tin... thì tờ gấp pháp luật có đối tượng sử dụng rộng rãi hơn,  từ cán bộ, chiến sĩ, người lao động, người sử dụng lao động, học sinh, sinh viên cho đến toàn thể Nhân dân. Đây cũng là loại tài liệu PBGDPL được sử dụng khá phổ thông tại các khu vực miền núi, biên giới, biển đảo.

1.3. Ưu điểm của tờ gấp pháp luật

-  Tờ gấp pháp luật hấp dẫn người đọc bằng hình thức thể hiện, in nhiều màu, có tranh ảnh minh họa, trình bày rõ ràng...

- Đầy đủ, chính xác, cụ thể về nội dung của vấn đề đưa vào tờ gấp pháp luật như: Những điều cấm, những điều được làm, nên làm, quy chế, thủ tục tiến hành công việc, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan hữu quan trong một lĩnh vực nào đó…

- Thuận tiện cho việc sử dụng.

1.4. Một số hạn chế của tờ gấp pháp luật

- Nội dung cần ngắn gọn nên hạn chế về lượng thông tin.

- Giá trị sử dụng không được lâu bằng các tài liệu pháp luật khác.

2. Kỹ năng biên soạn tờ gấp pháp luật

Căn cứ vào nhu cầu và đối tượng sử dụng, người được giao nhiệm vụ có trách nhiệm lựa chọn những nội dung pháp luật phù hợp với từng đối tượng để đưa vào tờ gấp. Ví dụ: Tờ gấp pháp luật về quyền và nghĩa vụ, chế độ chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ có thể chia thành phần chung về quyền và nghĩa vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ và phần riêng về: Chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ trong thời gian phục vụ tại ngũ; chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ khi xuất ngũ; chế độ, chính sách đối với thân nhân hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ; chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị.

 Cách thức thể hiện nội dung có thể là những câu hỏi - đáp trực tiếp hoặc trả lời gián tiếp thông qua các tình huống pháp luật.

Có thể biên soạn tờ gấp với nhiều kích thước khác nhau tùy theo độ dài của nội dung nhưng kích thước phổ biến, giá thành rẻ là khổ giấy A4 gấp 3 với kích thước 9.9 cm x 21cm.

Bố cục tờ gấp gồm bố cục bìa, phần nội dung cho các trang, trám tranh, ảnh cho các trang, đặt tít của tờ gấp, tít của từng phần, chọn chữ, chọn màu và phân bố, làm hoạ tiết, hình vẽ trang trí cho từng trang. Bìa trước ghi tên của tờ gấp và tranh hoặc ảnh nhằm gây ấn tượng về chủ đề của tờ gấp. Bìa sau cũng có tác dụng làm tăng tính thẩm mỹ tờ gấp bằng những  khẩu hiệu, danh ngôn, tranh, ảnh… Khi phân bố nội dung cho các trang, cố gắng để mỗi trang thể hiện được một phần nội dung của tờ gấp và giữa các phần có thứ tự lôgíc với nhau. Tít của từng phần có thể theo tên chương, mục của văn bản hoặc tự đặt sát với nội dung của nó. Việc trám tranh, ảnh vào các trang không những gây ấn tượng về nội dung mà còn làm tăng tính hấp dẫn của tờ gấpViệc thay đổi kiểu chữ, cỡ chữ, chọn màu, phân bố màu, làm họa tiết, hình vẽ trang trí cho tờ gấp...là những việc có tính chất mỹ thuật; nếu có điều kiện nên mời họa sĩ tham gia để tờ gấp được trình bày đẹp và hợp lý.

IV. Biên soạn câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật

          1. Một số vấn đề chung

          1.1. Khái niệm

          Câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật là loại tài liệu PBGDPL được biên soạn ngắn gọn, nội dung mang tính tuyên truyền, giáo dục pháp luật cao, bám sát những con người, sự việc, vấn đề, tình huống có thật trong đời sống pháp luật hàng ngày. Đây là hình thức PBGDPL hiệu quả, được sử dụng khá rộng rãi.

          Câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật là hai khái niệm nhưng thực chất có cùng một nội dung, chỉ khác nhau ở cách thể hiện. Không thể có tiểu phẩm pháp luật nếu không có câu chuyện pháp luật. Câu chuyện pháp luật là nền tảng, là cơ sở để biên soạn tiểu phẩm pháp luật.

          1.2. Đối tượng sử dụng

          Câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật thường được sử dụng cho hình thức PBGDPL trên phương tiện phát thanh, truyền hình hoặc hình thức sân khấu. So với các loại tài liệu PBGDPL khác như đề cương giới thiệu văn bản pháp luật, sổ tay hỏi - đáp pháp luật, tờ gấp pháp luật… thì câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật có ít đối tượng sử dụng trực tiếp hơn. Bởi để sử dụng trực tiếp câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật thì người sử dụng cần có năng lực, trình độ nhất định, nhất là năng lực chuyển tải thành kịch bản sân khấu để dựng thành các tác phẩm sân khấu. Tuy nhiên, khi đã được chuyển tải, xây dựng thành tác phẩm sân khấu, được đưa ra công diễn, phát trên phương tiện thông tin đại chúng thì tác động, sức lan tỏa của tiểu phẩm pháp luật lại rất lớn.

          2. Kỹ năng biên soạn câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật

          Khi biên soạn câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật cần lưu ý một số vấn đề sau:

- Xác định rõ yêu cầu đối với câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật để người viết thực hiện. Thường là yêu cầu về nội dung, độ dài câu chuyện, tiểu phẩm; hình thức thể hiện; ngôn ngữ, văn phong sử dụng, nguồn tư liệu liệu để xây dựng câu chuyện, tiểu phẩm pháp luật. Thông thường, một câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật không nên quá dài, chỉ nên từ 1-3 trang A4 là phù hợp.

          - Đặt tên câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật: Tên phải phù hợp với nội dung, chủ đề của câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật. Nên đặt tên câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật đơn giản, gần gũi, gắn với đời sống pháp luật tại địa bàn. Tránh đặt tên khó hiểu, dài dòng.

          - Về nội dung: Phải phản ánh những sự thật của đời sống pháp luật, về một sự việc có thực, cụ thể hoặc khái quát, gắn với đời sống hàng ngày, học tập, công tác, lao động của cán bộ, chiến sỹ, nhân dân hoặc hướng cho họ quan tâm, tìm hiểu và áp dụng. Nội dung câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật phục vụ mục đích, quan điểm của việc PBGDPL, vận động cán bộ, chiến sỹ, Nhân dân chấp hành pháp luật.

          - Về hình thức thể hiện:

          + Câu chuyện pháp luật được thể hiện dưới hình thức văn kể, đơn giản, theo trình tự diễn biến câu chuyện.Chỉ cần đọc hoặc nghe một người đọc là thể hiện được cốt chuyện. Câu chuyện pháp luật chủ yếu sử dụng cho hình thức PBGDPL trên hệ thống phát thanh, truyền thanh.

          + Tiểu phẩm pháp luật được thể hiện dưới hình thức đối thoại, có bối cảnh, cần nhiều người thể hiện hoặc cần được thể hiện dưới nhiều vai (nhân vật). Nếu được thể hiện qua hình thức sân khâu thì cần có không gian, con người, phương tiện, đạo cụ mới thực hiện được. Tiểu phẩm pháp luật thường được sử dụng cho hình thức PBGDPL qua sân khấu, truyền hình, phát thanh.

          Câu chuyện pháp luật và tiểu phẩm pháp luật cần phải ngắn gọn, diễn đạt bằng một ngôn ngữ đơn giản, dễ nhớ. Nên kết hợp những phương pháp thể hiện báo chí và thủ pháp nghệ thuật của văn học, giữa ngôn ngữ thông tin chính luận với ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật để thể hiện nội dung pháp luật cần tuyên truyền, giáo dục. Có thể sử dụng ngôn ngữ hài hước nhưng không dung tục, châm biếm nhưng không đả kích, thù oán. Người làm công tác PBGDPL hoàn toàn có thể sử dụng câu chuyện pháp luật để xây dựng thành tiểu phẩm pháp luật và ngược lại, từ tiểu phẩm pháp luật có thể cô đọng lại thành câu chuyện pháp luật để sử dụng cho công tác PBGDPL./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 5

 Kỹ năng tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật

 

Thi tìm hiểu pháp luật là hình thức thi do cơ quan nhà nư­ớc, các tổ chức, các doanh nghiệp (sau đây gọi là đơn vị tổ chức cuộc thi) thực hiện nhằm động viên, khuyến khích người dân nâng cao hiểu biết pháp luật, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ khi tham gia. Mặc dù, việc tổ chức các cuộc thi mới mục đích nâng cao ý thức, nhận thức về pháp luật của người dân đã được thực hiện từ lâu nhưng đây luôn được coi là một trong những hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật hết sức quan trọng và hiệu quả. Ngoài việc lựa chọn hình thức thi phù hợp, đơn vị tổ chức cuộc thi hoàn toàn có thể chủ động về nội dung, về nhóm đối tượng hướng đến,...cũng như thời điểm, thời gian tổ chức cuộc thi để được đạt hiệu quả cao nhất. Đặc biệt, hiện nay với sự phát triển của internet và các thiết bị di động có kết nối mạng đã “xóa bỏ” hoàn toàn hạn chế về khoảng cách địa lý khi thực hiện tổ chức những cuộc thi có quy lớn trên phạm vi rộng.

Tuy nhiên, để tổ chức một cuộc thi tìm hiểu pháp luật thành công, hiệu quả, đạt được mục tiêu đề ra, các cá nhân (thuộc đơn vị tổ chức) trực tiếp tham gia tổ chức cần hiểu rõ về các loại hình/hình thức thi phổ biến, quy trình thực hiện và một số kỹ năng trong quá trình tổ chức.

1.     Các loại hình thi tìm hiểu pháp luật

Đối với các cuộc thi tìm hiểu pháp luật hiện nay, tùy vào mục đích, yêu cầu, điều kiện và hoàn cảnh mà đơn vị tổ chức cuộc thi có thể lựa chọn một trong các loại hình, hình thức thi hoặc kết hợp tổng hợp các loại hình và hình thức thi phổ biến sau đây:

- Loại hình sân khấu: diễn kịch, kể chuyện, hùng biện, hỏi đáp pháp luật...

- Loại hình sáng tác: thi vẽ, sáng tác: bài hát, thơ, tác phẩm văn học...

- Hình thức thi: trực tiếp/qua mạng; cá nhân/tập thể; tự luận/trắc nghiệm;

Đối với từng loại hình và hình thức thi nêu trên đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, vì vậy đơn vị tổ chức cần lựa chọn kỹ để sử dụng loại hình và hình thức phù hợp với nội dung, đối tượng và mục đích hướng tới để cuộc thi được tổ chức hiệu quả.

2.     Các bước cần thực hiện khi tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật

Để tổ chức một cuộc thi tìm hiểu pháp luật hiệu quả, đơn vị tổ chức cần biết chính xác các bước thực hiện và nội dung công việc của từng giai đoạn khi tiến hành tổ chức cuộc thi. Thông thường, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật thường được chia thành 03 giai đoạn:

2.1. Giai đoạn chuẩn bị

Giai đoạn chuẩn bị chính là giai đoạn quan trọng nhất của cuộc thi vì giai đoạn này chính là thời điểm đưa ra chủ trương, mục đích và quyết định nội dung cũng như yêu cầu khi tổ chức cuộc thi, từ đó hình thành chủ đề của cuộc thi. Để cuộc thi có ý nghĩa và lan tỏa rộng rãi, chủ đề của cuộc thi thường mang tính thời sự hoặc gắn vối một sự kiện, một chủ đề pháp luật quan trọng mà đơn vị tổ chức cuộc thi muồn thu hút sự chú ý của nhóm đối tượng mà cuộc thi hướng tới.

Ngoài việc xác định lựa chọn chủ đề, hình thức tổ chức và thời điểm tổ chức cuộc thi cũng hết sức quan trọng (chiếm từ 60-70% việc thu hút thì sinh quan tâm, tham gia và tạo nên thành công cho cuộc thi). Nội dung thi cũng phải đảm bảo phù hợp với đối tượng mà cuộc thi hướng tới. Nội dung thi phải mang tính phổ cập, thiết thực và dễ hiểu; tránh đưa ra những câu hỏi sáo rỗng hoặc mang tính học thuật, đánh đố người tham gia dự thi. Hình thức tổ chức cuộc thi phải phù hợp, gần gũi, dễ tiếp cận với đối tượng mà cuộc thi hướng tới.

Đồng thời, trong quá trình lập kế hoạch thực hiện, đơn vị tổ chức cũng nên tính toán chia cuộc thi thành nhiều phần thi nhỏ có nội dung và hình thức thi khác nhau (vẫn phải đảm bảo không vượt quá chủ đề của cuộc thi) để cuộc thi thêm sinh động. Nếu cuộc thi được tổ chức với nhiều phần thi nhỏ hoặc nhiều vòng thi thì trong Thể lệ của cuộc thi, đơn vị tổ chức phải thông báo rõ ràng về thời gian, cách tính điểm...để các cá nhân, tập thể nắm rõ trước khi tham gia dự thi.

Đối với các cuộc thi có nhiều vòng, để thu hút đông đảo người tham dự và “giữ lửa” thì cuộc thi cũng chỉ nên tổ chức thi 02 vòng với tổng thời gian không quá 02 tháng.

Kinh phí tổ chức cuộc thi cũng là một trong những yếu tố góp phần quan trọng vào sự thành công của mỗi cuộc thi. Vì vậy, trong quá trình xây dựng Kế hoạch cần dự toán t­ương đối chi tiết các khoản chi phí tổ chức cuộc thi trên tinh thần chi tiết kiệm mà vẫn đạt hiệu quả. Kinh phí cuộc thi bao gồm: kinh phí do cơ quan tổ chức cuộc thi hoặc cơ quan có đối tư­ợng được tuyên truyền pháp luật chịu trách nhiệm chính. Cuộc thi có nhiều cơ quan tham gia Ban tổ chức thì các cơ quan đó cùng có trách nhiệm hỗ trợ kinh phí dưới dạng quà tặng cho người đoạt giải, trao giải phụ.... Ngoài ra, cuộc thi có thể huy động tài trợ của các tổ chức, doanh nghiệp có lợi ích liên quan đến việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật

Về giải thư­ởng, tuỳ theo tính chất cuộc thi, đối tư­ợng dự thi và khả năng kinh phí mà Ban tổ chức sẽ quyết định về cơ cấu giải và giá trị giải (giải đặc biệt, nhất, nhì, ba, giải khuyến khích cho tập thể, cá nhân và các giải phụ). Giải thư­ởng có thể được trao bằng tiền hoặc hiện vật.

Trên cơ sở nhu cầu tổ chức cuộc thi, tùy mô hình đơn vị mà tổ chức có sáng kiến tổ chức cuộc thi có văn bản trình cá nhân hoặc cấp có thẩm quyền cho ý kiến về việc tổ chức cuộc thi. Ý kiến trả lời bằng văn bản của người hoặc cấp có thẩm quyền là căn cứ tiến hành tổ chức cuộc thi. Sau khi được cá nhân/t

2.1.1 Thành lập Ban tổ chức và Tổ thư ký giúp việc Ban tổ chức

Để việc thống nhất ý kiến và điều hành cuộc thi, thành viên Ban tổ chức nên là đại diện các cơ quan, ban, ngành, đơn vị có liên quan đến nội dung và đối tượng dự thi hoặc nhóm đối tượng mà đơn vị tổ chức cuộc thi muốn hướng đến. Tùy quy mô và mức độ quan trọng của cuộc thi, ngoài việc thành lập Ban tổ chức cuộc thi, đơn vị tổ chức cuộc thi có thể thành lập Tổ thư ký giúp việc Ban tổ chức cuộc thi. Thành viên Tổ thư ký giúp việc Ban tổ chức cuộc thi cũng nên là các cá nhân thuộc các cơ quan, ban, ngành, đơn vị có người trong Ban tổ chức cuộc thi. Đối với các cuộc thi có quy mô nhỏ, phạm vi hẹp thì thành viên Ban tổ chức và Tổ thư ký giúp việc Ban tổ chức có thể là người cùng thuộc đơn vị hoặc các bộ phận có liên quan đến cuộc thi trong Bộ, ngành, đoàn thể đó.

Để đảm bảo tính pháp lý trong việc tổ chức và chỉ đạo mọi hoạt động của cuộc thi, việc thành lập Ban tổ chức và Tổ thư ký giúp việc Ban tổ chức phải được thể hiện bằng Quyết định tổ chức và Quyết định thành lập được cấp có thẩm quyền phe duyệt. Trong đó, quy định rõ Trưởng ban, phó ban, danh sách thành viên; nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Tổ chức.

- Quyền hạn của Ban tổ chức:

+ Ban hành Kế hoạch tổ chức cuộc thi;

+ Thành lập Ban giám khảo, bộ phận thư ký (nếu cần);

+ Ban hành Quy chế của cuộc thi;

+ Thực hiện Kế hoạch tổ chức cuộc thi từ giai đoạn chuẩn bị đến khi tổng kết;

+ Chủ trì, phối hợp với các thành viên thuộc các cơ quan, đoàn thể có liên quan triển khai tổ chức cuộc thi;                                   

- Quyền hạn, nhiệm vụ của Tổ thư ký giúp việc Ban tổ chức:

+ Thành viên Tổ thư ký giúp nên là người thuộc đơn vị chủ trì tổ chức hoặc phối hợp tổ chức cuộc thi (Tổ trưởng Tổ thư ký là người thuộc đơn vị chủ trì tổ chức cuộc thi). Tổ thư ký giúp việc nên có từ 3 đến 5 thành viên (là những người am hiểu về nội dung hoặc có nghiệp vụ về loại hình thi) tuỳ theo quy mô và tính chất cuộc thi. Bộ phận này có nhiệm vụ giúp Ban tổ chức thực hiện các công việc trong suốt quá trình tổ chức cuộc thi;

+ Duy trì, đôn đốc tiến độ triển khai, thực hiện;

+ Cập nhật số liệu cuộc thi, xây dựng phiếu chấm điểm; tổ chức buổi thi hoặc chấm thi tuỳ theo hình thức thi, duyệt kết quả và xếp giải;

+ Tổ chức trao giải thư­ởng và tổng kết cuộc thi.

Lưu ý: Đề các thành viên của Ban tổ chức và Tổ thư ký phối hợp hoạt động hiệu quả, cần có bảng phân công rõ trách nhiệm, nhiệm vụ cụ thể của mỗi thành viên, dưới sự điều hành chung của Trưởng Ban tổ chức.

2.1.2 Xây dựng Thể lệ của cuộc thi

Vì mục đích, yêu cầu và nội dung của các cuộc thi tìm hiểu pháp luật là khác nhau nên từng cuộc thi sẽ có Thể lệ riêng. Nội dung của Thể lệ thường bao gồm một số thông tin sau: đối t­ượng dự thi; các yêu cầu đối với bài dự thi, thời gian và nơi nhận bài thi (nếu là thi viết) hoặc các quy định về nội dung, cách thức thi (nếu là thi trả lời trực tiếp); thời gian tổ chức cuộc thi; giải thư­ởng; đơn vị tổ chức cuộc thi (Ban tổ chức) và những nội dung cần thiết khác...

Bên cạnh việc quy định về nội dung từng phần thi, hình thức, cách thức thi, Quy chế cũng cần quy định rõ các tiêu chí phụ (kèm mức độ ưu tiên) và cách giải quyết đối với trường hợp các thí sinh có tổng số điểm bằng nhau.

Ngoài việc hướng dẫn thí sinh tham gia cuộc thi...thì trách nhiệm của Ban Giám khảo, nguyên tắc chấm điểm bài thi, cách xét giải và cơ cấu giải thưởng cũng phải được quy định ngắn gọn trong Thể lệ cuộc thi, cụ thể:

- Trách nhiệm của Ban giám khảo:

+ Xây dựng bộ câu hỏi và đáp án.

+ Xây dựng thang điểm chấm thi.

+ Tổ chức chấm thi theo Quy chế cuộc thi do Ban tổ chức ban hành.

- Nguyên tắc tính điểm bài thi:

Bài thi của người dự thi được tính điểm (cộng gộp) theo thứ tự ưu tiên sau đây:

o   Tổng điểm của các thành viên Ban giám khảo.

o    Đối với những cuộc thi trực tiếp, người dự thi có thời gian hoàn thành bài thi ít hơn (được tính trong trường hợp có nhiều người có cùng tổng điểm của Ban giám khảo) sẽ có thành tích cáo hơn.

o   Người dự thi có thời điểm nộp bài/kết thúc phần thi sớm hơn (được tính trong trường hợp có nhiều người có cùng số điểm của Ban giám khảo và có thời gian và thời điểm hoàn thành bài thi giống nhau) sẽ có thành tích cáo hơn.

o   Độ chính xác câu trả lời dự đoán do Ban giám khảo đặt ra.

- Giải thưởng:

Căn cứ vào kết quả chấm thi, Ban tổ chức sẽ thực hiện xếp giải và tiến hành trao thưởng sau khi cuộc thi kết thúc theo đúng cơ cấu giỉa thưởng được quy định trong Thể lệ.

Ngoài các giải chính như giải đặc biệt, nhất, nhì, ba, khuyến khích, tùy vào tình hình thực tế Ban Tổ chức có thể sẽ trao một số giải thưởng khác như: giải dành cho người thi cao tuổi nhất, giải dành cho người dự thi ít tuổi nhất, giải dành cho phần xử lý tình huống hay nhất, giải dành cho phần trình diễn năng khiếu hay nhất, giải dành cho tập thể có số lượng bài thi nhiều nhất...

2.1.3 Thành lập Ban giám khảo 

Tùy vào quy mô, tính chất của cuộc thi mà Ban Tổ chức cuộc thi sẽ ra Quyết định thành lập Ban giám khảo hoặc Ban chấm thi. Tr­ưởng Ban giám khảo hoặc Trưởng Ban chấm thi do Ban Tổ chức cuộc thi chỉ định. Thành viên Ban giám khảo là những ng­ười có uy tín, có nghiệp vụ và am hiểu về nội dung thi.

Thông thường, Ban Giám khảo có nhiệm vụ tham gia xây dựng bộ câu hỏi - đáp án, quy chế chấm thi; chấm thi; trên cơ sở kết quả chấm, dự kiến xếp giải trình Ban tổ chức cuộc thi quyết định. Trong trường hợp việc xây dựng nội dung thi cần có sự tham gia của các chuyên gia có chuyên môn thì Ban Tổ chức sẽ ra Quyết định thành lập Ban ra đề. Trưởng Ban ra đề do Ban Tổ chức chỉ định.

2.1.4. Thành lập Ban ra đề thi

Ban ra đề thi có trách nhiệm xây dựng bộ câu hỏi – đáp áp cuộc thi đảm bảo tiến độ, chất lượng và có trách nhiệm tham mưu Ban Tổ chức, Ban Giám khảo trả lời/giải đáp thắc mắc của người dự thi về nội dung bộ câu hỏi – đáp áp cuộc thi.

2.1.5. Chuẩn bị bộ câu hỏi - đáp án cuộc thi

Bộ câu hỏi sử dụng cuộc thi tìm hiểu pháp luật thường là câu hỏi trắc nghiệm theo hướng đưa ra các phương án để người dự thi lựa chọn trả lời, phù hợp với người dự thi, bảo đảm dễ hiểu. 

Đối với những nội dung thi khó (cần có sự tham gia của các chuyên gia), Ban Tổ chức sẽ thành lập Ban Ra đề để xây dự bộ câu hỏi, đáp

Tùy quy mô của cuộc thi mà Ban Tổ chức cuộc thi sẽ ra Quyết định thành lập Ban Giám khảo (hoặc Ban Chấm thi) trong đó chỉ định Tr­ưởng Ban chấm thi. Thành viên Ban chấm thi là những ng­ười có uy tín, có nghiệp vụ và am hiểu về nội dung thi.

2.1.6 Xây dựng Quy chế chấm thi

Quy chế chấm thi cần quy định rõ cách thức chấm và cho điểm để đảm bảo sự thống nhất trong đánh giá giữa các thành viên Ban giám khảo. Trong Quy chế cũng cần phải chỉ rõ những hành vi và cách xử lý những hành vi không được phép khi tham gia cuộc thi.

Tại các cuộc thi có quy mô lớn thì việc thành lập Ban giám khảo, Ban ra đề và Quy chế chấm thi có thể được thực hiện đồng thời với các công việc khác ở giai đoạn tiến hành chuẩn bị cho cuộc thi. Trong trường hợp, cần thành lập Ban ra đề thì viêc xây dựng bộ câu hỏi - đáp án cuộc thi được thực hiện ngay sau khi  Ban tổ chức có Quyết định thành lập Ban ra đề.

2.2.  Giai đoạn tiến hành tổ chức thi

2.2.1. Phát động, công bố Thể lệ và nội dung cuộc thi

Tùy quy mô mà đơn vị tổ chức chức cuộc thi có thể thực hiện phát động cuộc thi theo 02 hình thức:

(i) Phát động bằng ban hành văn bản hướng dẫn, tổ chức cuộc thi và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, Cổng/Trang Thông tin điện tử, mạng xã hội...;

(ii) Tổ chức Lễ phát động cuộc thi.

Đồng thời, để tăng tính lan tỏa và dễ dàng huy động các cơ quan, đoàn thể...các nguồn lực của địa phương cùng vào cuộc, đơn vị tổ chức cuộc thi nên mời các đồng chí lãnh đạo chính quyền địa phương, lãnh đạo của các cơ quan thành viên Ban tổ chức cuộc thi, lãnh đạo các đơn vị dân c­ư, các đoàn thể quần chúng, các cơ quan thông tin đại chúng, thông tin cổ động... Cần gắn cuộc thi với việc phát động phong trào tìm hiểu pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật trong quần chúng nhân dân. Việc công bố về cuộc thi có thể đư­ợc thực hiện bằng cách đăng tải trên các ph­ương tiện thông tin đại chúng; hoặc thông báo thể lệ, nội dung cuộc thi đến các tổ chức, các đơn vị có đối t­ượng thi. Việc tổ chức lễ phát động cuộc thi nên áp dụng với các cuộc thi lớn, địa bàn rộng, nội dung liên quan đến nhiều thành phần trong xã hội.

2.2.2 Truyền thông về cuộc thi

Để tạo điều kiện thuận lợi, thu hút đ­ược nhiều người dự thi nhất, Ban tổ chức cuộc thi cần sử dụng nhiều hình thức truyền thông về cuộc thi nh­ư thông tin chi tiết về thể lệ, yêu cầu nội dung thi hoặc câu hỏi của cuộc thi; biên soạn, giới thiệu cung cấp các tài liệu, văn bản liên quan đến cuộc thi; tuyên truyền miệng trực tiếp hoặc qua hệ thống loa, đài truyền thanh ở cơ sở, áp phích thông báo ở những nơi công cộng... Đối với những cuộc thi có quy mô lớn, cần gắn việc truyền thôn về cuộc thi với việc vận động nhân dân chấp hành pháp luật, với các phong trào của quần chúng ở cơ sở. Có nh­ư vậy, cuộc thi mới đư­ợc nhiều ngư­ời quan tâm, chú ý theo dõi và hưởng ứng, tạo nên không khí hào hứng tham gia cuộc thi.

2.2.3 H­ướng dẫn, theo dõi, đôn đốc việc triển khai cuộc thi

Để cuộc thi đạt kết quả tốt, trong suốt giai đoạn tiến hành cuộc thi Ban tổ chức phải theo dõi diễn biến cuộc thi, định kỳ hoặc đột xuất họp để đ­ưa ra biện pháp đôn đốc cuộc thi. Đối với những cuộc thi quy mô, đư­ợc tổ chức từ trung ­ương đến cơ sở với nhiều đối tư­ợng dự thi, Ban tổ chức còn cần quan tâm h­ướng dẫn các đơnvị cấp dư­ới tiến hành các hoạt động triển khai cuộc thi để cuộc thi đ­ược tổ chức tốt ngay từ cơ sở.

2.2.4 Tổ chức thi hoặc chấm thi

Đây là công việc quan trọng và là khâu chính trong giai đoạn tiến hành tổ chức cuộc thi, tuỳ hình thức cuộc thi mà công việc này được thực hiện với những cách khác nhau.

- Đối với hình thức trả lời trực tiếp: Để buổi thi đạt hiệu quả cao, tránh được tính trạng lộn xộn, bị động cho người dự thi khi tham gia, đơn vị tổ chức cuộc thi  không những cần cung cấp rõ ràng về nội d­ung thi cho thí sinh mà còn cần phải chuẩn bị một loạt các công việc khác như­: làm thủ tục đăng ký danh sách người dự thi, chuẩn bị địa điểm thi, sắp xếp thứ tự thi, phổ biến Quy chế thi.

- Đối với hình thức thi viết: Ng­ười dự thi gửi bài thi đến Ban tổ chức nên cần tổ chức thu nhận bài thi đúng địa điểm, thời gian, trình tự và thủ tục đã đề ra. Ngay sau khi thu nhận bài thi, để tránh nhầm lẫn, mất mát và để thuận lợikhi chấm thi, phải vào sổ, đánh số thứ tự các bài thi, lập danh sách theo dõi, trong đó ghi rõ tên, tuổi, địa chỉ ngư­ời có bài thi. Bài thi nên được phân loại theo đơn vị dự thi để tiện cho việc thống kê, theo dõi và làm cơ sở cho việc xét tặng giải tập thể. Trước khi tổ chức chấm thi cũng cần phải loại các bài không hợp lệ. Thông thường các công việc này do bộ phận giúp việc cho Ban Tổ chức thực hiện. Ở một số cuộc thi viết, bộ phận này có thể được giao nhiệm vụ chấm sơ tuyển lần 1 các bài dự trư­ớc khi chuyển cho Ban chấm thi.

- Đối với hình thức thi trực tuyến (trả lời các câu hỏi trắc nghiệm): Người dự thi sử dụng máy tính, điện thoại, máy tính bảng...có kết nối internet truy cập vào địa chỉ cuộc thi trong khoảng thời gian do đơn vị tổ chức quy định trong Thể lệ, khai báo các thông tin cá nhân theo yêu cầu của Ban Tổ chức và tiến hành trả lời các câu hỏi. Phần mềm cuộc thi sẽ ghi nhận kết quả của người dự thi, tính toán, lựa chọn, sắp xếp danh sách thí sinh theo thứ tự điểm từ cao xuống thấp phục vụ quá trình rà soát thông tin và trao giải của Ban tổ chức.

Dù là cuộc thi được tổ chức dưới bất kỳ hình thức thi nào thì Ban giám khảo hoặc Ban chấm thi đều cần đ­ược quán triệt Quy chế chấm thi, đáp án và thang điểm. Việc chấm thi, đánh giá phải đảm bảo chính xác, khách quan, nghiêm túc, công bằng. Các kết quả chấm thi được lư­u lại để làm cơ sở cho việc xét giải và để giải quyết những thắc mắc, khiếu nại phát sinh (nếu có).

2.3. Giai đoạn tổng kết cuộc thi

Quá trình tổng kết cuộc thi là việc Ban tổ chức đánh giá toàn diện kết quả cuộc thi, rút kinh nghiệm về ph­ương pháp tổ chức và triển khai cuộc thi; từ đó đề ra phư­ơng hướng cho việc tổ chức các cuộc thi sau; đồng thời trao giải thư­ởng cho những người đạt giải.

Để tạo điểm nhấn, tăng tính lan tỏa về kết quả, ý nghĩa cuộc thi; tạo ấn tượng sâu rộng trong mọi tầng lớp Nhân dân và với các thí sinh tham gia cuộc thi, việc Ban tổ chức tổ chức Lễ tổng kết trao giải cũng hết sức quan trọng. Do đây là hoạt động có hiệu ứng truyền thông mạnh mẽ nên Ban Tổ chức cần có sự chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng về nội dung, hình thức và các điều kiện hỗ trợ cần thiết như hội trường, âm thanh, ánh sáng, lôgô hội thi, băng rôn, cổ động viên, người dẫn chương trình và khách mời tham gia Lễ tổng kết... đảm bảo thể hiện được cả phần “thi” trang trọng và phần “hội” sôi nổi, hấp dẫn.

Kết quả cuộc thi cần đ­ược công bố rộng rãi, bằng nhiều hình thức như tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng; thông báo trên các ph­ương tiện thông tin đại chúng; in thành tài liệu, sách... để vừa phát huy, nhân rộng kết quả cuộc thi, động viên những ng­ười dự thi, vừa khuyến khích, cổ vũ nhân dân tìm hiểu pháp luật, chấp hành, tuân thủ pháp luật.

3.     Tổng kết

Cần l­ưu ý, các công việc khi thực hiện tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật đ­ược trình bày theo thứ tự trên đây chỉ mang tính chất tư­ơng đối. Tuỳ quy mô, tính chất cuộc thi, điều kiện thực tế của đơn vị tổ chức mà có thể điều chỉnh sao cho phù hợp. Việc trình bày cụ thể nội dung, sắp xếp thứ tự các công việc nh­ư trên nhằm mục đích giúp những người tham gia tổ chức hình dung được những công việc cần thực hiện, các bước cần tiến hành và có thêm kỹ năng để tổ chức cuộc thi tìm hiệu pháp luật thành công, hiệu quả.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 6

Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật

 

I.    Một số vấn đề chung

1.  Khái niệm tư vấn pháp luật

Tư vấn pháp luật là việc hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giải đáp pháp luật nhằm cung cấp cho cá nhân, tổ chức những quy định pháp luật về một vấn đề nhất định, giúp họ hiểu rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình trong một quan hệ pháp luật cụ thể nảy sinh trong đời sống xã hội. Kết quả của hoạt động tư vấn pháp luật là lời khuyên, hướng dẫn ứng xử đúng pháp luật, ý kiến pháp lý bằng lời nói hoặc bằng văn bản giúp cá nhân, tổ chức thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp theo quy định pháp luật.

2. Vị trí, vai trò, tác động của phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật

2.1. Tư vấn pháp luật mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Bởi vì, tư vấn pháp luật giúp định hướng hành vi ứng xử của các cá nhân, tổ chức theo khuôn khổ pháp luật và quy tắc đạo đức. Đồng thời, tư vấn pháp luật còn góp phần hòa giải, giải quyết các mâu thuẫn, xung đột liên quan đến quyền, lợi ích, góp phần giảm thiểu các tranh chấp, giảm bớt tình trạng khiếu kiện tràn lan, kéo dài do người dân thiếu hiểu biết pháp luật, hiểu không đúng hoặc không đầy đủ pháp luật. Tư vấn pháp luật còn góp phần giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, của tổ chức và công dân; phát hiện những khiếm khuyết của hệ thống pháp luật và kiến nghị sửa đổi, bổ sung, kịp thời hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn. Chính vì vậy, thông qua quá trình thực hiện các công việc cụ thể của hoạt động tư vấn pháp luật thì các mục tiêu và nội dung của PBGDPL đồng thời cũng được lồng ghép thực hiện và đạt được hiệu quả, cụ thể như sau:

a) Nâng cao hiểu biết pháp luật cho cá nhân, tổ chức.

Trước khi đưa ra một lời khuyên hay các giải pháp xử lý vấn đề mà cá nhân, tổ chức quan tâm, người thực hiện tư vấn pháp luật phải nêu những quy định pháp luật về vấn đề đó (văn bản pháp luật nào, điều luật nào, nội dung chính sách, pháp luật...). Do vậy, cá nhân, tổ chức cần tư vấn pháp luật không chỉ hiểu được cụ thể chính sách, quy định pháp luật cụ thể mà còn nắm được thông tin liên quan một cách tổng quát, đôi khi rộng hơn hoặc sâu hơn về vấn đề họ cần tìm hiểu.

b) Giải đáp pháp luật giúp cho người được tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý hiểu về quyền và lợi ích hợp pháp của mình: Việc tư vấn pháp luật thường đòi hỏi phải đặt ra các câu hỏi về quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trong mối quan hệ xã hội; người tư vấn pháp luật phải trả lời từng câu hỏi để làm sáng tỏ vấn đề cá nhân, tổ chức quan tâm; giúp họ hiểu rõ họ có quyền lợi gì, phải thực hiện nghĩa vụ gì trên cơ sở các quy định của pháp luật.

c) Định hướng cho các đối tượng ứng xử đúng pháp luật trong từng hoàn cảnh cụ thể để thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình: Hoạt động tư vấn pháp luật là hoạt động mang lại kết quả trực tiếp, dễ nhận thấy và đánh giá. Điều quan trọng nhất là giúp người được tư vấn pháp luật hiểu rõ hoàn cảnh, quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó lựa chọn cách xử sự phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.

d) Giúp người được tư vấn pháp luật tuân thủ pháp luật, có tình cảm, niềm tin pháp luật, xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật: Hiệu quả của quá trình tư vấn pháp luật, PBGDPL là sự chuyển biến trong nhận thức, hiểu biết của từng cá nhân, tổ chức về pháp luật, từ đó hình thành thái độ xử sự tích cực, tôn trọng và tuân thủ pháp luật trong các quan hệ đời sống xã hội; đấu tranh, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật. Cá nhân, tổ chức khi đã được tư vấn pháp luật, PBGDPL chắc chắn sẽ có hiểu biết ở mức độ nhất định và hành vi ứng xử tích cực hơn so với trước đó.

2.2. Khác với các hình thức PBGDPL khác (phổ biến pháp luật trực tiếp (tuyên truyền miệng về pháp luật), PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống loa truyền thanh ở cơ sở…) mang tính chất đại trà, hướng vào số đông, thì PBGDPL thông qua hoạt động tư vấn pháp luật chỉ tập trung vào một hoặc một nhóm người cụ thể với nội dung pháp luật về vấn đề họ quan tâm, nên sau khi được tư vấn thì họ rất “thẩm thấu”, hiểu rõ quy định pháp luật về vấn đề đó, họ có thể tư vấn, hướng dẫn lại người khác, điều này tạo ra sức lan tỏa, tác động đến những người xung quanh, thúc đẩy công tác PBGDPL phát triển, đi vào thực chất, hiệu quả.

2.3. PBGDPL thông qua hoạt động tư vấn pháp luật đánh giá ngay được hiệu quả của công tác PBGDPL. Hoạt động tư vấn pháp luật không mang tính một chiều, đơn điệu như các hình thức PBGDPL khác, mà có sự tương tác giữa người cần tư vấn pháp luật với người tư vấn pháp luật. Do vậy, tác động ngay đến nhận thức và thay đổi thái độ, hành vi của người được tư vấn pháp luật. Hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật thấy rõ.

III.  Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tư vấn pháp luật

1. Yêu cầu đối với người thực hiện:

Khi tư vấn pháp luật hay tuyên truyền pháp luật, cán bộ thực hiện là chủ thể trong một quan hệ xã hội có tính đặc thù, không đơn thuần là giao tiếp xã hội thông thường. Họ không chỉ cần có kiến thức chuyên môn đảm bảo đủ khả năng để phục vụ hoặc cung cấp dịch vụ mà cần có vốn sống, hiểu biết xã hội nhất định và kinh nghiệm ứng xử phù hợp với vị trí của mình trong quan hệ với đối tượng cần được tư vấn, tuyên truyền pháp luật. Sau đây là những tố chất, kỹ năng cần thiết nhất đối với người cán bộ vừa thực hiện tư vấn pháp luật vừa làm công tác tuyên truyền pháp luật:

- Có kiến thức pháp lý vững vàng: nếu cán bộ tư vấn không vững về kiến thức pháp luật thì sẽ làm giảm chất lượng tư vấn, tuyên truyền pháp luật, mặt khác, cũng không tự tin khi thực hiện công việc.

- Thường xuyên tích lũy tư liệu, kiến thức: đời sống xã hội càng phát triển, các văn bản pháp luật trong hầu hết các lĩnh vực được ban hành ngày ngày nhiều, nhu cầu về tư vấn pháp luật ngày càng tăng về số lượng và tính chất phức tạp. Trong bối cảnh đó, cán bộ tư vấn phải không ngừng cập nhật kiến thức pháp luật mới, tìm hiểu qua các nguồn thông tin, tài liệu, tích lũy kinh nghiệm để xử lý kịp thời những vấn đề mà công việc đặt ra.

- Có khả năng nói và viết tốt: đây là hai kỹ năng không hoàn toàn do thiên bẩm mà chỉ có được qua quá trình rèn luyện nghiêm túc, rút kinh nghiệm từ thực tế công việc hàng ngày.

- Nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy với công việc: có thể nói đây là một phẩm chất không thể thiếu của những người làm công tác xã hội; cần đặt mục tiêu phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội lên hàng đầu. Người tư vấn pháp luật cần xác định kết quả tư vấn pháp luật là làm cho người được tư vấn hiểu rõ quy định pháp luật và biết được cách xử sự phù hợp, đúng pháp luật, đạt được mục đích cao nhất là bảo đảm quyền lợi của mình một cách tối đa.

- Có khả năng hòa đồng và giao tiếp: Rất nhiều cán bộ tư vấn pháp luật khẳng định rằng, trước khi bắt đầu vào việc tư vấn, cần phải tạo được không khí thân thiện, cởi mở cho người đến yêu cầu tư vấn. Qua những cư xử trong giao tiếp thông thường như chủ nhà tiếp khách (chào hỏi, mời ngồi, pha trà, rót nước,  …), cán bộ tư vấn đã gây được ấn tượng tốt và tin cậy cho khách hàng của mình. 

- Hiểu biết về tâm lý: Không thể tư vấn và tuyên truyền pháp luật một cách hiệu quả nếu thiếu kỹ năng giao tiếp, thiếu hiểu biết về tâm lý của đối tượng mà mình đang phục vụ. Điều này càng quan trọng hơn khi đứng trước một đám đông trong các cuộc tư vấn, tuyên truyền lưu động. Cùng với khả năng thuyết trình thì cán bộ tư vấn, tuyên truyền cần có sự nhanh nhạy nắm bắt tâm lý của đối tượng được tư vấn và điều chỉnh ngôn ngữ kịp thời, phù hợp với đặc điểm tính cách và phản ứng của họ.

- Có vốn sống, am hiểu về văn hóa, phong tục, tập quán: Thông thường, cán bộ tư vấn càng lâu năm thì càng thu được nhiều kết quả tốt trong công việc. Bởi lẽ, họ không chỉ tích lũy được nhiều kiến thức, kinh nghiệm mà còn có bề dày về vốn sống, biết vận dụng sự am hiểu về văn hóa, phong tục, tập quán của các vùng miền, các dân tộc vào phục vụ cho công việc của mình. Đây là điểm rất cần định hướng cho những cán bộ trẻ khi làm công tác xã hội, càng tích lũy vốn sống, tự trau dồi kiến thức về văn hóa sẽ là nền tảng vững chắc giúp họ thành công hơn trong hoạt động nghề nghiệp. 

2.  Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật

PBGDPL thông qua hoạt động tư vấn pháp luật được thực hiện qua những hình thức sau đây:

Thứ nhất, PBGDPL thông qua hoạt động tư vấn pháp luật lưu động

Hầu hết các hoạt động tư vấn pháp luật đề cập ở đây chủ yếu là tư vấn pháp luật mang tính chất lưu động, tức là cung cấp dịch vụ tư vấn miễn phí đến tận cơ sở. Tư vấn theo hình thức này đã tạo điều kiện cho người dân ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn được tư vấn pháp luật, giảm bớt thời gian, chi phí đi lại. Đối với cơ quan, tổ chức thực hiện tư vấn pháp luật, phổ biến pháp luật, việc trực tiếp đến với người dân ở cơ sở sẽ giúp các cơ quan, tổ chức này có điều kiện nắm bắt thực tế vụ việc khách quan, chính xác, giúp đỡ kịp thời cho đối tượng cần được tư vấn pháp luật. Tại các cuộc tư vấn pháp luật, có nhiều hoạt động cụ thể được tổ chức như: giải đáp, hướng dẫn, trả lời, phân tích về vấn đề, nội dung mà đối tượng quan tâm trên cơ sở quy định pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể. Trường hợp có nhiều người yêu cầu tư vấn pháp luật về nội dung giống nhau thì người thực hiện tư vấn pháp luật có thể trả lời chung tại hội trường cho tất cả mọi người tham gia cùng nghe. Ngoài ra, việc tư vấn có thể giới thiệu về các thủ tục, trình tự giải quyết việc hành chính (như khai sinh, khai tử, đăng ký kết hôn, chứng thực di chúc, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…); thực hiện tư vấn pháp luật trực tiếp gắn với PBGDPL… Hoạt động này không chỉ giúp người dân có thể giải toả được vướng mắc pháp luật của mình mà còn giúp những người khác nâng cao hiểu biết pháp luật, có thể làm đúng quy định của pháp luật khi gặp vướng mắc pháp luật tương tự.

Ví dụ: Bộ đội biên phòng phối hợp với các sở, ngành, đoàn thể liên quan tổ chức các buổi tư vấn pháp luật trực tiếp, miễn phí cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới về hôn nhân gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình, đất đai,…

Thứ hai, PBGDPL thông qua hoạt động tư vấn pháp luật trực tiếp: Đây là các trường hợp người yêu cầu tư vấn đề nghị được tư vấn trực tiếp thông qua các cuộc gặp hoặc qua điện thoại. Đối với những vấn đề đơn giản, có thể tư vấn ngay thì người tư vấn có thể trả lời ngay, đối với các vấn đề phức tạp, cần nghiên cứu kỹ, tìm hiểu rõ thì có thể hẹn tư vấn sau một thời gian. Những trường hợp đề nghị tư vấn trực tiếp có thể trả lời ngay, người tư vấn cần khéo léo lồng ghép phổ biến các quy định pháp luật liên quan. Đối với trường hợp hẹn trả lời tư vấn sau thì có thể có thời gian nghiên cứu để lồng ghép phổ biến pháp luật phù hợp, xoay quanh vấn đề cần tư vấn.

Ví dụ: Tại nhiều đơn vị trong quân đội đã thành lập các tổ tư vấn pháp luật, tổ tư vấn tâm lý – pháp lý trực tiếp giải đáp các thắc mắc của cán bộ, chiến sĩ liên quan đến kỷ luật quân đội, pháp luật của Nhà nước. Một số tổ tư vấn pháp luật có số điện thoại riêng để tiếp nhận, giải đáp các câu hỏi, vấn đề cần tư vấn trong đơn vị.

Thứ ba, PBGDPL thông hoạt động tư vấn pháp luật bằng văn bản

Có những trường hợp cá nhân/tổ chức yêu cầu được tư vấn bằng văn bản (văn bản giấy/văn bản điện tử). Hiện nay, các Cổng/Trang thông tin điện tử của các cơ quan, đoàn thể đều có chuyên mục “Hỏi đáp” hoặc mục “trò chuyện/chat”, người dân có thể gửi câu hỏi trực tiếp vào các chuyên mục này. Do đó, khi nhận được các yêu cầu tư vấn bằng văn bản thì người tư vấn cần nghiên cứu, tìm hiểu kỹ vấn đề cũng như các quy định pháp luật liên quan trước khi đưa ra ý kiến tư vấn. Đồng thời, có thể lồng ghép tuyên truyền, phổ biến pháp luật một cách phù hợp.

Ví dụ: Quân nhân, binh sỹ nhờ tổ tư vấn pháp lý trong các đơn vị tư vấn qua email.

3.  Các bước để thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật

Thực tế thời gian qua đã cho thấy PBGDPL đã không chỉ hướng tới việc càng đông đảo người dân biết luật càng tốt mà ngày càng đi vào chiều sâu nhờ thông qua một số hoạt động gắn liền với quá trình áp dụng pháp luật, ví dụ: hoạt động xét xử của tòa án, thi hành án, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật, hòa giải cơ sở,… Như vậy, tư vấn pháp luật cũng góp phần vào nhiệm vụ giáo dục pháp luật, hoạt động này có chiều sâu hơn, chứa hàm lượng tri thức nhiều hơn việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật một cách đơn giản, mang tính phổ cập đại trà.

Đối với người tư vấn pháp luật, có thể tham khảo các bước sau để vận dụng vào quá trình tư vấn lồng ghép với PBGDPL:

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Bước 1: Tìm hiểu đối tượng và nội dung pháp luật mà đối tượng quan tâm

- Tiếp cận và tìm hiểu các thông tin liên quan: Để biết một cá nhân, một tổ chức muốn được tư vấn pháp luật về vấn đề gì, cán bộ tư vấn cần trao đổi với đối tượng (qua điện thoại, gặp trực tiếp hoặc thông qua đầu mối tổng hợp các vướng mắc, yêu cầu cần tư vấn pháp luật thuộc một địa bàn cụ thể…). Cán bộ tư vấn cần yêu cầu cung cấp các thông tin cơ bản như nghề nghiệp, độ tuổi, dân tộc… của đối tượng.

- Xác định rõ mục đích, nhu cầu: Sau khi biết được những thông tin cần thiết, cán bộ tư vấn cần khẳng định lần nữa về mục đích và nhu cầu của đối tượng cần tư vấn. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với những công việc tiếp theo của cán bộ tư vấn. Bởi vì, nếu họ hỏi về một vấn đề pháp luật chỉ để biết thì việc tư vấn chỉ dừng lại ở mức độ cung cấp thông tin, giới thiệu về quy định pháp luật, hướng dẫn việc tìm tài liệu pháp luật. Trong trường hợp họ thực sự có vướng mắc pháp luật thì vụ việc phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, chuẩn bị các phương án trả lời trước khi đưa ra ý kiến tư vấn trực tiếp, chính thức cho đối tượng. 

Trong trường hợp nhận được yêu cầu tư vấn bằng văn bản, cán bộ tư vấn có thể tìm hiểu thông tin cụ thể bằng cách gửi văn bản hỏi hoặc liên hệ trực tiếp với đối tượng yêu cầu tư vấn qua điện thoại, tin nhắn (qua zalo, ô chat…). Thông thường việc yêu cầu tư vấn dưới hình thức văn bản cũng thể hiện tương đối rõ mục đích và nhu cầu tư vấn pháp luật. Nhờ đó, cán bộ tư vấn cũng dễ xác định được nội dung pháp luật cần thiết để tập trung trao đổi về vấn đề đó. Tuy nhiên, không phải mọi đơn thư hay yêu cầu tư vấn pháp luật đều thể hiện một cách rõ ràng, dễ đọc, dễ hiểu. Cán bộ tư vấn phải biết chọn lọc và tìm ra trúng mục đích, vấn đề chính mà đối tượng yêu cầu tư vấn. 

Bước 2: Công tác chuẩn bị

- Về nội dung tư vấn và tuyên truyền:

Cần tạo thói quen chuẩn bị cẩn thận, tỉ mỉ về nội dung, tài liệu trước khi thực hiện tư vấn hay phổ biến một quy định pháp luật. Để có thể ứng phó với mọi tình huống, cán bộ tư vấn cần thường xuyên tích lũy kiến thức và kinh nghiệm để có thể tự tin khi trao đổi thông tin một cách trực tiếp; hoặc hẹn trả lời sớm sau khi đã nghiên cứu hồ sơ, tài liệu. Do vậy, nội dung pháp luật được đưa ra tư vấn hay tuyên truyền sẽ đảm bảo tính chính xác cao, thông qua xử lý thông tin của cán bộ tư vấn hoặc có sự trao đổi nghiệp vụ với đồng nghiệp.

- Về lựa chọn hình thức:

Có nhiều hình thức tư vấn pháp luật như tư vấn trực tiếp (qua đối thoại trực tiếp, qua điện thoại) hoặc tư vấn gián tiếp (qua văn bản: thư trả lời, giải đáp qua báo, đài, email, chat …), tư vấn tại chỗ hoặc lưu động, xây dựng các diễn đàn, chuyên mục trên sóng phát thanh, truyền hình v.v…

Cán bộ tư vấn có thể ở thế chủ động hoặc bị động trong việc lựa chọn hình thức tư vấn pháp luật. Tuy nhiên, dù ở hoàn cảnh nào, cán bộ tư vấn cũng cần lựa chọn cho mình một cách giải thích, hướng dẫn càng đơn giản càng tốt, mang tính thuyết phục nhất giúp cho đối tượng dễ nghe, dễ hiểu và dễ thực hiện. Trong trường hợp tổ chức các cuộc tư vấn và PBGDPL tại chỗ hoặc lưu động thì cán bộ tư vấn có vai trò chủ động để đưa ra hình thức tư vấn (thuyết trình, hỏi đáp, đóng vai diễn các tình huống pháp luật, v.v…). Vì vậy, cần lưu ý trong việc chuẩn bị nội dung tư vấn, phổ biến pháp luật phù hợp với hình thức tư vấn.

Ví dụ: khi tư vấn pháp luật trong vài phút qua điện thoại thì rất khó có thể tranh thủ tuyên truyền pháp luật, khác với việc tổ chức các buổi tư vấn pháp luật tại trụ sở của Trung tâm tư vấn pháp luật, tại trụ sở doanh nghiệp, tại trụ sở Ủy ban nhân dân …

- Về chuẩn bị phương tiện hỗ trợ:

Để có được hiệu quả như mong muốn thì hoạt động tư vấn pháp luật cần có sự kết hợp, hỗ trợ của một vài phương thức tuyên truyền pháp luật khác, ví dụ: sử dụng băng tiếng, băng hình, tờ rơi, tờ gấp, tài liệu tuyên truyền khác, khai thác tiện ích của các phương tiện truyền thông, hệ thống truyền thanh ở cơ sở… 

Tại các cuộc tư vấn kết hợp tuyên truyền pháp luật có vài chục hoặc hàng trăm người tham dự, các thiết bị âm thanh, phương tiện kỹ thuật hỗ trợ là yếu tố không thể thiếu góp phần tăng hiệu quả của cuộc tư vấn đó, ví dụ: loa đài, tivi, máy chiếu, màn hình chiếu, băng, đĩa, sách, tranh ảnh minh họa …

Bước 3: Thực hiện việc cung cấp thông tin, hướng dẫn, giải đáp

Dù ở mức độ nông hay sâu, rộng hay hẹp thì kết quả của những thao tác trong quá trình tư vấn đã giúp cho một người, một nhóm hay một tổ chức có điều kiện biết đến các quy định pháp luật, một hoặc nhiều văn bản pháp luật về vấn đề đó. Đối với những người đã biết, khi được tư vấn để giải quyết một vướng mắc, vụ việc pháp luật cụ thể thì họ lại có dịp hiểu sâu hơn và biết cách vận dụng quy định pháp luật đó đối với hoàn cảnh cụ thể của mình thế nào.    

Để có thể kết hợp việc PBGDPL qua nội dung tư vấn pháp luật, cán bộ tư vấn cần hết sức linh hoạt, tránh sự gượng ép. Không nên đưa ra những vấn đề quá xa, quá sâu, không liên quan với nội dung tư vấn. Ví dụ: Người yêu cầu tư vấn là quân nhân trong các đơn vị lực lượng vũ trang, thì cán bộ tư vấn pháp luật có thể liên hệ đến một số vấn đề pháp luật thiết thực đối với cuộc sống và công việc hiện tại của họ như: về chế độ đối với quân nhân, kỷ luật Quân đội, pháp luật về quân sự, quốc phòng…

Sau mỗi hoạt động tư vấn hay tuyên truyền pháp luật cần phải có sự nhìn lại, đánh giá những việc đã làm, xem điều gì đạt được, điều gì chưa được và cần rút kinh nghiệm cho lần sau. Mỗi cán bộ tư vấn có thể tự mình rút ra một số bài học, kinh nghiệm hữu ích từ từng hoạt động hoặc chia sẻ thu hoạch của mình với đồng nghiệp tại các cuộc họp tổng kết để khái quát thành bài học, kinh nghiệm chung.

Tóm lại, kết hợp những nội dung gì để phổ biến pháp luật, lồng ghép những vấn đề gì để giáo dục nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật cho người dân, cho cơ quan, tổ chức tùy thuộc vào sự nhanh nhạy, linh hoạt của cán bộ tư vấn pháp luật. Cán bộ tư vấn pháp luật cần vận dụng kiến thức pháp luật, sự hiểu biết, kỹ năng về PBGDPL trong quá trình thực hiện tư vấn pháp luật để hoạt động này càng thêm ý nghĩa và hiệu quả trên thực tế./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 7

 Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật

 

I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TỦ SÁCH PHÁP LUẬT TRONG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

 Tủ sách pháp luật là nơi lưu giữ, quản lý sách, báo, tài liệu pháp luật để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, tìm hiểu chính sách, pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, tiếp cận thông tin pháp luật, hòa giải ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tủ sách pháp luật tại cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân là Tủ sách pháp luật có các bộ phận sách, tài liệu pháp luật được lưu giữ, quản lý dưới dạng giấy và các vật mang tin khác để phục vụ cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, chiến sĩ, người lao động trong lực lượng vũ trang nhân dân (khoản 1 và khoản 4 Điều 2 Quyết định số 14/2019/QĐ-TTg ngày 13/3/2019 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật).

Thực tế cho thấy Tủ sách pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng trong việc truyền tải chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến cán bộ, Nhân dân, trong đó có tại các cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân. Tủ sách pháp luật giúp người đọc là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, chiến sĩ, người lao động trong lực lượng vũ trang nhân dân tìm hiểu, tra cứu và vận dụng các quy định pháp luật vào thực tế một cách đầy đủ, chính xác và có hệ thống; là công cụ, phương tiện để tiếp cận, tìm hiểu, thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào việc điều hành, giải quyết các công việc hàng ngày ở cơ quan, đơn vị. Việc xây dựng Tủ sách pháp luật góp phần tăng cường phổ biến pháp luật, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ, Nhân dân, tạo điều kiện cho việc giám sát thực thi pháp luật, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tủ sách pháp luật nếu được sử dụng khai thác có hiệu quả sẽ là công cụ hữu hiệu nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung, trong cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nói riêng, góp phần tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

II. KỸ NĂNG XÂY DỰNG, QUẢN LÝ TỦ SÁCH PHÁP LUẬT

          Việc xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật tại cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân phải bảo đảm các yêu cầu sau đây: (i) Địa điểm đặt Tủ sách pháp luật phải thuận tiện cho việc khai thác, sử dụng; sắp xếp, bố trí phòng đọc phục vụ đọc sách tại chỗ; (ii) Thường xuyên rà soát, phân loại sách, tài liệu bảo đảm khoa học, tra cứu thuận tiện; chọn lọc sách, tài liệu pháp luật có chất lượng, giá trị để bổ sung, trang bị theo định kỳ, phù hợp điều kiện, đặc điểm vùng, miền, cơ quan, đơn vị; (iii) Theo yêu cầu của từng cơ quan, đơn vị, người được giao nhiệm vụ xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật trong cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân phải thực hiện các kỹ năng sau đây:

1. Kỹ năng tham mưu xây dựng Tủ sách pháp luật

          Để xây dựng Tủ sách pháp luật, trước hết cần ra quyết định thành lập. Thủ trưởng cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân ra quyết định thành lập Tủ sách pháp luật. Quyết định thành lập phải quy định cụ thể về địa điểm đặt Tủ sách pháp luật; người phụ trách và quyền hạn, nhiệm vụ của người phụ trách; phạm vi và đối tượng phục vụ; Nội quy hoạt động và kinh phí hoạt động của Tủ sách pháp luật. Tủ sách pháp luật tại cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân đặt tại nơi thuận tiện cho việc quản lý, khai thác phù hợp với điều kiện thực tế theo quyết định của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân.

          Để xây dựng được Tủ sách pháp luật, trước hết cần khảo sát tại cơ quan, đơn vị để nắm đ­ược nhu cầu của đối tượng sử dụng để tìm nguồn cung cấp sách. Nguồn chính là đặt mua từ các nhà xuất bản, công ty phát hành sách, đại lý hoặc các hiệu sách khác. Một số nguồn khác như sách được cấp phát từ các cơ quan tuyên giáo của Đảng, các cơ quan tư pháp; các viện nghiên cứu pháp lý…Các loại sách, tài liệu pháp luật trong Tủ sách pháp luật cần bảo đảm theo quy định của Thủ tướng Chính phủ và phù hợp với tính chất, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân, từng đối tượng phục vụ và có các loại sau đây: (i) Tài liệu, đề cương giới thiệu các luật, pháp lệnh; (ii) Sách, tài liệu hỏi đáp, bình luận, giải thích, hướng dẫn pháp luật; tờ gấp, tiểu phẩm, câu chuyện pháp luật; (iii) Sách, tài liệu phục vụ công tác quản lý, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, giảng dạy và học tập; (iv) Các sách, tài liệu pháp luật phù hợp khác. Căn cứ hướng dẫn danh mục sách, tài liệu pháp luật theo định kỳ của Bộ Tư pháp, Tủ sách pháp luật cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân cần được bổ sung kịp thời các sách, tài liệu pháp luật mới; thường xuyên rà soát, cập nhật, hệ thống hóa sách, tài liệu pháp luật.

Trong kế hoạch cần đề cập đến việc bố trí phòng đọc, giá sách, tủ thư­ mục, trang thiết bị phục vụ bạn đọc như­ bàn đọc, phiếu m­ượn, thẻ bạn đọc, việc cập nhật, bổ sung sách, tài liệu pháp luật…Kinh phí xây dựng ban đầu hoặc chi phí hoạt động hằng năm của Tủ sách pháp luật đ­ược tính toán dựa trên nhu cầu sách phải mua, trang thiết bị phục vụ và chi phí tổ chức khai thác, bảo quản Tủ sách pháp luật. Trong khi xây dựng quy chế khai thác Tủ sách pháp luật, nội quy phòng đọc, cần nêu các biện pháp nhằm phục vụ tốt nhất cho bạn đọc và các biện pháp bảo quản, bảo toàn sách.

Sau khi hoàn tất việc xây dựng Tủ sách pháp luật, nên tổ chức việc khai trư­ơng/ra mắt Tủ sách pháp luật. Trong buổi ra mắt, tuỳ theo quy mô của Tủ sách pháp luật, có thể mời các cơ quan, đơn vị liên quan, các cơ quan thông tin đại chúng. Nếu không tổ chức đ­ược buổi ra mắt thì nên tổ chức thông báo rộng rãi trong cơ quan, đơn vị, từng đối tượng bằng hình thức phù hợp.

Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, việc xây dựng, quản lý, khai thác văn bản quy phạm pháp luật, tài liệu pháp luật phục vụ cho các hoạt động nêu trên cũng phải nhanh chóng đổi mới để bắt kịp với xu thế của thời đại, đáp ứng yêu cầu của người khai thác, sử dụng. Do đó, người được giao nhiệm vụ xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật cần sử dụng kỹ năng tham mưu thành lập Tủ sách pháp luật điện tử của cơ quan, đơn vị mình.

Để tham mưu thành lập Tủ sách pháp luật điện tử, cần chuẩn bị:

- Về cơ sở vật chất:

+ Có máy vi tính nối mạng Internet.

+ Có phần mềm để vận hành Tủ sách pháp luật điện tử.

+ Có kinh phí để thuê tên miền, lưu trữ dữ liệu.

- Về nhân lực: Có người quản lý Tủ sách pháp luật điện tử (quản trị mạng).

Khi tham mưu thành lập Tủ sách pháp luật điện tử, cần lên giao diện của Tủ sách (gồm các thư mục như: Tài liệu, đề cương giới thiệu các luật, pháp lệnh; sách, tài liệu pháp luật; sách, tài liệu hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ; văn bản quy phạm pháp luật (trung ương và địa phương)… để đáp ứng yêu cầu của người truy cập và thu hút lượng truy cập Tủ sách pháp luật điện tử.

2. Kỹ năng quản lý Tủ sách pháp luật

2.1.  Xây dựng Quy chế quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật

Quy chế xây dựng, quản lý và khai thác Tủ sách pháp luật tại cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân có các nội dung sau đây:

- Nguyên tắc quản lý, bảo quản và khai thác Tủ sách pháp luật;

- Nhiệm vụ bảo quản và phục vụ của người quản lý Tủ sách pháp luật;

- Quyền lợi của người phụ trách Tủ sách pháp luật;

- Các hình thức phục vụ;

- Thời gian phục vụ;

- Điều kiện và thủ tục mượn sách, báo, tài liệu pháp luật;

- Trách nhiệm của bạn đọc;

- Xử lý đối với các trường hợp làm hư hỏng hoặc làm mất sách báo, tài liệu pháp luật.

2.2. Tổ chức xử lý kỹ thuật sách, báo

Bước 1. Đăng ký sách, báo là ghi chi tiết vào sổ đăng ký cá biệt từng quyển sách, từng số báo vừa được nhập vào Tủ sách pháp luật.

- Mục đích của việc đăng ký sách, báo: Sách, báo mua về phải được ghi vào Sổ đăng ký cá biệt nhằm giúp cho người quản lý Tủ sách pháp luật bảo quản được tài sản, thống kê được số lượng sách để kiểm kê vào dịp cuối năm và lên được danh mục sách thiếu, từ đó có kế hoạch tiếp tục bổ sung.

- Yêu cầu của việc đăng ký sách, báo: Công tác đăng ký sách, báo phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, kịp thời, chính xác theo thứ tự ngày, tháng nhập hay xuất sách, báo ra khỏi Tủ sách pháp luật.

- Phương pháp đăng ký sách, báo: Đăng ký cá biệt là vào sổ từng quyển sách riêng biệt nhập vào Tủ sách pháp luật. Một tên sách có nhiều bản, thì mỗi bản (quyển) tính là một đơn vị độc lập.

Sổ đăng ký cá biệt phải được bảo quản lâu dài, cẩn thận, viết rõ ràng, sạch sẽ, không được tẩy xoá.

Sổ đăng ký cá biệt được ghi theo số thứ tự, bắt đầu từ 01. Số này được ghi liên tục từ năm này qua năm khác, từ cuốn này sang cuốn khác (Ví dụ: Số đăng ký cuối cùng của quyển 1 là 1025 thì quyển thứ 2, số thứ tự sẽ được bắt đầu bằng số 1026). Đồng thời số đăng ký cá biệt phải được ghi ở trang tên sách (trang chính sau bìa), trang 17 và vào nhãn sách.

Mỗi cuốn sách được ghi vào một dòng của sổ đăng ký cá biệt. Trong sổ đăng ký cá biệt, sách được đăng ký bằng ngôn ngữ xuất bản của cuốn sách đó (tiếng Việt, tiếng dân tộc…). ở cột thứ nhất điền ngày vào sổ;  cột thứ 2 là thứ tự; cột thứ 3 là tác giả (nếu có)/tên sách; cột thứ 4 điền các yếu tố liên quan đến xuất bản (nơi xuất bản, năm xuất bản); cột thứ 5 là giá tiền; cột thứ 6 là các yếu tố liên quan đến nhập sách (đợt và ngày nhập sách);  cột cuối cùng là phụ chú.

Sổ đăng ký cá biệt

Ngày vào sổ

TTT

Tên tài liệu, sách, báo

Xuất bản

Giá tiền

 

Nhập sách

Phụ chú

 

 

 

Nơi

Năm

 

Đợt

Ngày

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Các sách được xuất khỏi Tủ sách pháp luật (đã nhập vào Tủ sách mà nay lại sử dụng vào việc khác không quay trở lại Tủ sách nữa) thì phải được xoá tên trong sổ đăng ký cá biệt và phải ghi rõ lý do xuất (ghi ở cột phụ chú của sổ đăng ký cá biệt).

Bước 2. Sơ bộ xử lý kỹ thuật tài liệu, sách, báo

- Đóng dấu: Tài liệu, sách, báo mới nhận được phải đóng dấu của Tủ sách.

+ Nội dung dấu của Tủ sách pháp luật: Có thể tham khảo nội dung con dấu của Tủ sách pháp luật bao gồm:

        Tủ sách pháp luật

        Cơ quan, đơn vị .....…

+ Kích cỡ của dấu: Cao: 2cm; Rộng: 4cm

+ Font chữ trên dấu: 

  Tủ sách pháp luật               (Times new Roman in hoa, đậm, cỡ chữ 9)

 Xã (Phường/Thị trấn)           (Times new Roman in hoa, đậm, cỡ chữ 11)

Đối với sách pháp luật: Đóng dấu ở trang tên sách (dưới tên sách góc phải) và ở trang 17 (phía dưới, góc phải). Trên dấu ở hai nơi đó sẽ ghi Số đăng ký cá biệt của cuốn sách.

Đối với báo, tạp chí: Đóng dấu vào trang đầu của báo, tạp chí.

- Dán nhãn sách: Việc dán nhãn sách được thực hiện vào phía trên, bên trái của bìa sách.

Nhãn sách là một mảnh giấy hình chữ nhật đứng, cao 3cm, dài 2cm bên trong ghi ký hiệu phân loại của tài liệu.

Nhãn gồm hai phần: Phần trên của nhãn (1/3) “Tủ sách pháp luật cơ quan, đơn vị…”,  phần dưới ghi ký hiệu phân loại của cuốn sách, dưới cùng ghi số đăng ký cá biệt của cuốn sách.

Nhãn sách:

                                      2cm

Tủ sách pháp luật

cơ quan, đơn vị………

 

Ký hiệu phân loại:

-----------------------

Số đăng ký cá biệt:

                                                                            

3cm                                                           

                                                                                                                            

Bước 3. Phân loại tài liệu, sách, báo: Tài liệu trong Tủ sách pháp luật cần được sắp xếp theo 4 nhóm cơ bản sau đây:

Nhóm 1: Tài liệu, đề cương giới thiệu các luật, pháp lệnh;

Nhóm 2: Sách, tài liệu hỏi đáp, bình luận, giải thích, hướng dẫn pháp luật; tờ gấp, tiểu phẩm, câu chuyện pháp luật;

Nhóm 3: Sách, tài liệu phục vụ công tác quản lý, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, giảng dạy và học tập;

Nhóm 4: Các sách, tài liệu pháp luật phù hợp khác. Căn cứ hướng dẫn danh mục sách, tài liệu pháp luật theo định kỳ của Bộ Tư pháp, Tủ sách pháp luật cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân cần được bổ sung kịp thời các sách, tài liệu pháp luật mới; thường xuyên rà soát, cập nhật, hệ thống hóa sách, tài liệu pháp luật.

Bước 4. Xây dựng hệ thống mục lục tra cứu

Để giúp bạn đọc thuận lợi trong nghiên cứu các tài liệu, sách, báo pháp lý, thì việc xây dựng hệ thống mục lục tra cứu tài liệu, sách, báo là một việc làm rất cần thiết, không thể thiếu trong mỗi Tủ sách pháp luật.

- Làm phích thư viện: Phích thư viện là một miếng bìa trắng (hoặc màu) dài 12,5cm, cao 7,5cm trên đó mô tả tài liệu, sách, báo giúp bạn đọc tra cứu một cách dễ dàng.

Mô tả là thể hiện các yếu tố đặc trưng của tài liệu, sách, báo trên phích: Tên sách, tên tác giả, năm xuất bản...

Các hình thức mô tả: Mô tả theo tên tác giả hoặc mô tả theo tên sách. Hình thức mô tả theo tên sách là phù hợp đối với Tủ sách pháp luật.

Mô tả theo tên sách

 


         Luật hành chính.     Tên tác giả.                        NXB

và năm xuất bản

            7,5cm

  Sổ đăng ký cá biệt                                                                                                             

         

         2,5cm                           1cm

 


12,5cm

- Lập hộp phích tra cứu tên sách

Sau khi mô tả tài liệu, người phụ trách Tủ sách sắp xếp phích vào một chiếc hộp theo vần chữ cái tên sách để bạn đọc dễ tra cứu. Để phân biệt giữa các vần, đầu tập mỗi vần có một phích nhô, phích này cao hơn phích thường 1,5cm. Phần nhô lên ở giữa để viết vần chữ cái, còn lại thì cắt đi.

Bước 5. Phương pháp sắp xếp sách, báo trong Tủ sách pháp luật

Tài liệu trong Tủ sách pháp luật cần sắp xếp thành 4 phần:

Nhóm 1: Tài liệu, đề cương giới thiệu các luật, pháp lệnh;

Nhóm 2: Sách, tài liệu hỏi đáp, bình luận, giải thích, hướng dẫn pháp luật; tờ gấp, tiểu phẩm, câu chuyện pháp luật;

Nhóm 3: Sách, tài liệu phục vụ công tác quản lý, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, giảng dạy và học tập;

Nhóm 4: Các sách, tài liệu pháp luật phù hợp khác. Căn cứ hướng dẫn danh mục sách, tài liệu pháp luật theo định kỳ của Bộ Tư pháp, Tủ sách pháp luật cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân cần được bổ sung kịp thời các sách, tài liệu pháp luật mới; thường xuyên rà soát, cập nhật, hệ thống hóa sách, tài liệu pháp luật.

Trong mỗi phần, sắp xếp theo thứ tự chữ cái tên sách. Trong Tủ sách được sắp xếp theo thứ tự từ trái qua phải, từ trên xuống dưới.

Tuỳ thuộc vào cách phân chia Tủ sách thành bao nhiêu ngăn mà sắp xếp tài liệu cho phù hợp.

Bước 6. Kiểm kê, bảo quản tài liệu, sách, báo

- Kiểm kê sách: Công tác kiểm kê sách được tiến hành vào cuối năm.

- Phương pháp kiểm kê: Người quản lý tủ sách đối chiếu giữa sổ đăng ký cá biệt với số sách hiện có và với sổ mượn sách của bạn đọc.

- Kết thúc kiểm kê, phải lập biên bản, xác nhận tình hình tài liệu, sách, báo pháp luật hiện có, kèm theo bản kê các sách bị mất hoặc sách bị thanh lý do hư hỏng trong quá trình sử dụng, rồi báo cáo với Thủ trưởng cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân để xoá mục ghi tương ứng trong sổ đăng ký cá biệt.

- Bảo quản sách, báo và bảo vệ Tủ sách:

+ Đối với sách, báo: Người quản lý Tủ sách pháp luật cần quan tâm tới việc bảo quản, để sách, báo được dùng lâu hơn, bền hơn. Nếu có kinh phí thì nên cho đóng bìa cứng để sử dụng lâu dài.

Những sách, báo do lưu hành nhiều bị xộc xệch thì người phụ trách Tủ sách pháp luật phải có trách nhiệm dán lại. Luôn nhắc nhở bạn đọc có ý thức giữ gìn sách, báo.

+ Đối với Tủ sách pháp luật: Không để các vật có thể gây cháy, gây hơi ẩm ướt ở gần, có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, phát hiện và diệt trừ mối mọt, chuột, gián… bằng hoá chất.

 Người phụ trách Tủ sách pháp luật hàng năm hoặc theo định kỳ có báo cáo người có thẩm quyền đánh giá kết quả tổ chức và hoạt động của Tủ sách pháp luật, từ đó đề ra kế hoạch bổ sung trong thời gian tới; đồng thời giúp lãnh đạo biết được tình hình hoạt động của Tủ sách pháp luật để có sự chỉ đạo kịp thời.

Nội dung báo cáo cần tập trung đánh giá kết quả về tổ chức và hoạt động phục vụ của Tủ sách pháp luật; những tồn tại từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động của Tủ sách pháp luật; các kiến nghị cụ thể với các cấp lãnh đạo để có các giải pháp kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Tủ sách pháp luật trong những năm tiếp theo.

Bước 7. Bổ sung tài liệu, sách, báo cho Tủ sách pháp luật

Người quản lý Tủ sách pháp luật phải thường xuyên tìm nguồn sách để bổ sung kịp thời vào Tủ sách pháp luật những sách, báo, tài liệu cần thiết, phù hợp với đặc thù ở cơ quan, đơn vị và phù hợp với yêu cầu, trình độ của bạn đọc.

Các hình thức bổ sung:

- Bổ sung khởi đầu: Xây dựng nguồn sách ban đầu cho Tủ sách pháp luật.

- Bổ sung hiện tại: Bổ sung định kỳ.

- Bổ sung hoàn bị: Bổ sung những tài liệu còn thiếu để hoàn thiện nội dung của Tủ sách.

Phương pháp bổ sung: Nghiên cứu danh mục giới thiệu sách mới của các Nhà xuất bản, hướng dẫn về danh mục sách của cơ quan Tư pháp cấp trên; căn cứ vào nội dung tài liệu hiện có của Tủ sách, phương hướng, nhiệm vụ hàng năm của cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và kinh phí được cấp để lập kế hoạch bổ sung sách, báo, tài liệu pháp luật cho phù hợp.

Nguồn bổ sung: Đặt mua sách tại các công ty phát hành sách Tung ương, các nhà xuất bản...; sách được cấp phát từ các nguồn khác…

Bước 8. Xử lý tài liệu, văn bản hết hiệu lực pháp luật

Người phụ trách Tủ sách pháp luật căn cứ vào hướng dẫn tổ chức phân loại, sắp xếp riêng các tài liệu, văn bản đã lạc hậu, hết hiệu lực pháp luật; đồng thời cần xử lý các sách, tài liệu đã bị mối mọt, rách nát, không còn giá trị sử dụng.

3. Một số lưu ý trong việc nâng cao hiệu quả quản lý Tủ sách pháp luật

Người được giao nhiệm vụ phụ trách Tủ sách pháp luật cần phải thực hiện các hoạt động chủ yếu sau đây:

3.1. Tuyên truyền về vị trí, vai trò của Tủ sách pháp luật

Việc tuyên truyền về vị trí, vai trò của Tủ sách pháp luật, cần được thực hiện ngắn gọn, thiết thực, dễ hiểu, hấp dẫn. Để đạt được hiệu quả tuyên truyền về vị trí, vai trò của Tủ sách pháp luật, người được giao nhiệm vụ quản lý Tủ sách pháp luật cần biên soạn bài giới thiệu để tuyên truyền trong hệ thống cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân bằng hình thức phù hợp.

3.2. Thông báo nội dung sách, báo, tài liệu pháp luật mới

Để người đọc biết được những nội dung chính của các sách, báo, tài liệu pháp luật mới, người được giao quản lý Tủ sách pháp luật cần biên soạn những bản thông báo ngắn gọn, cô đọng, dễ nhớ để dán lên các bảng tin của cơ quan, đơn vị hoặc thông báo bằng hình thức phù hợp để mọi người cùng biết, tìm đọc. Thông báo cần nêu bật những nội dung chính của các sách, báo pháp luật mới được cập nhật với những khía cạnh liên quan trực tiếp đến các nhóm đối tượng mà Tủ sách pháp luật hướng tới để thu hút họ quan tâm, tìm đọc, nghiên cứu sách, báo, tài liệu pháp luật. Đối với Tủ sách pháp luật điện tử, thông báo cần đưa các thông tin mới đã tích hợp (kèm đường link) để người đọc truy cập.

III. KỸ NĂNG KHAI THÁC TỦ SÁCH PHÁP LUẬT

1. Hoạt động phục vụ bạn đọc của Tủ sách pháp luật

Có hai hình thức: 

- Đọc, nghiên cứu tài liệu, sách, báo tại chỗ

- Cho mượn sách, báo, tài liệu pháp luật.

Để thực hiện các hoạt động cho mượn, Tủ sách pháp luật cần phải có:

Nội quy sử dụng Tủ sách pháp luật: Do cơ quan trực tiếp quản lý Tủ sách quy định và phải được niêm yết công khai ở nơi dễ đọc để cho bạn đọc biết.

Sổ đăng ký mượn tài liệu, sách, báo: Gồm các nội dung

Ngày mượn

Tên tài liệu

Số đăng ký

 cá biệt

Ngày trả

Tên bạn đọc (địa chỉ)

Ký nhận

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cách thức cho mượn: Tất cả các sách, báo, tài liệu pháp luật cho mượn đều được ghi vào sổ mượn sách. Trước khi cho bạn đọc mượn hay trả, phải tiến hành kiểm tra tình trạng của sách và có ghi chú cụ thể, nếu sách bị rách do lỗi của bạn đọc thì yêu cầu bạn đọc bồi thường theo quy định của nội quy.

2. Tổ chức giới thiệu sách, báo, tài liệu pháp luật thông qua sinh hoạt câu lạc bộ, thi tìm hiểu pháp luật để nâng cao hiệu quả khai thác Tủ sách pháp luật

Việc tổ chức giới thiệu sách, báo, tài liệu pháp luật cần lựa chọn hình thức phù hợp, khai thác thế mạnh của công nghệ thông tin để giới thiệu sách.

- Đối với Tủ sách pháp luật truyền thống: Cần chụp ảnh Tủ sách, chụp ảnh các bản sách, báo, tài liệu pháp luật mới, sử dụng powerpoint làm các slide trình chiếu (kết hợp giữa hình ảnh và ngôn ngữ) để giới thiệu nội dung sách, báo, tài liệu pháp luật nhằm thu hút sự quan tâm của bạn đọc.

Trường hợp không có điều kiện để sử dụng powerpoint, cần viết các bài giới thiệu sách pháp luật, tập trung vào những vấn đề chính mà đối tượng bạn đọc tại cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang quan tâm.

- Đối với việc giới thiệu sách, tài liệu của Tủ sách pháp luật điện tử: Cần viết giới thiệu sách ngắn gọn, cô đọng, gây sự chú ý (kèm đường link đến Luật, văn bản dưới luật). Có thể gửi bài giới thiệu đến từng cá nhân qua mạng xã hội như facebook, zalo …để mọi người quan tâm, tìm đọc.

Ngoài ra, người được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật cần sắp xếp sách, báo, tài liệu pháp luật khoa học, theo nội dung để thu hút sự quan tâm của bạn đọc.

3.2. Hướng dẫn, tư vấn cho người đọc lựa chọn sách, tài liệu pháp luật phù hợp với nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu

Người được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật cần có sự tiếp xúc, trao đổi trực tiếp (hoặc trao đổi trực tuyến) với người có nhu cầu tìm đọc/tìm kiếm sách, tài liệu pháp luật để biết nhu cầu của người đọc. Từ đó tư vấn, hướng dẫn người đọc tìm kiếm sách, tài liệu thiết thực, tìm đọc các quy định đảm bảo đúng và trúng với vấn đề mà người đọc quan tâm, tìm hiểu.

Đối với Tủ sách pháp luật điện tử, dù đã sắp xếp theo thư mục, nhưng việc tìm được tài liệu cần đọc cũng không dễ dàng và nếu không cẩn thận, rất dễ tìm phải các văn bản quy phạm pháp luật đã bị thay thế, hết hiệu lực; dẫn đến nhầm lẫn khi nghiên cứu, áp dụng, không đem lại hiệu quả, thậm chí có thể gây nguy hại khi áp dụng sai quy định của pháp luật. Ngoài việc giới thiệu, giúp đỡ bạn đọc tìm đúng các tài liệu cần khai thác, sử dụng, người được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật cần hướng dẫn, giúp đỡ bạn đọc các thức khai thác/tìm kiếm tài liệu trên không gian mạng, đảm bảo lựa chọn được thông tin chuẩn xác nhất. Khi tìm văn bản, cần lưu ý “từ khóa” cần tìm để việc tìm kiếm nhanh chóng, thuận tiện./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 8

Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua

 sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật

 

I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA CÂU LẠC BỘ PHÁP LUẬT

1. Khái niệm Câu lạc bộ pháp luật

Câu lạc bộ pháp luật là tổ chức được thành lập và hoạt động trên tinh thần tự nguyện tham gia của những người có nhu cầu tìm hiểu pháp luật, tích cực đấu tranh bảo vệ pháp luật, nhiệt tình tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Thông qua các hoạt động sinh hoạt của Câu lạc bộ nhằm góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, gây dựng lòng tin đối với pháp luật, nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, hình thành thói quen sống và làm việc theo pháp luật của các hội viên nói riêng và toàn thể nhân dân nói chung tại địa bàn.

Tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật được thực hiện trên cơ sở pháp luật; tuân thủ Quy chế, điều lệ tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Câu lạc bộ pháp luật hoạt động định kỳ, thường xuyên dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức đoàn thể, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của ngành Tư pháp.

2. Đặc điểm của Câu lạc bộ pháp luật

Việc xác định những đặc điểm của Câu lạc bộ pháp luật nhằm phân biệt mô hình này với các loại hình Câu lạc bộ khác. Điều này đồng thời giúp cho việc xác định tiêu chí, mục đích, nội dung cũng như phương thức tổ chức hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật được rõ ràng, dễ áp dụng.

Dựa trên mục đích thành lập, tổ chức hoạt động, Câu lạc bộ pháp luật có những đặc điểm cơ bản như sau:

- Là tổ chức được thành lập và hoạt động dựa trên nguyên tắc tự giác, tự nguyện của các cá nhân thành viên với mục đích chủ yếu để có cơ hội được giao lưu, học hỏi, tìm hiểu và nâng cao kiến thức pháp luật;

- Câu lạc bộ có cơ cấu tổ chức bao gồm Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ và các hội viên; hoạt động tuân thủ điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;

- Hoạt động của Câu lạc bộ được tổ chức định kỳ, thường xuyên dựa trên kế hoạch hoạt động hàng tháng, hàng quý, 6 tháng, năm do Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ đề ra và được toàn thể thành viên Câu lạc bộ nhất trí thông qua.

- Câu lạc bộ hoạt động thông qua các buổi sinh hoạt tập thể theo các hình thức sinh hoạt phong phú, linh hoạt, phù hợp với từng thời kỳ và đối tượng;

- Số lượng thành viên Câu lạc bộ không hạn chế, luôn được phát triển mở rộng thu hút đông đảo cán bộ, nhân dân tham gia.

3. Vai trò của Câu lạc bộ pháp luật

Câu lạc bộ pháp luật được xác định là một hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật có hiệu quả, phù hợp với mọi đối tượng và địa bàn dân cư khác nhau. Thực tiễn những năm qua cho thấy, tác dụng, hiệu quả, sức lan toả tích cực của mô hình này là không nhỏ trong đời sống cộng đồng dân cư. Điều này được khẳng định trước hết vì Câu lạc bộ là nơi quy tụ, tập hợp đông đảo thành viên tham gia nhằm giao lưu, học hỏi, tạo một diễn đàn, sân chơi bổ ích và lành mạnh để cùng trao đổi, nắm bắt kiến thức pháp luật và vận dụng pháp luật.

Thông qua hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi và kịp thời. Từ đó, giúp hội viên và nhân dân trên địa bàn nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và tự giác chấp hành pháp luật, đưa pháp luật dần trở thành thói quen trong ứng xử hàng ngày của nhân dân. Câu lạc bộ còn tạo điều kiện để mỗi hội viên trở thành một tuyên truyền viên pháp luật tích cực vận động người thân trong gia đình, cộng đồng nơi mình cư trú chấp hành pháp luật.

Câu lạc bộ pháp luật huy động sự quan tâm, phát huy tính tích cực, phối kết hợp của các cấp, các ngành, đoàn thể hữu quan trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý, đưa công tác này trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Vì lẽ đó, hoạt động của Câu lạc bộ góp phần không nhỏ trong việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đặc biệt là phong trào đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

II. KỸ NĂNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA SINH HOẠT CÂU LẠC BỘ PHÁP LUẬT

1. Lựa chọn nội dung và phương thức hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật

Để Câu lạc bộ phát huy tính thiết thực và tính hiệu quả trên thực tế thì hoạt động của Câu lạc bộ là yếu tố quyết định. Một Câu lạc bộ có hoạt động tốt hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có hai yếu tố cơ bản: nội dung hoạt động và phương thức tổ chức hoạt động.

1.1. Về nội dung hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật

Việc lựa chọn nội dung pháp luật phải phù hợp với đối tượng và mục đích, tiêu chí hoạt động của các loại hình Câu lạc bộ, đảm bảo tính cần thiết cũng như sự đáp ứng nhu cầu được tìm hiểu, nâng cao hiểu biết pháp luật của các thành viên tham gia các Câu lạc bộ này.

- Lựa chọn nội dung phù hợp với đối tượng hội viên và đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương:

Tuỳ theo mục đích, đối tượng tham gia Câu lạc bộ pháp luật, nội dung hoạt động của Câu lạc bộ cần phù hợp, sát thực với đối tượng và đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương. Chủ đề pháp luật là nội dung chủ yếu trong các kỳ sinh hoạt, học tập, tổ chức giao lưu của Câu lạc bộ. Tuy nhiên, ở mỗi thời điểm khác nhau, thì lựa chọn nội dung pháp luật cho phù hợp với tính thời sự. Ngoài những nội dung pháp luật mà mọi đối tượng đều cần biết như dân sự, hình sự, đất đai...thì với các đối tượng cụ thể sẽ tập trung tuyên truyền các lĩnh vực pháp luật cụ thể. Ví dụ: đối với phụ nữ thì tập trung tìm hiểu, tuyên truyền pháp luật về dân số, hôn nhân và gia đình, sức khoẻ sinh sản...; đối với nông dân thì tập trung phổ biến về chính sách xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế nông thôn; đối với người lao động cho doanh nghiệp hoặc công nhân trong các khu công nghiệp thì tuyên truyền về pháp luật lao động, công đoàn... Bên cạnh đó, các chính sách, quy định của cơ quan chính quyền địa phương cũng là nội dung cần được Câu lạc bộ quan tâm, khai thác và kịp thời tuyên truyền cho các hội viên nói riêng và nhân dân nói chung.

- Lựa chọn nội dung phù hợp với mục tiêu của buổi sinh hoạt:

Để lựa chọn và sử dụng phương pháp sinh hoạt phù hợp, báo cáo viên pháp luật/tuyên truyền viên pháp luật cần xác định rõ mục tiêu của buổi hoạt để thiết kế sao cho mỗi giờ sinh hoạt hiệu quả với phương pháp cụ thể nhằm chuyển tải một nội dung hợp lý. Báo cáo viên pháp luật/tuyên truyền viên pháp luật có thể xác định mục tiêu trong sinh hoạt theo 03 cấp độ sau:

(1) Nếu như xác định mục tiêu chỉ cần cho hội viên biết về một vấn đề nào đó thì chỉ cần giới thiệu đầy đủ nội dung thông tin.

(2) Mục tiêu đặt ra muốn hội viên hiểu thì báo cáo viên pháp luật/tuyên truyền viên pháp luật cần phân tích, so sánh đối chiếu và trao đổi với hội viên.

(3) Mục tiêu hướng tới hội viên áp dụng kiến thức và kỹ năng vào thực tế công việc thì nội dung sinh hoạt không chỉ dừng lại ở việc đối chiếu, phân tích, trao đổi mà hội viên cần được thực hành giải quyết các tình huống cụ thể.

Các nội dung hoạt động của Câu lạc bộ không nên bó hẹp trong phạm vi đối tượng nhất định, không gian và thời gian nhất định mà cần được mở rộng, bổ sung kịp thời đảm bảo tính cập nhật, tránh nhàm chán, đặc biệt là cung cấp một lượng kiến thức pháp luật phong phú cho các hội viên. Ngoài ra, cũng cần phổ biến các kiến thức kinh tế, xã hội cần thiết khác phù hợp với từng đối tượng.

Như vậy, mục tiêu được đặt các cấp độ khác nhau và căn cứ vào mức độ của mục tiêu cũng như về đối tượng hội viên mà báo cáo viên pháp luật/tuyên truyền viên pháp luật sẽ lựa chọn phương pháp sinh hoạt thích hợp và hiệu quả nhất để áp dụng.

1.2. Về phương thức tổ chức hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật

Để thu hút số lượng hội viên tham gia Câu lạc bộ, giúp cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong Câu lạc bộ có hiệu quả thì phương thức tổ chức sinh hoạt của Câu lạc bộ cần đa dạng, phong phú và hấp dẫn. Câu lạc bộ thường tập trung tổ chức sinh hoạt theo các phương thức sau:

- Tổ chức các buổi nói chuyện, tọa đàm chuyên đề về nội dung pháp luật, giới thiệu văn bản pháp luật mới, trao đổi, thảo luận về quy định pháp luật đối với vấn đề đang nổi cộm trong khu dân cư, tổ dân phố, được dư luận quan tâm...

- Tổ chức biểu diễn tiểu phẩm, thi văn hoá, văn nghệ lồng ghép kiến thức pháp luật, thi hái hoa dân chủ, thi tìm hiểu pháp luật, sáng tác thơ, ca, hò về nội dung pháp luật;

- Cung cấp thông tin, tư liệu pháp luật (sách, báo, văn bản pháp luật) phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương;

- Tổ chức các buổi giao lưu, tọa đàm pháp luật với các loại hình Câu lạc bộ khác, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể tại đơn vị, địa phương;

- Phối hợp với Ban Văn hoá - thông tin cơ sở tổ chức lồng ghép phổ biến pháp luật trên mạng lưới loa truyền thanh cơ sở của xã;

- Kẻ vẽ các khẩu hiệu tuyên truyền pháp luật;

- Phối hợp với công chức tư pháp – hộ tịch tổ chức tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý cho người dân, vận động người dân tham gia các phong trào thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội...;

- Tham gia công tác hòa giải cơ sở; tổ chức tìm hiểu pháp luật thông qua tủ sách pháp luật ở cơ sở;

- Trực tiếp đi động viên, gặp gỡ và tuyên truyền pháp luật cho các đối tượng có nguy cơ cao vi phạm pháp luật (nghiện ma túy, trộm cắp, cờ bạc...) tại địa phương;

- Mời cán bộ, chuyên viên, báo cáo viên pháp luật của tỉnh, huyện về trực tiếp tuyên truyền.

2. Duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật

Duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của Câu lạc bộ đã, đang là vấn đề được đặt ra đối với các Câu lạc bộ nói chung và Câu lạc bộ pháp luật nói riêng. Nhiều Câu lạc bộ được thành lập và chỉ sau một thời gian hoạt động đã tạm ngừng hoặc hoạt động cầm chừng do nội dung sinh hoạt nghèo nàn, không thu hút sự tham gia đông đảo của hội viên, không có địa điểm sinh hoạt cố định hoặc do thiếu kinh phí... Để khắc phục tình trạng này, nhằm tiếp tục duy trì, phát huy tác dụng, hiệu quả hoạt động, các Câu lạc bộ cần tiến hành đồng bộ một số biện pháp sau:

- Xây dựng kế hoạch hoạt động hàng năm: Việc xây dựng kế hoạch hoạt động hàng năm của Câu lạc bộ đảm bảo tính liên tục về tiến độ hoạt động cũng như những nội dung, phương thức tổ chức hoạt động của Câu lạc bộ;

- Cử cán bộ phụ trách, theo dõi hoạt động của Câu lạc bộ: Cần chọn người nhiệt tình, năng động, tâm huyết, có năng lực tổ chức, đặc biệt là người am hiểu pháp luật để đưa vào Ban chủ nhiệm hoặc làm tư vấn cho Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ.

- Xây dựng lực lượng cộng tác viên: Lực lượng này chủ yếu gồm các báo cáo viên và tuyên truyền viên pháp luật tình nguyện tại địa bàn tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ để phổ biến, tuyên truyền, và giải đáp thắc mắc về các nội dung, lĩnh vực liên quan đến pháp luật.

- Xây dựng tủ sách pháp luật cho Câu lạc bộ: Tủ sách pháp luật được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu phổ biến, giáo dục pháp luật của Câu lạc bộ, phù hợp với đối tượng của Câu lạc bộ (về khả năng nhận thức cũng như đặc điểm tâm lý...). Tủ sách nên được mở thường xuyên trong các buổi sinh hoạt để tạo điều kiện cho các hội viên và nhân dân được tiếp xúc, tìm hiểu. Nội dung tủ sách cần được cập nhật, phong phú về loại hình (sách tra cứu, báo, tờ gấp, sách bỏ túi...). Nên có sự trao đổi, luân chuyển với tủ sách pháp luật của cơ quan, đơn vị, trường học và xã, phường, thị trấn tại địa bàn. Để xây dựng tủ sách, cần huy động sự đóng góp của các cá nhân, gia đình, doanh nghiệp, hoặc khuyến khích, động viên mỗi gia đình, mỗi thành viên Câu lạc bộ đóng góp 01 cuốn sách hoặc tạp chí...

- Thường xuyên đổi mới các phương thức sinh hoạt để thu hút các hội viên tham gia: Thực tiễn hoạt động của các Câu lạc bộ pháp luật thời gian qua cho thấy, việc đổi mới phương thức sinh hoạt góp phần không nhỏ trong việc duy trì hoạt động và ngày càng thu hút đông đảo hội viên tham gia của các Câu lạc bộ. Để phù hợp với thực tiễn, các Câu lạc bộ có thể lựa chọn và vận dụng vào quá trình tổ chức sinh hoạt của mình các hình thức sau đây:

- Bố trí địa điểm sinh hoạt của Câu lạc bộ ổn định: tuy nhiên địa điểm sinh hoạt Câu lạc bộ có thể được thay đổi để phù hợp, thích nghi với điều kiện của hội viên hoặc để thu hút thêm nhiều thành phần tham dự buổi sinh hoạt Câu lạc bộ (như trụ sở Ủy ban nhân dân xã, nhà văn hoá thôn, xã, sân đình, rạp chiếu bóng công cộng...);

- Tạo nguồn kinh phí hoạt động ổn định cho Câu lạc bộ. Kinh phí hoạt động được huy động từ các nguồn sau:

+ Sự hỗ trợ của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và chính quyền địa phương nơi thành lập Câu lạc bộ;

+ Kinh phí từ các dự án, các chương trình quốc gia;

+ Kinh phí từ cơ quan chuyên môn có nhu cầu đưa nội dung pháp luật cụ thể vào tuyên truyền, phổ biến tại Câu lạc bộ;

+ Động viên sự đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, các nhà tài trợ;

+ Sự đóng góp của các hội viên Câu lạc bộ;

- Nhân rộng mô hình điểm Câu lạc bộ pháp luật: Thực tế hoạt động của Câu lạc bộ cần được đánh giá để thấy được hiệu quả của mô hình này trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Trên cơ sở đó, thực hiện chỉ đạo thành lập, tổ chức hoạt động điểm Câu lạc bộ pháp luật và tiến hành nhân rộng mô hình tại cơ quan, đơn vị, địa phương theo quy mô rộng hơn dựa trên việc tổng kết, rút kinh nghiệm thực tiễn và có các biện pháp chỉ đạo cụ thể.

- Thực hiện chế độ khen thưởng, kiểm điểm phê bình kịp thời: Trong quá trình tổ chức hoạt động của Câu lạc bộ, Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ cũng như cơ quan chủ quản cấp trên cần theo dõi, phát hiện và có chế độ khen thưởng kịp thời đối với các cá nhân tham gia tích cực, có nhiều thành tích, sáng tạo trong tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ cũng như nghiêm túc kiểm điểm, phê bình các cá nhân vi phạm điều lệ, quy chế sinh hoạt của Câu lạc bộ.

- Thực hiện sơ kết, tổng kết hoạt động định kỳ của Câu lạc bộ: Việc sơ, tổng kết hoạt động của Câu lạc bộ giúp cho Ban chủ nhiệm, cơ quan cấp trên phụ trách trực tiếp có kế hoạch, định hướng hoạt động cho Câu lạc bộ trong những thời gian tiếp theo./.

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 9

Kỹ năng triển khai ng dụng công nghệ thông tin trong phbiến, giáo dục pháp luật

 

Internet ra đời đã đem lại những thay đổi, tiến bộ vô cùng to lớn trong đời sống con người. Ngày nay, thông qua sự phát triển của công nghệ thông tinvà mạng Internet, cách thức người dân tìm kiếm, tiếp cận các thông tin nói chung và thông tin pháp luật nói chung cũng có nhiều thay đổi, không chỉ thụ động tiếp nhận các thông tin, chính sách mà xu hướng chủ động tìm kiếm các thông tin páp luật theo nhu cầu cũng dần nhiều hơn. Hiện nay, 100% các bộ, ngành và đại phương đều đã xây dựng các Trang/Cổng thông tin điện tử riêng; ở những vùng sâu, vùng xa, hải đảo, Internet cũng đã có mặt để phục vụ nhu cầu tìm kiếm thông tin của người dân. Theo xu hướng đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) cũng cần phải có sự thay đổi nhằm tận dụng sức mạnh to lớn của công nghệ thông tin để thực hiện chức năng, mục đích của mình, tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả.

1. Ưu điểm ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác PBGDPL

1.1. Việc truyền tải những thông tin, chính sách, quy định pháp luật trở nên nhanh chóng, thuận tiện, kịp thời. Sự phát triển của công nghệ thông tinvà mạng Internet đã giúp xây dựng một mạng lưới truyền thông rộng khắp và được cập nhật liên tục. Chính vì thế, khi có những thay đổi trong chính sách, pháp luật, Nhà nước có thể dễ dàng truyền tải thông tin tới mọi người dân một cách nhanh chóng.

1.2. Tăng cường tính tương tác, thuận tiện cho người dân. Một người dân ở bất cứ đâu đều có thể dễ dàng tra cứu và tìm hiểu một chính sách, pháp luật mới bằng những thao tác đơn giản ngay tại nhà thông qua máy tính hoặc một thiết bị thông tin có nối mạng. Thông qua các phương tiện kết nối internet, người dân cũng có thể dễ dàng đăng tải những ý kiến của mình về chính sách, quy định mới hoặc dự thảo chính sách, pháp luật của Nhà nước và ngược lại, các cơ quan nhà nước cũng có thể lấy ý kiến người dân một cách thuận tiện.

1.3. Giảm chi phí cho công tác PBGDPL: Nếu so với các hình thức PBGDPL khác thì việc sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tintrong công tác PBGDPL có chi phí thực hiện thấp nhất nhưng lại có thể đem lại hiệu quả lớn nếu biết khai thác và tận dụng.

Ví dụ như tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo trực tuyến. Thông qua phương thức này sẽ giúp giảm thiểu chi phí tổ chức, chi phí đi lại…một cách đáng kể so với các hình thức truyền thống khác.

2. Một số khó khăn đối với ứng dụng công nghệ thông tin trong PBGDPL

2.1. Khó thực hiện tại những nơi cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đáp ứng được điều kiện cần thiết để thực hiện PBGDPL thông qua ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là tại những địa phương ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi, vùng có điều kiện kinh tế - khó khăn, biên giới, hải đảo. Trong khi để thực hiện công tác PBGDPL theo hình thức này đòi hỏi phải có cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp đi kèm.

2.2. Thiếu nguồn nhân lực được đào tạo để ứng dụng công nghệ thông tinphục vụ hoạt động PBGDPL. Hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, nhiều công nghệ số, ứng dụng công nghệ thông tinmới ra đời nhưng việc tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL về kỹ năng PBGDPL trong lĩnh vực này chưa được thực hiện hoặc có thực hiện nhưng chưa thường xuyên. Do đó, kỹ năng PBGDPL thông qua ứng dụng công nghệ thông tincủa nhiều báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật còn hạn chế.

2.3. Nhiều thông tin được đưa lên mạng bị xuyên tạc, sai sự thật, được sử dụng vào những mục đích xấu nhằm kích động người dân; bôi xấu chế độ, đường lối của Đảng và Nhà nước; tạo ra hoang mang trong dư luận. Điều đó đã khiến một bộ phận người dân mất niềm tin vào tính chính xác, minh bạch của các thông tin trên mạng. Điều này cũng làm ảnh hưởng phần nào tới hiệu quả của hoạt động PBGDPL thông qua mạng Internet.

3. Một số cách thức ứng dụng công nghệ thông tin trong PBGDPL

Hiện nay, một số cách thức ứng dụng công nghệ thông tin trong PBGDPL được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:

3.1. Cung cấp văn bản quy phạm pháp luật trên môi trường internet

Hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật vẫn là nguồn luật chủ yếu của hệ thống pháp luật nước ta. Vì vậy, nhu cầu tìm hiểu văn bản quy phạm pháp luật luôn là một nhu cầu lớn của mọi tổ chức, cá nhân. Điều quan trọng nhất khi đưa các văn bản quy phạm pháp luật lên trên mạng internet là văn bản đó phải đảm bảo tính chính xác. Để có được điều này, người thực hiện công việc cần dựa vào các nguồn cung cấp văn bản chính thống như: Công báo Chính phủ, Công báo địa phương, Lệnh công bố của Chủ tịch nước, các bản chính, bản sao văn bản có giá trị như bản chính… Bên cạnh đó, có thể tham khảo các nguồn cung cấp văn bản pháp luật trên các trang web có độ tin cậy cao như Trang web của Trung tâm thông tin Văn phòng Quốc hội: http://www.na.gov.vn hoặc Website Chính phủ: http://www.chinhphu.vn hoặc Cổng thông tin của Bộ Tư pháp: http://www.moj.gov.vn/hay Cơ sở dữ liệu Quốc gia về văn bản pháp luật tại địa chỉ http://vbpl.vn/Pages/portal.aspx hoặc tham khảo các đĩa CD-ROM cơ sở dữ liệu pháp luật Việt Nam. 

Việc cung cấp văn bản quy phạm pháp luật cần đảm bảo tính cập nhật, kịp thời cung cấp những thông tin về các quy định, chính sách mới của Nhà nước đến người dân. Ngoài ra, tính có hệ thống là một yêu cầu quan trọng trong việc cung cấp văn bản quy phạm pháp luật phục vụ mục đích tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên mạng internet. Bên cạnh việc sắp xếp theo ngày ban hành, các văn bản nên được sắp xếp theo lĩnh vực để người đọc tiện theo dõi, tra cứu khi cần.

Bên cạnh việc cung cấp văn bản pháp luật, để bảo đảm hiệu quả tra cứu cho tổ chức, cá nhân, thì cần kèm theo lời tóm tắt, giới thiệu nội dung chính của văn bản. Nếu hạn chế về nguồn lực, việc tóm tắt có thể không nhất thiết phải thực hiện đối với tất cả các văn bản pháp luật mà có thể lựa chọn những văn bản mới quan trọng, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân. Khi tóm tắt nội dung của văn bản pháp luật cần nêu được tinh thần chung của văn bản, nêu nội dung của những quy định mới, những quy định thay đổi của văn bản. Yêu câu của lời tóm tắt là phải nêu được tên của văn bản, cơ quan ban hành, ngày tháng ban hành, ngày tháng có hiệu lực, tên văn bản hết hiệu lực hoặc bị sửa đổi. Lời tóm tắt cần ngắn gọn, dễ hiểu đồng thời bảo đảm được tính chuẩn xác, tính đơn nghĩa, tránh hiểu sai, hiểu nhầm các quy định của pháp luật.

3.2. Cung cấp hỏi đáp pháp luật trực tuyến

Hỏi đáp pháp luật là một trong những hình thức PBGDPL hiệu quả giúp việc cung cấp thông tin pháp luật sát với nhu cầu của các tổ chức, cá nhân. Thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin, các cơ quản quản lý nhà nước có thể dễ dàng tiếp nhận nhanh chóng và thuận lợi cung cấp các ý kiến giải đáp cho các tổ chức, cá nhân. Các câu hỏi về pháp luật có nhiều dạng, có thể là câu hỏi trực tiếp (ví dụ như “tội phạm là gì?”, “thủ tục thành lập doanh nghiệp tư nhân được pháp luật quy định như thế nào?”) hoặc câu hỏi gián tiếp thông qua một tình huống, một sự kiện xảy ra trong thực tế.

Hiện nay, nguồn hình thành các câu hỏi đáp pháp luật có hai dạng:

- Một là, từ những vướng mắc thực tiễn, độc giả truy cập vào trang web rồi gửi câu hỏi cho Ban biên tập (gọi là hỏi đáp theo yêu cầu độc giả);

- Hai là, Ban biên tập nghiên cứu, phát hiện thấy những vấn đề nhiều người quan tâm rồi xây dựng nội dung các vấn đề đó dưới dạng hỏi đáp. Tuy nhiên, cho dù nguồn câu hỏi được hình thành như thế nào thì người biên tập cũng cần lưu ý là phải lựa chọn câu hỏi, trả lời phù hợp và cần sắp xếp câu hỏi đáp pháp luật một cách khoa học, dễ tìm, dễ tra cứu khi cần thiết.

3.3. Xây dựng các chuyên mục chuyên sâu về pháp luật

Các chuyên mục tuyên truyền, phổ biến chuyên sâu về pháp luật cung cấp những kiến thức sâu về từng lĩnh vực pháp luật cụ thể hoặc có thể được xây dựng theo tiêu chí về đối tượng cần tuyên truyền, nội dung pháp luật… (Ví dụ như chuyên mục thủ tục tố tụng dân sự, hình sự, pháp luật hội nhập WTO, pháp luật đất đai…). Song song với việc đảm bảo về nội dung kiến thức, các chuyên mục này cần chú ý đến những vấn đề trình bày, biên soạn nội dung cần tuyên truyền dưới dạng sơ đồ, bảng biểu, hình ảnh sinh động để người đọc dễ theo dõi.

Bên cạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật thông qua những chuyên mục chuyên sâu có nội dung mang tính lý thuyết nên xây dựng những chuyên mục đi sâu phân tích các tình huống cụ thể dưới góc độ pháp luật. Thực tế cho thấy cách làm này mang lại hiệu quả cao.

3.4. Số hóa và đăng tải các tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật lên mạng internet

Đưa các tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật lên mạng internet được hiểu là chuyển nội dung của các ấn phẩm tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã xuất bản (sách, đặc san, tờ gấp, tờ rơi, đĩa hình, đĩa tiếng…) thành dữ liệu điện tử và đăng tải dữ liệu đó trên internet. Như vậy, các tài liệu tuyên truyền pháp luật đăng trên internet có nội dung giống như nội dung của các ấn phẩm đã xuất bản.

Việc đăng tải các tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật lên mạng internet được thực hiện theo quy trình sau đây:

(i) Đầu tiên, cần căn cứ vào mục đích, đối tượng và nguồn tài liệu tuyên truyền pháp luật hiện có để lựa chọn tài liệu đưa lên mạng internet.

(ii) Sau khi đã lựa chọn được tài liệu, cần lựa chọn định dạng tài liệu để đưa lên mạng internet như: dạng file Word, file RAR hoặc file PDF… tùy thuộc vào dung lượng của tài liệu, tính năng kỹ thuật của trang Web.

(iii) Khi số hóa xong tài liệu, cần kiểm tra (nghe, đọc soát) để đảm bảo nội dung của dữ liệu điện tử giống nội dung của ấn phẩm đã xuất bản.

Hiện nay, có thể tham khảo cách làm này qua địa chỉ của một số Website như Website của Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (http://www.nciec.gov.vn); Trang thông tin Phổ biến, giáo dục pháp luật của Bộ Tư pháp (http://pbgdpl.moj.gov.vn/pbgdpl); Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (http://www.nclp.org.vn).

3.5. Tổ chức giao lưu trực tuyến pháp luật

Giao lưu trực tuyến là hình thức đối thoại qua mạng internet, là dịp để những người tham gia bày tỏ, trao đổi những quan điểm của mình về những vấn đề cụ thể. Nội dung giao lưu trực tuyến về pháp luật thường là hỏi và trả lời các vấn đề liên quan đến pháp luật, qua đó góp phần nâng cao nhận thức về các vấn đề xã hội nói chung và nhận thức về pháp luật nói riêng.

Ví dụ: Trên Báo Vietnamnet, Tổ thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã có buổi giao lưu trực tuyến về việc thi hành Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư; Báo Pháp luật Việt Nam điện tử tổ chức tọa đàm trực tuyến về việc thi hành pháp luật về phòng, chống bạo lực học đường…

Để tổ chức một buổi giao lưu trực tuyến pháp luật thành công, cần chú ý một số vấn đề sau:

(i) Chủ đề của buổi giao lưu trực tuyến về pháp luật cần cụ thể, rõ ràng, tập trung vào những nội dung pháp luật được dư luận xã hội quan tâm hoặc cần định hướng dư luận xã hội, đang có nhiều bất cập trong quá trình thực hiện.

(ii) Người dẫn chương trình và người tham gia giao lưu trực tuyến để giải đáp các vướng mắc cần có sự chuẩn bị chu đáo về nội dung vấn đề đặt ra, chú ý đến những vấn đề thời sự đang được nhiều người quan tâm.

(iii) Bố trí hệ thống máy móc, phần mềm đảm bảo chất lượng và phân công người có năng lực giúp việc cho buổi giao lưu trực tuyến pháp luật.

3.6. Xây dựng bài giảng điện tử

Bài giảng điện tử là một hình thức bài giảng trên lớp mà ở đó toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học đều được chương trình hoá thông qua môi trường multimedia do máy vi tính tạo ra.

Để xây dựng bài giảng điện tử phục vụ hoạt động PBGDPL, người dạy cần tiến hành những bước sau:

§  Lựa chọn nội dung bài học hợp lý với ứng dụng công nghệ thông tin;

§  Xây dựng mục tiêu bài học;

§  Lựa chọn phần mềm ứng dụng vào bài giảng;

§  Xây dựng đề cương bài giảng;

§  Soạn bài giảng điện tử;

§  Chạy thử bài giảng điện tử;

§  Thể hiện bài giảng điện tử.

Đây là bước rất quan trọng, thể hiện  kết quả cuối cùng của toàn bộ quá trình. Để thành công, người giảng phải thể hiện được hết ý tưởng bài giảng điện tử đã thiết kế; làm chủ phương tiện kỹ thuật; phối hợp với các phương pháp dạy học thích hợp; thể hiện được quan hệ tương tác giữa người dạy và người học.

3.7. Phổ biến, giáo dục pháp luật trên mạng xã hội

PBGDPL trên mạng xã hội nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác triệt để những tính năng, tiện ích của mạng xã hội nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả PBGDPL; kịp thời nắm bắt dư luận xã hội, đồng thời tương tác, phản hồi các ý kiến nhanh chóng, kịp thời.

Hiện nay, việc PBGDPL được thực hiện nhiều trên Fanpage. Trang Fanpage có thể tập trung đăng tải, cập nhật những nội dung sau:

- Bản tin tổng hợp: Tổng hợp, cập nhật, đăng tải thông tin về tình tình PBGDPL ở Trung ương và địa phương như.

- Thông tin văn bản pháp luật: Đăng tải các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành; các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cần lấy ý kiến; đề cương giới thiệu luật; các bài viết phân tích, bình luận các quy định pháp luật…

- Tủ sách pháp luật điện tử: Đăng tải các tài liệu tuyên truyền PBGDPL(Tờ gấp, sách hỏi đáp, sách bình luận, tình huống pháp luật…)

- Video clip pháp luật: Đăng tải bài giảng điện tử pháp luật; các phóng sự, phỏng vấn xoay quanh các nội dung pháp luật được dư luận xã hội quan tâm.

- Diễn đàn pháp luật: cung cấp diễn đàn thảo luận, trao đổi các chính sách, quy định pháp luật hoặc dự thảo chính sách, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

3.8. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tổ chức thi tìm hiểu pháp luậl trực tuyến

Thi tìm hiểu pháp luật trực tuyến là việc người dự thi sử dụng trình duyệt trên máy tính hoặc các thiết bị di động có kết nối internet để trả lời các câu hỏi trắc nghiệm được thiết kế theo bộ đề có sẵn do Ban Tổ chức xây dựng. Để tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật trực truyến, cần thực hiện các bước sau đây:

Giai đoạn chuẩn bị

a) Hình thành chủ trương về cuộc thi

Cơ quan có sáng kiến về cuộc thi cần lập Tờ trình trình lãnh đạo xin ý kiến. Sau khi đ­ược cấp có thẩm quyền phê duyệt, Tờ trình sẽ là cơ sở tiến hành các b­ước tiếp theo để tổ chức cuộc thi.

b) Xây dựng kế hoạch tổ chức cuộc thi

Trong kế hoạch cần quy định rõ mục đích, yêu cầu, đối t­ượng tham gia, nội dung, hình thức thi; thời gian tổ chức cuộc thi; tiến độ thực hiện các công việc; kinh phí cuộc thi, cơ cấu giải thư­ởng; phân công trách nhiệm.

c) Thành lập Ban Tổ chức cuộc thi

Thành phần Ban Tổ chức cuộc thi gồm đại diện các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể có liên quan đến nội dung cuộc thi, đối tư­ợng dự thi. Ở những cuộc thi có phạm vi hẹp nh­ư tổ chức trong nội bộ một Bộ, ngành, đoàn thể... thì thành phần Ban Tổ chức là đại diện các đơn vị hoặc các bộ phận có liên quan đến cuộc thi trong Bộ, ngành, đoàn thể đó.

d) Xây dựng thể lệ cuộc thi

Thể lệ cuộc thi tìm hiểu pháp luật trực tuyến bao gồm: tên gọi, phạm vi, đối t­ượng dự thi; nội dung thi; hình thức thi; cách thức đăng ký dự thi, cách thức thi; thời gian tổ chức cuộc thi; giải thư­ởng; quy định cấm, khiếu nại và giải quyết khiếu nại; địa chỉ liên hệ (Ban Tổ chức) và những nội dung cần thiết khác.

đ) Xây dựng bộ câu hỏi cho cuộc thi

Câu hỏi của cuộc thi tìm hiểu pháp luật trực tuyến thường là câu hỏi trắc nghiệm theo hướng đưa ra các phương án để người dự thi lựa chọn trả lời, phù hợp với người dự thi, bảo đảm dễ hiểu. 

Đối với cuộc thi có câu hỏi mở về cách thức giải quyết một tình huống pháp luật, Ban Tổ chức cuộc thi ra Quyết định thành lập Ban Giám khảo (hoặc Ban Chấm thi) trong đó chỉ định Tr­ưởng Ban chấm thi. Thành viên Ban chấm thi là những ng­ười có uy tín, có nghiệp vụ và am hiểu về nội dung thi.

e) Chuẩn bị Đáp án cuộc thi

Đáp án của cuộc thi tìm hiểu pháp luật trực tuyến xác định phương án trả lời đúng trong số các phương án trả lời mà câu hỏi đưa ra. 

Đối với câu hỏi mở về cách thức giải quyết một tình huống pháp luật, cần xây dựng kỹ nội dung đáp án theo hướng bám sát yêu cầu nội dung cần có đối với bài thi đã hướng dẫn, đồng thời cần xây dựng thang điểm chi tiết cho từng ý trong câu trả lời, có thể đưa ra tiêu chí cụ thể về nội dung (mở rộng nội dung trả lời, có sự phân tích, so sánh hoặc ví dụ minh hoạ cho phần trả lời...) và hình thức thể hiện (phong cách trình bày mạnh lạc, dễ hiểu, lôi cuốn...) để khuyến khích bài dự thi có chất lượng cao.

Giai đoạn tiến hành cuộc thi

a) Phát động cuộc thi vàcông bố thể lệ, nội dung (hoặc câu hỏi) cuộc thi

Việc phát động cuộc thi có thể được tổ chức theo 02 hình thức: (i) Phát động bằng ban hành văn bản hướng dẫn, tổ chức cuộc thi và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, Cổng/Trang Thông tin điện tử, mạng xã hội...; (ii) Tổ chức Lễ phát động cuộc thi.

b) Tuyên truyền về cuộc thi

Để thu hút đ­ược nhiều người dự thi, Ban Tổ chức cuộc thi cần sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến về cuộc thi nh­ư: thông tin chi tiết về thể lệ, yêu cầu nội dung thi hoặc câu hỏi của cuộc thi; biên soạn, giới thiệu cung cấp các tài liệu, văn bản liên quan đến cuộc thi; tuyên truyền miệng trực tiếp hoặc qua phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống loa, đài truyền thanh ở cơ sở, mạng xã hội, áp phích thông báo ở những nơi công cộng. 

c) H­ướng dẫn, theo dõi, đôn đốc việc triển khai cuộc thi

Để cuộc thi đạt kết quả tốt, trong suốt giai đoạn tiến hành cuộc thi, Ban Tổ chức phải theo dõi diễn biến cuộc thi, định kỳ hoặc đột xuất họp để đ­ưa ra biện pháp hướng dẫn, đôn đốc cuộc thi. Đối với những cuộc thi quy mô lớn, đư­ợc tổ chức từ trung ­ương đến cơ sở với nhiều đối tư­ợng dự thi, Ban Tổ chức còn cần quan tâm h­ướng dẫn, kịp thời hỗ trợ, giải đáp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc không chỉ về nội dung thi mà còn liên quan đến kỹ thuật để tạo điều kiện cho các đơnvị cấp dư­ới tiến hành triển khai cuộc thi hiệu quả, thiết thực.

Giai đoạn tổng kết, trao giải cuộc thi

Đây là phần việc cuối cùng của Ban Tổ chức nhằm đánh giá toàn diện kết quả cuộc thi, rút kinh nghiệm về ph­ương pháp tổ chức và triển khai cuộc thi, từ đó phát huy kết quả cuộc thi trong công tác PBGDPL, đề ra phư­ơng hướng cho việc tổ chức các cuộc thi lần sau; đồng thời trao giải thư­ởng cho những người đạt giải.

Để tạo được ấn tượng sâu sắc đối với các thí sinh về cuộc thi, một trong những phần việc Ban Tổ chức cần lưu ý, đó là tổ chức Lễ tổng kết trao giải. Lễ tổng kết cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nội dung, hình thức và các điều kiện hỗ trợ cần thiết như hội trường, âm thanh, ánh sáng, lôgô cuộc thi, băng rôn, cổ động viên, người dẫn chương trình; khách mời tham gia lễ tổng kết và mời báo chí đến ghi hình, đưa tin... sao cho trang trọng, sôi nổi, hấp dẫn.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 10

Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả thông qua hoạt động văn hóa ở cơ sở

 

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) là cầu nối để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với người dân, góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật trong toàn xã hội, giữ vững an ninh chính trị, tự an toàn xã hội. Do đó, công tác PBGDPL cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, đổi mới về nội dung và hình thức tuyên truyền cùng sự nỗ lực, phối hợp thực hiện đồng bộ thống nhất của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở giữ vị trí hết sức quan trọng, có tác động trực tiếp tới tư tưởng, đạo đức, lối sống của người dân và cộng đồng dân cư. Thực hiện PBGDPL thông qua hoạt động văn hóa ở cơ sở là một hình thức PBGDPL hiệu quả, gần gũi, thân thiện, được người dân dễ dàng tiếp nhận một cách tự nhiên. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở cũng đồng nghĩa với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo dựng lối sống văn minh, lịch sự, phát triển con người toàn diện cả về nhân cách, đạo đức, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật.

I. KHÁI QUÁT CHUNG

Khái niệm

          Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.

          Văn hóa quần chúng là các hình thức sinh hoạt văn hóa phục vụ quần chúng và do đông đảo quần chúng tham gia.

          Hoạt động văn hóa ở cơ sở là các hình thức sinh hoạt văn hóa quần chúng phong phú và đa dạng nhằm nâng cao đời sống tinh thần, hướng con người vươn lên theo quy luật của cái đúng, cái đẹp, cái tốt, của chuẩn mực xã hội.

          Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động văn hóa ở cơ sở là một hình thức PBGDPL thông qua các thiết chế văn hóa ở cơ sở, lồng ghép đưa chủ chương, chính sách pháp luật vào các hoạt động văn hóa ở cơ sở, từ đó nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật cho người dân.

          Các hình thức tổ chức hoạt động văn hóa cơ bản bao gồm: 

          Khi tham gia, hướng dẫn công tác PBGDPL thông qua hoạt động văn hóa ở cơ sở, lực lượng quân đội nhân dân hướng dẫn các tổ chức, đoàn thể ở cơ sở thực hiện lồng ghép PBGDL vào các hoạt động văn hóa tại cộng đồng dân cư thông qua các hình thức sau:

- Phát triển văn hóa đọc; tổ chức hoạt động đọc, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật tại thư viện, phòng đọc.

          - Đưa vào một trong những nội dung họp tổ dân phố, họp thôn, bản.

          - Phát huy vai trò của các tổ chức tự quản trong cộng đồng dân cư.

          Tổ chức tuyên truyền, cổ động thông qua các hình thức: Bảng tin, áp phích, khẩu hiệu, các ấn phẩm; tranh cổ động.

          Lồng ghép trong các sự kiện lễ, hội, ngày truyền thống của tổ chức, đoàn thể, địa phương.

          - Đưa vào việc thực hiện các cuộc vận động, các phong trào xã hội.

          Tổ chức các hoạt động văn hóa khác phù hợp với pháp luật, truyền thống văn hóa, chuẩn mực đạo đức xã hội.

II. HƯỚNG DẪN KỸ NĂNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA Ở CƠ SỞ.

          1. Phát triển văn hóa đọc tại cộng đồng dân cư

          Bên cạnh sự phát triển của công nghệ thông tin, việc số hóa dữ liệu và cung cấp các thông tin (bao gồm cả thông tin pháp luật) trên các trang internet, mạng xã hội tương đối đầy đủ, thường xuyên và kịp thời. Việc duy trì và phát triển văn hóa đọc (đọc sách, báo, ấn phẩm in trên giấy) vẫn được cần được quan tâm nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đây là nét đẹp của đời sống xã hội nhằm giáo dục nhân cách, đạo đức con người.

          a) Xây dựng cơ sở vật chất phục vụ phát triển văn hóa đọc

          Để phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng dân cư, lực lượng quân đội nhân dân phối hợp với chính quyền địa phương, bố trí địa điểm phục vụ bà con đọc sách; hỗ trợ trang bị cơ sở vật chất (như phòng đọc, bàn, ghế, tủ sách, sách, ánh sáng, quạt điện…). Việc hỗ trợ có thể huy động lực lượng cán bộ, chiến sĩ trong quân đội; huy động nguồn tài trợ từ cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Cần tận dụng Tủ sách pháp luật ở cấp xã, Tủ sách. 

Địa điểm đặt tủ sách, phòng đọc có thể bố trí tại Nhà văn hóa thôn, bản, khu phố và nên giao cho các tổ chức, đoàn thể quản lý (như Đoàn thanh niên, Hội Nông dân, Hội Cựu Chiến binh, Hội phụ nữ…).

          b) Lựa chọn nội dung pháp luật đưa vào Tủ sách

          Ngoài việc cung cấp các loại sách, báo, tài liệu về đời sống xã hội, văn học nghệ thuật… cần cung cấp, trang bị cho Tủ sách, kệ sách, giá sách (gọi chung là Tủ sách) các sách, báo, tài liệu pháp luật. Những tài liệu này phải phù hợp với đặc điểm của người dân sinh sống trên địa bàn, phù hợp với chức năng nhiệm vụ của chính quyền cơ sở (Ví dụ: Cùng với việc cung cấp các quy định pháp luật chung như pháp luật về đất đai, hôn nhân và gia đình, dân sự… thì tùy vùng, miền, khu vực, cần cung cấp, trang bị những văn bản quy định trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của người dân tại địa bàn. Như cung cấp pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, các chế độ, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại các Tủ sách ở vùng núi; còn đối với ngư dân thì cần trang bị các loại tài liệu về chính sách của nhà nước đối với ngư dân, pháp luật về bảo vệ biên giới biển…).

          Lưu ý: Cần thường xuyên cung cấp, trang bị sách, tài liệu pháp luật mới cho Tủ sách

          c) Phương thức tổ chức

          Cán bộ, chiến sĩ quân đội được giao hướng dẫn địa phương phát triển văn hóa đọc, cần phối hợp với các tổ chức, đoàn thể tại địa phương. Có thể hướng dẫn các hội, đoàn thể, tổ chức trên địa bàn trao đổi, thống nhất mỗi tuần có 01 đơn vị tổ chức đọc sách chung cho 01 hội, đoàn thể mình. Việc tổ chức đọc sách được đẩy mạnh vào dịp “Ngày Sách và văn hóa đọc Việt Nam” (ngày 21/4 hàng năm).

2. Đưa vào một trong những nội dung họp tổ dân phố, họp thôn, bản

a) Chuẩn bị cho buổi họp thôn

Về địa điểm họp: Thông thường các địa phương đã bố trí sẵn địa điểm họp thôn, như: Nhà văn hóa của thôn, tổ dân phố, khu dân cư; hoặc đình làng… Tuy nhiên, căn cứ nội dung, tính chất của cuộc họp, Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố cũng có thể mời bà con nhân dân đến họp tại nhà của Trưởng thôn, tổ trưởng, già làng, trưởng bản nếu điều kiện về cơ sở vật chất đáp ứng.

Về thời điểm: Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố cần cân nhắc lựa chọn thời điểm phù hợp với điều kiện của thôn, tổ dân phố. Ví dụ: tránh thời điểm mưa bão; dịp mùa vụ (chỉ họp nhanh, ngắn gọn những nội dung cần thiết phải lấy ý kiến bà con vào dịp mùa vụ; nếu có tuyên truyền, phổ biến pháp luật khi phải họp dân trong dịp mùa vụ thì cũng chỉ lưu ý, nhắc nhở bà con về một lĩnh vực pháp luật thật ngắn gọn, không trình bày dài dòng).

Xây dựng chương trình họp: Để buổi họp dân đạt hiệu quả, Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố phải xây dựng chương trình họp chi tiết, phân công người thực hiện cụ thể. Riêng về nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần phối hợp với chính quyền xác định lĩnh vực cụ thể, người tiến hành (ví dụ tuyên truyền pháp luật về biên giới có thể mời bộ đội biên phòng; tuyên truyền pháp luật về hộ tịch có thể mời công chức tư pháp hộ tịch ở xã…)

b) Lựa chọn nội dung pháp luật đưa vào cuộc họp

Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, thực tiễn của từng thời điểm; trên cơ sở hướng dẫn nội dung sinh hoạt (họp) thôn, tổ dân phố hàng tháng của Ủy ban nhân dân cấp xã. Trưởng thôn, Tổ trưởng Tổ dân phố quyết định đưa nội dung pháp luật vào tuyên truyền, phổ biến cho bà con nhân dân là một trong các nội dung của buổi họp. Ví dụ: Tuyên truyền pháp luật về phòng, cháy chữa cháy khi mùa khô (mùa đông) đến; tuyên truyền pháp luật về an toàn giao thông, vệ sinh thực phẩm vào dịp cuối năm…

c) Phương thức thực hiện

Căn cứ vào chương trình họp đã chuẩn bị, đến nội dung tuyên truyền pháp luật, thì trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố mời người đã được phân công lên trình bày. Đối với những nội dung pháp luật khó, quan trọng, có thể mời báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh (nhờ Sở Tư pháp giới thiệu) hoặc báo cáo viên pháp luật cấp huyện (nhờ Phòng Tư pháp giới thiệu); mời tuyên truyền viên pháp luật trên địa bàn xã, phường, thị trấn. Đối với những nội dung pháp luật phổ thông, thường nhật thì có thể trực tiếp Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc mời già làng, trưởng bản thực hiện. Khi thực hiện tuyên truyền pháp luật, thì Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc già làng, trưởng bản phải nghiên cứu trước văn bản pháp luật, liên hệ với thực tiễn ở thôn, làng, bản mình hoặc tham khảo ý kiến của những người chuyên môn như công chức hộ tịch, công an, bộ đội biên phòng để bảo đảm bài trình bày đúng quy định pháp luật, được bà con đón nhận và áp dụng vào cuộc sống.

3. Phát huy vai trò của các tổ chức tự quản trong cộng đồng dân cư.

a) Vai trò của tổ chức tự quản đối với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

Tổ chức tự quản của Nhân dân ở cộng đồng dân cư, tổ dân phố là tổ chức quần chúng hoạt động trên cơ sở tự nguyện, tự chịu trách nhiệm, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định thành lập nhằm phát huy vai trò tích cực của quần chúng Nhân dân trong phòng, tự quản, tự bảo vệ về an ninh, trật tự, tham gia phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, quản lý, giáo dục các thành viên gia đình; giáo dục, giúp đỡ người mãn hạn tù hoàn lương; bảo vệ an ninh Tổ quốc…

Tổ chức tự quản chính là hình thức phát huy quyền làm chủ của Nhân dân tham gia quản lý xã hội. Từ đó phát huy tinh thần đoàn kết, gắn bó Nhân dân trong cộng đồng dân cư, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Có thể thấy, thông qua mô hình/tổ chức tự quản của Nhân dân tại cộng đồng dân cư đã góp phần nâng cao ý thức Nhân dân ở khu dân cư, tổ dân phố, thôn, làng, ấp, bản; người dân nắm được quy định pháp luật hướng dẫn cộng đồng cùng thực hiện và kịp thời phát hiện hành vi vi phạm để ngăn chặn hoặc thông báo cho cơ quan, người có thẩm quyền xử lý; từ đó xây dựng cộng đồng dân cư văn hóa, văn ninh, chấp hành pháp luật, vì lợi ích của cộng đồng và mọi công dân.

b) Yêu cầu xây dựng mô hình/tổ chức tự quản của Nhân dân

Việc xây dựng mô hình/tổ chức tự quản của Nhân dân phù hợp với nguyện vọng của Nhân dân và phải bảo đảm có sự quản lý của Nhà nước. Cụ thể như sau:

- Xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân;

- Mục tiêu hoạt động vì lợi ích cộng đồng dân cư;

- Được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định thành lập.

c) Phương thức thực hiện

Cùng với lực lượng công an, cán bộ của Mặt trận Tổ quốc, cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân là lực lượng gần dân, sát dân, nắm được nhu cầu đời sống của Nhân dân cần chủ động phối hợp với các tổ chức đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn thôn, bản, tổ dân phố nghiên cứu, đề xuất xây dựng mô hình/tổ chức tự quản trong cộng đồng dân cư và đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định thành lập (như mô hình Câu lạc bộ phụ nữ phòng, chống ma túy”; “Tuần tra nhân dân”; “Tuyến đường Hội Phụ nữ thôn/Phường … tự quản”.

Các mô hình/tổ chức tự quản trong cộng đồng dân cư cần tổ chức họp hàng tuần, tháng, nội dung quan tâm như: Phổ biến chủ trương chính sách mới và những công việc của cộng đồng dân dự về bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh trật tự, an tòan xã hội; tự chủ, tự quản trong việc quản lý, giáo dục các thành viên trong gia đình; thực hiện các cuộc vận động do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phát động. Theo đó, cần phân công người đứng ra chủ trì cuộc họp chuẩn bị nội dung pháp luật cần phổ biến, tuyên truyền. Ngoài việc tuyên truyền cho thành viên của tổ chức mình, Tổ chức tự quản trong cộng đồng dân cư cần có biện pháp tuyên truyền, phổ biến cho thành viên trong gia đình và ngoài cộng đồng. Ví dụ yêu cầu mọi người chấp hành luật an toàn giao thông để bảo đảm an ninh giao thông trên tuyến phố.

4. Tổ chức tuyên truyền, cổ động thông qua các hình thức: Bảng tin, áp phích, khẩu hiệu, các ấn phẩm; tranh cổ động

Một trong những hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật sinh động tại cơ sở là dán, treo, mắc thông tin, khẩu hiệu pháp luật tại nơi công cộng.

a) Yêu cầu đối với thông tin, khẩu hiệu

+ Nội dung đơn giản, ngắn gọn, cô đọng, đủ ý.

+ Hình thức: Sinh động, bắt mắt

b) Địa điểm dán, treo, mắc áp phích, khẩu hiệu, tranh cổ động: Tại nơi đông dân cư qua lại hoặc hay tổ chức hội họp (như: Nhà văn hóa thôn, tổ dân phố, trụ sở Ủy ban nhân dân, Cổng trường học, ngã ba, ngã tư đường…).

c) Phương thức thực hiện:

+ Phân công cụ thể đơn vị chịu trách nhiệm xây dựng áp phích, khẩu hiệu, tranh cổ động. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đoàn thể, phân công mỗi đơn vị chịu trách nhiệm xây dựng, dán, treo mắc áp phích, khẩu hiệu, tranh cổ động về pháp luật. Ví dụ: Hội Nông dân chịu trách nhiệm tuyên truyền, xây dựng, dán, treo mắc áp phích, khẩu hiệu, tranh cổ động về an toàn vệ sinh thực phẩm trong chăn nuôi, trồng trọt; Hội phụ nữ chịu trách về lĩnh vực bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, bảo vệ trẻ em, hôn nhân và gia đình…).

+ Xác định chủ đề pháp luật phổ biến cho mỗi dịp, ngày kỷ niệm, ngày lễ, như ngày Giờ Trái đất - tuyên truyền pháp luật về bảo vệ môi trường; Ngày “Toàn dân phòng chống ma túy 26/6” – tuyên truyền pháp luật về phòng, chống ma túy; “ngày vì người nghèo 17/10”  – phổ biến các chủ trương, chính sách cho vay vốn, hỗ trợ lãi suất, hỗ trợ học nghề; Ngày “Quốc tế chống tham nhũng 09/12” – phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng; Ngày Quốc tế Phụ nữ 08/3, Ngày Quốc tế thiếu nhi 01/6 – phổ biến pháp luật về bình đẳng giới, về bảo vệ quyền trẻ em…

+ Nguồn kinh phí thực hiện: Có thể đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã hỗ trợ hoặc huy động nguồn tài trợ của các doanh nghiệp, tổ chức.

5. Lồng ghép trong các sự kiện lễ, hội, ngày truyền thống của tổ chức, đoàn thể, địa phương.

Ở nước ta, văn hóa tín ngưỡng của người dân luôn được Đảng và Nhà nước tôn trọng, thừa nhận và tạo điều kiện phát triển. Việc theo tôn giáo, thờ cúng thần thánh, thờ cúng ông, bà, tổ tiên không chỉ là quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân mà còn là một nét đẹp truyền thống văn hóa của dân tộc, được người dân lưu truyền qua nhiều thế hệ và được Nhà nước tạo điều kiện duy trì, phát triển nhằm giáo dục nhân cách đạo đức con người, với giá trị “uống nước nhớ nguồn”. Theo thống kê, cả nước có gần 9.000 lễ hội, trong đó có khoảng 7.000 lễ hội dân gian truyền thống, gần 1.400 lễ hội tôn giáo, hơn 400 lễ hội lịch sử, cách mạng…[2]. Các lễ, hội luôn nhận được sự tham gia đông đảo của người dân đến từ mọi thành phần trong xã hội (trí thức, doanh nhân, công nhân, nông dân,…) không phân biệt độ tuổi, giới tính, dân tộc… Do đó mỗi lễ hội là dịp để tuyên truyền, đưa pháp luật đến với người dân một cách gần gũi, thiết thực.

          a) Các hình thức tuyên truyền pháp luật trong các sự kiện lễ, hội tại địa phương

- Dán, treo, mắc băng rôn, khẩu hiệu, pano, áp phích tại khu vực tổ chức Lễ hội.

- Bố trí chuyên gia pháp luật (luật gia, luật sư, người am hiểu kiến thức pháp luật…) thực hiện tư vấn pháp luật miễn phí.

- Thực hiện trợ giúp pháp luật.

- Phát tài liệu pháp luật, tờ gấp, tài liệu giới thiệu quy định pháp luật.

- Trò chơi có thưởng về tìm hiểu pháp luật hoặc lồng ghép 01 câu hỏi pháp luật trong các trò chơi dân gian.

- Hình thức khác phù hợp với đặc điểm của địa phương, vùng, miền.

b) Yêu cầu hoạt động lồng ghép phổ biến pháp luật trong các sự kiện lễ, hội tại địa phương

- Nội dung pháp luật dự kiến tuyên tuyền, phổ biến tại lễ hội phải mang tính thời sự (vấn đề đang được dư luận xã hội quan tâm, hoặc vấn đề nổi cộm tại địa phương).

- Hình thức thể hiện: Đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu

c) Phương thức thực hiện

- Công chức tư pháp hộ tịch (hoặc cán bộ, chiến sĩ quân đội phối hợp với công chức tư pháp hộ tịch) phối hợp với công chức văn hóa đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cho phép thực hiện hoạt động phổ biến pháp luật trong dịp lễ hội tại địa phương.

- Phối hợp với Ban Tổ chức lễ hội xây dựng chương trình, kịch bản đưa pháp luật vào phổ biến, tuyên truyền tại Lễ hội.

- Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện theo kịch bản đã được phê duyệt.

- Thực hiện việc lồng ghép nội dung pháp luật trong lễ hội theo kịch bản.

          6. Đưa vào việc thực hiện các cuộc vận động, các phong trào xã hội.

          Hiện nay, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì thực hiện nhiều cuộc vận động, phong trào, như: Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau”; “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”… Các cuộc vận động, phong trào này luôn nhận được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân, do đó đây là dịp để tuyên truyền, phổ biến pháp luật một cách hiệu quả.

a) Nội dung và hình thức tuyên truyền pháp luật trong các cuộc vận động, các phong trào

- Nội dung

Để đưa nội dung pháp luật cần phổ biến vào trong các cuộc vận động, các phong trào cần phù hợp với mục tiêu, chủ đề của cuộc vận động, phong trào. Ví dụ với Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thì tuyên truyền pháp luật về cán bộ, công chức, công vụ; về phòng, chống tham nhũng… Phong trào “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thì tuyên truyền pháp luật về an toàn thực phẩm, chống hàng giả, hàng nhái…

- Hình thức                      

Lồng ghép trong quá trình triển khai cuộc vận động. Ví dụ: Đưa nội dung pháp luật vào bàn luận trong phóng sự khi thực hiện truyền thanh tại cơ sở về cuộc vận động, phong trào; đưa vào trong tờ gấp tuyên truyền cuộc vận động, phong trào…

b) Phương thức thực hiện

- Bộ phận pháp luật của Mặt trận Tổ quốc ở xã chủ động đưa nội dung pháp luật vào tuyên truyền, phổ biến trong quá trình thực hiện cuộc vận động, phong trào.

- Công chức tư pháp hộ tịch tham mưu,đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở xã, phường, thị trấn để lồng ghép phổ biến nội dung pháp luật trong các cuộc vận động, các phong trào.

+ Tham mưu xây dựng, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã và Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc ở xã ký Chương trình phối hợp hoặc Kế hoạch phối hợp lồng ghép phổ biến pháp luật trong các cuộc vận động, các phong trào.

+ Xây dựng Kế hoạch triển khai và tổ chức triển khai theo kế hoạch.

Ngoài ra, có nhiều hình thức kết hợp, lồng ghép phổ biến pháp luật thông qua các hoạt động văn hóa ở cơ sở, như: phổ biến trên hệ thống loa truyền thanh cơ sở; lồng ghép trong các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, nhân đạo, tình nguyện; trong sinh hoạt của các đội văn nghệ quần chúng, câu lạc bộ thể thao (cầu lông, bóng bàn …). Tùy đặc điểm thực tế của địa phương, công chức văn hóa, chiến sĩ quân đội nhân dân và công chức tư pháp hộ tịch tham mưu lãnh đạo lồng ghép các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật thông qua các hoạt động văn hóa ở cơ sở. Thực hiện tốt mô hình này, nhận thức pháp luật của bà con nhân dân sẽ được nâng lên rõ nét, từ đó góp phần xây dựng tình đoàn kết, gắn bó, đồng lòng trong cộng đồng dân cư, nâng cao ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA Ở CƠ SỞ

1. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện

Việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Dưới tác động của quá trình hội nhập quốc tế, đô thị hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xã hội Việt Nam đã có những bước chuyển, thay đổi về một phần về lối sống, quan điểm (có cả tích cực và tiêu cực). Do đó, cần bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo sự chuyển biến trong nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; tôn vinh cái đúng, cái đẹp, tích cực, nhân rộng các giá trị đạo đức cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, lạc hậu; hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực làm tha hóa con người.

2. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh

Mỗi địa phương, cộng đồng phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, là cơ sở để xây dựng gia đình văn hóa, cộng đồng văn minh, đoàn kết.

          Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau. Xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt chuẩn thực chất về văn hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa".

          Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phù hợp, tiến kịp sự phát triển của xã hội. Để xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tiến bộ, là nền tảng tinh thần của xã hội, nhất thiết phải có hệ thống pháp luật hướng tới việc bảo vệ các giá trị, đạo đức, lối sống, nếp sống văn hóa tốt đẹp, bảo vệ, tôn trọng quyền làm chủ của người khác, của cộng đồng. Thông qua vai trò quản lý nhà nước, xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, dùng luật pháp để điều chỉnh hành vi con người cho phù hợp, nhằm dần trở thành ý thức tự giác của mỗi người, hướng tới thực hiện chuẩn mực về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống văn hóa.

          3. Duy trì, củng cố và phát triển các thiết chế văn hóa ở cơ sở

          Trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách lớn tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XIII của Đảng, công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là một trong những nhiệm vụ cấp thiết để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, phục vụ tích cực cho việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân thường thông qua các mô hình, thiết chế văn hóa ở cơ sở, do đó, việc duy trì, củng cố và phát triển các mô hình, thiết chế này là cần thiết. Cần phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong việc xây dựng đời sống văn hóa nhằm tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh, giữ gìn, bảo tổn bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc; là yếu tố căn cốt hình thành ý thức trách nhiệm và sự tự giác của người dân trong chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

          Việc củng cố và phát triển, tăng cường các thiết chế văn hóa ở cơ sở (Nhà văn hóa, đội văn nghệ quần chúng, câu lạc bộ thể thao, các phong trào cổ động, các lễ hội truyền thống,...) cần được các cấp ủy, chính quyền quan tâm, thực hiện, góp phần xây dựng tư tướng chính trị trong quần chúng nhân dân, xây dựng nếp sống văn minh, kỷ cương xã hội, xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa./.

 

 

 

 

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 11

Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật qua hệ thống truyền thanh nội bộ trong các đơn vị quân đội

 

Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin những năm gần đây, nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật số 4.0 được đẩy mạnh tại Việt Nam, nhiều loại hình thông tin phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là sự phát triển của hệ thống thông tin trên Internet; hệ thống này có nhiều lợi thế để thay thế các phương thức truyền thông truyền thống tại Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế một số hình thức truyền thống như truyền thông trên hệ thống truyền thanh ở cơ sở vẫn được duy trì và giữ vai trò quan trọng. Hiện nay trong bối cảnh đất nước cùng chung tay phòng, chống dịch Covid-19 việc duy trì truyền thanh nội bộ có vai trò quan trọng trong giáo dục chính trị, tư tưởng, tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho cán bộ, chiến sỹ góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.

Hệ thống truyền thanh nội bộ trong quân đội là cánh tay nối dài của hệ thống đài phát thanh từ trung ương đến cơ sở, nhằm kịp thời đưa thông tin đến các chiến sỹ, nhất là các thông tin pháp luật; từ đó đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin pháp luật của các chiến sỹ trong quân đội. 

1.     Khái quát về hệ thống truyền thanh ở cơ sở

Ở Việt Nam, loa truyền thanh công cộng, còn gọi là loa phát thanh công cộng, truyền thanh cơ sở, hay loa phát thanh phường, xã là hệ thống phát thanh cấp phường, xã tại Việt Nam, bao gồm một loa hay nhiều loa được lắp đặt ở các vị trí thích hợp nhằm mục đích truyền tin tới người dân.

Hệ thống truyền thanh cơ sở của Việt Nam ra đời vào khoảng năm 1945, khi chính quyền Việt Nam Dân chủ cộng hoà muốn đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền tới dân chúng. Tuy nhiên, do chiến tranh, việc phát triển hệ thống phát thanh gặp nhiều khó khăn, phải đến năm 1954, sau ngày giải phóng Thủ đô, khi Đài Tiếng nói Việt Nam được phát thanh trở lại thì hệ thống loa truyền thanh cơ sở được phát triển mạnh. Những năm đó, cả miền Bắc sôi động với những phong trào xây dựng đời sống mới, loa truyền thanh được mắc khắp các khối phố nội thành và các làng xã ngoại thành. Cho tới những năm 1960, người dân miền Bắc chủ yếu nghe loa truyền thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam, tiền thân của loa truyền thanh cơ sở ngày nay. Loa được phát thanh theo giờ cố định, thông tin cho người dân thông tin chính sách của Đảng, nhà nước, thông tin về cuộc kháng chiến chống Mỹ, mùa vụ, đời sống xã hội …Sau năm 1975, loa truyền thanh ngày càng phổ biến, đặc biệt, hệ thống loa phóng thanh đã phổ biến khắp đất nước, loa phát thanh được sử dụng rộng rãi ở các ngôi làng nông thôn và các thị trấn, nơi 70% người dân Việt Nam sinh sống. Ngày nay, hệ thống loa phát thanh đã được lắp đặt tại 100% các xã, phường, thị trấn tại Việt Nam và có tên gọi mới là Đài truyền thanh cấp xã. Từ các xã, mạng lưới loa truyền thanh cơ sở được mở rộng ra đến các thôn, xóm, bản, buôn, sóc…

Với chức năng chính là tuyên truyền thông tin đến người dân, hệ thống phát thanh ở cơ sở đã có nhiều bước phát triển để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội đất nước, trở thành một phương thức thông tin liên lạc hữu hiệu, hiệu quả. Chính vì những ưu điểm của phương thức thông tin này, từ lâu, đây đã trở thành một hình thức PBGDPL đến người dân được các địa phương trên cả nước ứng dụng rộng rãi.

Trong quân đội nhân dân Việt Nam, hệ thống loa truyền thanh nội bộ, những năm qua đã được lãnh đạo các cấp quan tâm đầu tư trang bị cơ sở vật chất hiện đại, đồng thời chú trọng đổi mới nội dung, cách thức thể hiện nên chương trình truyền thanh nội bộ ở các đơn vị ngày càng thu hút được người nghe, nhất là sĩ quan và chiến sĩ trẻ.

2. Khái quát về hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật qua mạng lưới truyền thanh ở cơ sở trong quân đội

Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) qua mạng lưới truyền thanh ở cơ sở trong quân đội là một hình thức PBGDPL truyền thống, được triển khai thực hiện từ rất sớm bên cạnh các hình thức PBGDPL khác như hội nghị, tập huấn, báo chí …Cũng là một hình thức PBGDPL qua truyển thông, nhưng phạm vi, đối tượng hướng đến của mạng lưới truyền thanh nội bộ trong quân đội lại khá hẹp, thường là một đơn vị bộ đội (một trung đội, một đại đội hoặc 1 tiểu đoàn….). Mặc dù phạm vi hẹp nhưng hệ thống loa truyền thanh nội bộ vẫn có rất nhiều ưu điểm trong việc PBGDPL cho các sỹ quan và các chiến sỹ:

- Có khả năng tuyên truyền nhanh, kịp thời, khi có một chính sách, văn bản pháp luật mới được ban hành, hệ thống truyền thanh nội bộ có thể tổ chức phát thanh trong thời gian ngắn (So với các phương tiện truyền thông khác phải qua rất nhiều khâu trung gian mới có thể phát sóng).

- Gần gũi, dễ tiếp cận với các sỹ quan và các chiến sỹ: Nội dung pháp luật được phát thanh trên hệ thống truyền thanh nội bộ trong quân đội thường là các nội dung pháp luật liên quan mật thiết, thiết thực đến đời sống hàng ngày của các sỹ quan và các chiến sỹ; phản ánh trung thực những sự việc, những con người có thật trong thực tiễn thi hành pháp luật tại đơn vị bộ đội;  kịp thời giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của các sỹ quan và các chiến sỹ về chính sách, pháp luật …Nhiều chương trình phát thanh do cán bộ, chiến sỹ thực hiện, có thể được thực hiện bằng tiếng địa phương, bằng ngôn ngữ dễ hiểu, dễ nhớ giúp các chiến sỹ dễ dàng tiếp nhận và ghi nhớ các thông tin pháp luật.

- Chủ động về thời gian: Việc mở loa phát thanh tại các đơn vị thường là vào 2 buổi sáng và chiều trong ngày. Tuy nhiên, hệ thống truyền thanh nội bộ có thể lựa chọn thời gian phát thanh một cách phù hợp với thực tế thời gian sinh hoạt, lao động sản xuất của các chiến sỹ để buổi phát thanh hiệu quả; việc chọn thời gian phát thanh phù hợp làm tăng đáng kể số lượng người nghe.

- Chủ động trong việc lựa chọn nội dung: Các tổ truyền thanh tại các đơn vị quân đội có thể chủ động lựa chọn nội dung cho các buổi phát thanh phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đơn vị và mong muốn tìm hiểu pháp luật của các sỹ quan và chiến sỹ.

- Có khả năng tác động tới nhiều đối tượng tại một địa điểm trong cùng một thời gian và có thể thực hiện phát thanh được nhiều lần: Phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) qua hệ thống truyền thanh nội bộ có số lượng người nghe khá đông đảo, phạm vi có thể là một trung đội, một đại đội hoặc một tiểu đoàn. Thậm chí, hệ thống truyền thanh trong quân đội còn có thể tuyên truyền thông tin nhanh chóng đến các đơn vị đóng quân trên đảo xa, các cán bộ, chiến sỹ làm việc trên tàu, biển, từ đó chương trình phát thanh nội bộ đã kịp thời cung cấp cho cán bộ, chiến sĩ nhiều thông tin hữu ích, có sức lan tỏa, tác động mạnh mẽ đến đời sống, tâm tư, tình cảm và ý thức trách nhiệm của quân nhân.

- Tiết kiệm được thời gian, nguồn lực triển khai và kinh phí vì không phải tập trung các sỹ quan, chiến sỹ tại một điểm để tổ chức Hội nghị phổ biến pháp luật.

 3. Cách thức tổ chức, thực hiện PBGDPL trên hệ thống loa truyền thanh nội bộ

Hiện nay, Trung tâm Phát thanh - Truyền hình Quân đội là đơn vị trực thuộc Tổng cục Chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam và hệ thống truyền thanh nội bộ trong quân đội do Phòng chính trị tại các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý, khai thác máy móc thiết bị, duy trì hoạt động để thực hiện phát thanh phục vụ nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền của đơn vị.

Khi thực hiện PBGDPL cho chiến sỹ qua hệ thống truyền thanh nội bộ tại đơn vị, cán bộ chiến sỹ được giao nhiệm vụ xây dựng các bản tin, thông tin phát thanh cần có sự phối hợp chặt chẽ với cán bộ, chiến sỹ làm công tác chính trị, tuyên giáo. Để công tác này được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, thường xuyên, liên tục cần xây dựng kế hoạch PBGDPL trên Hệ thống truyền thanh nội bộ ngay từ đầu năm, trong đó phân công cán bộ chủ trì, phối hợp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:

a) Cán bộ, chiến sỹ được giao làm công tác phát thanh có những trách nhiệm chính như sau:   

- Tham mưu, đề xuất lãnh đạo đơn vị trong công tác tổ chức PBGDPL trên Hệ thống truyền thanh nội bộ. Chủ trì, phối hợp với các phòng, ban trong đơn vị tổ chức PBGDPLqua hệ thống truyền thanh nội bộ.

- Xây dựng nội dung PBGDPL của chương trình phát thanh.

- Giúp đơn vị xây dựng đội ngũ cộng tác viên ở các phòng, ban trong đơn vị tham gia viết tin, bài cho chương trình phát thanh để PBGDPL.

b) Cán bộ phụ trách công tác tuyên giáo hoặc chính trị có những trách nhiệm sau:

- Bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật cho công tác phát thanh (lắp đặt mạng lưới truyền thanh trong nội bộ đơn vị);

- Đề xuất, tham mưu việc xây dựng đội ngũ cộng tác viên;

- Xây dựng kế hoạch PBGDPL trên hệ thống truyền thanh nội bộ;

- Tổ chức thực hiện chương trình phát thanh về PBGDPL;

- Bảo đảm kinh phí thực hiện chương trình phát thanh (kinh phí viết tin, bài, biên tập, phát thanh…).

- Tổ chức giao ban định kỳ, các cuộc họp cộng tác viên để trao đổi, rút kinh nghiệm trong công tác PBGDPL qua hệ thống phát thanh nội bộ;

- Tổ chức sơ kết, tổng kết, khen thưởng, biểu dương các cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác PBGDPL qua hệ thống truyền thanh nội bộ.

c) Xây dựng Kế hoạch PBGDPL trên hệ thống truyền thanh nội bộ tại đơn vị:

Cán bộ, chiến sỹ được giao làm công tác phát thanh cán bộ phụ trách công tác tuyên giáo hoặc chính trị phối hợp với nhau trong việc xây dựng Kế hoạch PBGDPL trên Hệ thống truyền thanh nội bộ của đơn vị. Tuỳ đặc điểm tình hình, điều kiện của đơn vị để lựa chọn việc xây dựng Kế hoạch định kỳ (năm, quý, tháng, tuần) hoặc đột xuất phục vụ sự kiện chính trị pháp lý của đơn vị bộ đội để trình lãnh đạo đơn vị quyết định.

Kế hoạch PBGDPL trên Hệ thống truyền thanh nội bộ cần có những nội dung chủ yếu sau:

- Lựa chọn nội dung cần PBGDPL:

+ Nên lựa chọn những nội dung pháp luật gần gũi, thiết thực với các sỹ quan và chiến sỹ để tổ chức phát thanh PBGDPL: Giới thiệu đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương, chú trọng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp nhiệm vụ và đời sống của chiến sỹ như: Luật Quốc phòng; Luật Nghĩa vụ quân sự; Luật Biên giới quốc gia; Luật Biển Việt Nam; Luật Dân quân tự vệ; Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ;Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh;Luật Cảnh sát biển Việt Nam;Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; Bộ luật Lao động; Luật Hôn nhân và gia đình; Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự; Luật Tiếp cận thông tin; Luật An toàn giao thông đường bộ; Luật An ninh mạng; Luật Phòng, chống ma tuý …những vấn đề được cán bộ, chiến sỹ quan tâm (Ví dụ: chế độ, chính sách đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng, chế độ về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội với quân nhân.....), nội dung những văn bản mới được ban hành, những quy định liên quan thiết thực tới các sỹ quan và chiến sỹ.

+ Phản ánh thực tiễn thi hành, chấp hành pháp luật ở đơn vị quân đội, nêu gương người tốt, việc tốt trong thực hiện, chấp hành pháp luật, đồng thời phê phán những cán bộ, chiến sỹ vi phạm pháp luật trên tại đơn vị.

+ Xây dựng chuyên mục giải đáp pháp luật: Giải đáp những thắc mắc, băn khoăn, những kiến nghị của cán bộ, chiến sỹ liên quan đến những quy định pháp luật, đến tình hình thực thi và chấp hành pháp luật…

- Lựa chọnhình thức thể hiện phù hợp: Để truyền tải nội dung của chương trình phát thanh cần xác định hình thức thể hiện phù hợp, sinh động, có thể lựa chọn một trong các hình thức như: Tin, bài, hỏi-đáp pháp luật, tiểu phẩm pháp luật, thơ ca, hò vè, hát, câu chuyện truyền thanh về pháp luật…Biên soạn các tài liệu PBGDPL ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, có thể bằng tiếng địa phương để cán bộ, chiến sỹ dễ tiếp thu.

- Lựa chọn thời lượng phát thanh:Thời lượng phát thanh tuyên truyền về pháp luật được xác định phù hợp với đặc điểm về điều kiện của từng đơn vị bảo đảm dung lượng vừa phải với nhu cầu tiếp nhận của chiến sỹ, đồng thời bảo đảm hài hòa với các chương trình phát thanh về văn hóa, kinh tế, xã hội, … Qua thực tiễn cho thấy loại hình này có hiệu quả cao đối với đơn vị đóng quân ở địa bàn nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa – nơi mà điều kiện thông tin còn nhiều hạn chế. Vì vậy, đối với những địa bàn này, cần tăng thời lượng phát thanh trên mạng lưới truyền thanh cơ sở trong đó có phát thanh PBGDPL.

- Thời gian phát thanh: Thực hiện theo quy định của đơn vị, cần lựa chọn, bố trí phù hợp với giờ giấc sinh hoạt, tập luyện, sản xuất của các cán bộ, chiến sỹ, nhằm thu hút đông đảo người nghe, phát huy cao nhất hiệu quả tác động của chương trình.

Ví dụ: Lựa chọn thời điểm phát thanh vào thời điểm trước khi cán bộ, chiến sỹ học tập, tập luyện, hoặc buổi trưa khi các cán bộ, chiến sỹ nghỉ ngơi, hoặc chiều tối khi các chiến sỹ đã hết giờ tập luyện. Thời gian phát thanh cần phải bố trí vào buổi sáng sớm (khoảng từ 5h30 đến 6h30) hoặc buổi chiều tối (từ 17h30 đến 18h30); hoặc có thể lựa chọn vào buổi trưa (từ 11h00-12h00).

- Cách thức phát thanh: Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của đơn vị và địa phương mà xác định cách thức phát thanh phù hợp, hoặc phát thanh qua hệ thống loa cố định hoặc tổ chức phát thanh lưu động.

Ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa do gặp khó khăn về địa hình, kinh phí… chưa xây dựng được mạng lưới truyền thanh cố định thì nên trang bị những phương tiện cơ động, ít tốn kém để tổ chức phát thanh lưu động. (Một số đơn vị bộ đội đóng quân tại các miền núi, vùng sâu, vùng xa có trách nhiệm tuyên truyền, PBGDPL cho bà con địa phương nên tổ chức phát thanh lưu động).

Ví dụ: Thực tiễn áp dụng ở một số địa phương vùng sâu, vùng xa, nhiều cán bộ, chiến sỹ có trách nhiệm phát thanh đã lắp đặt loa truyền thanh trên xe đạp, xe máy đi đến các vùng thôn, bản xa xôi để thực hiện phát thanh PBGDPL. Hoặc ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, nhiều cán bộ, chiến sỹ đã lắp đặt loa truyền thanh trên xuồng, cano để đi tuyên truyền PBGDPL đến người dân các khóm, ấp...

- Phân công tổ chức thực hiện kế hoạch phát thanh:

+ Cán bộ thông tin chịu trách nhiệm thực hiện chương trình, phụ trách về kỹ thuật phát thanh.

+ Cán bộ phụ trách phát thanh chịu trách nhiệm về nội dung pháp lý của chương trình phát thanh, cung cấp tài liệu, văn bản để chuẩn bị nội dung chương trình.

+ Phát thanh viên: Bảo đảm các yêu cầu như không nói ngọng, không nói lắp, giọng đọc rõ ràng, truyền cảm. Đây cũng là cách thức thu hút sự quan tâm của người nghe đối với tin tức pháp luật vốn khô khan.

d) Chuẩn bị các điều kiện để thực hiện chương trình phát thanh:

Bao gồm các công việc sau: (i) Biên soạn tin, bài, chuyên đề…cho chương trình; (ii) Biên tập nội dung chương trình; (iii) Chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật phát thanh; (iv) Duyệt chương trình trước khi phát thanh chính thức.

Nội dung phát thanh được soạn thảo trên máy vi tính, bảo đảm câu chữ rõ ràng, dễ tiếp thu và trước khi phát sóng đều được lãnh đạo đơn vị xem xét, biên tập, thẩm định kỹ lưỡng.

Để các tin, bài truyền thanh về PBGDPL dễ thu hút các cán bộ, chiến sỹ, khi xây dựng tin, bài, các cán bộ, chiến sỹ nên đưa ra những tình huống pháp luật thường gặp, ví dụ thực tiễn về nội dung pháp luật liên quan, sau đó dẫn chiếu quy định của pháp luật về trường hợp này, đưa ra cách giải quyết trực tiếp để cán bộ, chiến sỹ dễ hình dung, áp dụng trong thực tiễn.

Lưu ý: Trong quá trình chuẩn bị nội dung cho chương trình phát thanh PBGDPL qua mạng lưới truyền thanh nội bộ, cán bộ phụ trách công tác phát hành và các cộng tác viên có thể khai thác tài liệu pháp luật từ các nguồn sau: Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, Cổng Thông tin điện tử chính thống của các cơ quan nhà nước, Tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn; Điểm bưu điện văn hóa xã; Tủ sách, ngăn sách pháp luật của các cơ quan, tổ chức, trường học đóng trên địa bàn xã, phường, thị trấn; những tài liệu pháp luật như đề cương tuyên truyền, sách hỏi – đáp pháp luật, tờ gấp pháp luật, câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật, tình huống pháp luật… do các cơ quan tư pháp cung cấp.

Để bảo đảm tính chính xác, khách quan của thông tin PBGDPL, cần trích dẫn nguồn tài liệu (nếu có).

e) Tổ chức thực hiện chương trình phát thanh:

Chương trình phát thanh tuyên truyền pháp luật khi được thực hiện cần đảm bảo các yêu cầu sau:

- Nội dung pháp luật thiết thực, đáp ứng nhu cầu của cán bộ, sỹ quan, chiến sỹ, được biên soạn ngắn gọn, xúc tích, dễ nhớ, dễ hiểu.

- Cách thể hiện phong phú, hấp dẫn với nhiều thể loại khác nhau (tin, bài, câu chuyện, tiểu phẩm…); giọng đọc của phát thanh viên rõ ràng, truyền cảm.

- Chất lượng âm thanh tốt, âm lượng vừa đủ.

- Bố trí thời gian, thời lượng phát sóng chương trình phù hợp.

4. Giải pháp, định hướng thực hiện PBGDPL qua hệ thống truyền thanh nội bộ trong thời gian tới

4.1. Lắp đặt đồng bộ hệ thống loa truyền thanh không dây: Trước đây, hệ thống phát thanh ở cơ sở hiệu quả, nhưng vẫn có nhược điểm về cơ sở vật chất do công tác lắp đặt khó khăn, nhất là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa vì phải lắp đặt đường dây truyền tải cồng kềnh. Điều này sẽ tăng chi phí lắp đặt, gây khó khăn trong việc bảo trì, sửa chữa kịp thời nếu có trục trặc hay hệ thống loa phát thanh bị hỏng. 

Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và mạng lưới công nghệ thông tin, hệ thống loa truyền thanh không dây đã dần thay thế hệ thống loa truyền thanh truyền thống. Hệ thống loa truyền thanh thông minh đang là giải pháp đột phá về chuyển đổi số của hệ thống truyền thanh nội bộ. Loa truyền thanh thông minh ứng dụng công nghệ thông tin, viễn thông thế hệ mới sẽ thay thế, khắc phục những nhược điểm của truyền thanh hữu tuyến (có dây) và truyền thanh vô tuyến (không dây) FM. Với những ưu thế vượt trội, việc lắp đặt loa truyền thanh thông minh sẽ giải quyết triệt để những hạn chế của loa truyền thanh truyền thống. Từ đó, tiết kiệm chi phí và nguồn nhân lực cho hệ thống truyền thanh nội bộ; phát huy hiệu quả tốt hơn trong việc truyền tải tin tức, thông tin tuyên truyền đến cán bộ, chiến sỹ, góp phần làm tốt công tác thông tin tuyên truyền tại đơn vị.Trong thời gian tới, để phát huy và nâng cao chất lượng, hiệu quả hình thức PBGDPL qua hệ thống phát thanh ở các đơn vị quân đội, cần đẩy mạnh phát triển mạng lưới thông tin cơ sở hiện đại, đồng bộ, bảo đảm kết nối với trung ương, thống nhất từ trung ương đến các địa phương. Như vậy, việc thực hiện PBGDPL qua hệ thống loa truyền thanh ở các đơn vị trong quân đội đã góp phần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác PBGDPL.

Việc lắp đặt, bố trí các cụm loa cần đồng đều tại các đơn vị, mỗi đơn vị trung bình có 1 cụm loa trở lên; cần được bố trí linh hoạt, hiệu quả, đảm bảo các cụm loa hoạt động hiệu quả mà không gây ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của người dân xung quanh.

4.2. Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, chiến sỹ thực hiện phát thanh, xây dựng các chương trình phát thanh:

Cùng với việc đầu tư cơ sở vật chất cho hệ thống truyền thanh nội bộ tại các đơn vị, cần đề xuất lãnh đạo đơn vị định kỳ tổ chức tập huấn, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, chiến sỹ thực hiện công tác phát thanh, những người trực tiếp sản xuất, tiếp sóng các chương trình truyền thanh; các đơn vị bộ đội cần tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn các kỹ năng PBGDPL trong đó có kỹ năng PBGDPL qua hệ thống truyền thanh nội bộ ở đơn vị cho chiến sỹ phụ trách công tác phát thanh và các cộng tác viên.

Hiện nay, thông tin tuyên truyền nói chung và thông tin PBGDPL trong quân đội nói riêng ngày càng có vai trò quan trọng, đóng góp vào sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, hệ thống truyền thanh nội bộ trong quân đội là hình thức thông tin cơ sở giúp cán bộ, chiến sỹ tiếp nhận đầy đủ thông tin thiết yếu, đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống nhanh chóng, kịp thời, góp phần tạo sự đồng thuận, xây dựng tình đoàn kết trong đơn vị thời kỳ đổi mới và hội nhập, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam./. 

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 12

Kỹ năng tham gia hỗ trợ PBGDPL trong nhà trường

 

I. Khái quát về hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật trong nhà trường

1. Vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường

Thứ nhất, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường góp phần giáo dục đạo đức, lối sống, hình thành nhân cách, rèn luyện hành vi ứng xử cho thế hệ trẻ ngay từ trên ghế nhà trường, tạo nếp sống, hành động “theo Hiến pháp và pháp luật”.

Phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường bao gồm hai lĩnh vực: phổ biến pháp luật và giáo dục pháp luật. Hoạt động giáo dục pháp luật là một hoạt động giáo dục cụ thể, gắn với hoạt động giáo dục nói chung. Nội dung giáo dục pháp luật là một phần của nội dung chương trình giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục pháp luật trong nhà trường thực hiện thông qua việc dạy và học nội dung, kiến thức pháp luật trong trong chương trình giáo dục chính khóa qua các môn học như giáo dục công dân (ở cấp học phổ thông), pháp luật (trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học) hoặc được lồng ghép, tích hợp vào các môn học có liên quan như: đạo đức, tìm hiểu tự nhiên xã hội… (ở cấp học phổ thông), chính trị (trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học). Phổ biến pháp luật trong nhà trường được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục ngoại khóa, giáo dục ngoài giờ lên lớp với các hình thức như nói chuyện pháp luật, thi tìm hiểu pháp luật, viết báo tường, sinh hoạt theo chủ đề pháp luật, Tọa đàm, Hội thảo chuyên đề, tham dự phiên tòa… Phổ biến pháp luật góp phần củng cố những tri thức được học trong chương trình, bồi dưỡng tình cảm, niềm tin pháp luật, đồng thời rèn luyện, uốn nắn hình thành hành vi ứng xử theo chuẩn mực pháp luật quy định. Phổ biến pháp luật trong nhà trường giúp người học tiếp cận pháp luật toàn diện hơn, đầy đủ hơn, thấm sâu hơn, vượt qua rào cản khô khan của ngôn ngữ văn bản.

Thứ hai, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện.

Công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam đòi hỏi có những con người mới, có tri thức khoa học, có hiểu biết về pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật. Xã hội càng phát triển, nhu cầu hiểu biết pháp luật và vận dụng pháp luật trong các hoạt động kinh tế hay để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân trong xã hội càng lớn. Do đó, ngoài việc trang bị các kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật, việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường nhằm trang bị những tri thức pháp luật cơ bản cho học sinh, giáo dục ý thức tự giác tuân thủ pháp luật cho các công dân trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước là việc làm đúng đắn, cần thiết và cấp bách đáp ứng đòi hỏi khách quan của sự phát triển của xã hội nhằm nâng cao dân trí pháp lý và thực hiện chủ trương của Đảng đã đề ra trong các Nghị quyết hội nghị Trung ương.

2. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường

Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường được hiểu là các cách thức đưa pháp luật đến học sinh, sinh viên, giúp các em nắm được các quy định pháp luật phù hợp với nhận thức và lứa tuổi của các em.

Đối với hình thức giáo dục pháp luật trong nhà trường được thực hiện bằng 02 hình thức:

(1)    Giáo dục chính khóa

         Đối với hình thức giảng dạy pháp luật trong chương trình chính khoá, đặc trưng chính của hình thức này là truyền đạt các nội dung pháp luật bằng các phương pháp sư phạm thực hiện trong nhà trường. Các nội dung giáo dục pháp luật trong nhà trường được đưa vào chương trình giảng dạy chính khoá thông qua các môn học như: Đạo đức (bậc giáo dục tiểu học), Giáo dục công dân (bậc giáo dục trung học cơ sở, trung học phổ thông), pháp luật (trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề), pháp luật đại cương, pháp luật chuyên ngành (bậc đại học, cao đẳng và các trường thuộc cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội). Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chương trình và sách giáo khoa môn học Đạo đức, môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông và môn Pháp luật ở trung cấp chuyên nghiệp do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; đối với các trường cao đẳng và đại học, Hiệu trưởng quyết định về chương trình, nội dung cụ thể của môn học và tổ chức biên soạn giáo trình môn học trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu giáo dục, chuyên môn, ngành nghề đào tạo và khung chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

(2) Giáo dục ngoại khóa và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.

Giáo dục ngoại khóa là các hoạt động nằm ngoài chương trình giáo dục chính khóa. Hoạt động ngoại khóa liên quan đến tất cả các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí, xã hội ngoài giờ học trên lớp. Đây là một trong những “sân chơi để học sinh, sinh viên tự nguyện tham gia theo nhu cầu, khả năng của bản thân. Đối với sinh viên, hoạt động ngoại khóa đóng vai trò rất lớn không chỉ giúp các em nhận thức tầm quan trọng của việc hiểu biết pháp luật và thi hành pháp luật mà còn hình thành trong các em ý thức sống và làm việc theo pháp luật.

Hoạt động ngoại khóa cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung các kỹ năng và kinh nghiệm cho học sinh trong cuộc sống tập thể ở nhà trường, trong gia đình và ngoài xã hội; góp phần phát triển nhân cách, năng khiếu và tài năng sáng tạo của học sinh, giúp cho các em có sự phát triển toàn diện.

            II. Kỹ năng tham gia hỗ trợ phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường

Các nội dung giáo dục pháp luật trong nhà trường được đưa vào chương trình giảng dạy chính khoá thông qua các môn học. Việc giáo dục pháp luật trong nhà trường sẽ do các giáo viên, giảng viên các môn học: Đạo đức, Giáo dục công dân, pháp luật, pháp luật đại cương, pháp luật chuyên ngành giảng dạy theo chương trình giảng dạy do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định.

Vì vậy, các cán bộ, chiến sỹ quân đội nhân dân tham gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường thông qua các hoạt động giáo dục ngoại khóa như tuyên truyền trực tiếp cho giáo viên và học sinh tại trường học; phối hợp xây dựng tài liệu giới thiệu pháp luật cho học sinh, sinh viên; phối hợp tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; tham gia nói chuyện chuyên đề về pháp luật,...

Để thực hiện có hiệu quả việc tham gia hỗ trợ PBGDPL trong nhà trường, các cán bộ, chiến sỹ có thể tham khảo một số kỹ năng cơ bản sau đây:

1. Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp

1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp

Phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp là một hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật mà người nói trực tiếp nói với người nghe về lĩnh vực, nội dung, chủ đề pháp luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghe, hướng cho người nghe hành động theo các chuẩn mực pháp luật.

1.2. Một số kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp

1.2.1. Tạo thiện cảm với người nghe

Việc tạo thiện cảm với người nghe rất quan trọng.

Thiện cảm của báo cáo viên thể hiện ở nhân thân, tâm thế và biểu hiện thái độ của người nói (như danh tiếng, phẩm chất đạo đức, học hàm, học vị, chức vụ của người nói, dáng vẻ bề ngoài, y phục, nét mặt, cử chỉ, phong thái, ngôn ngữ). Ngay từ ban đầu, báo cáo viêncần phải tươi cười, có lời chào mừng, lời chúc, có câu mở đầu thu hút sự chú ý, công bố thời gian, chương trình làm việc rõ ràng, thoải mái[3]... để gây được thiện cảm ban đầu đối với người nghe.

Thiện cảm còn được tạo ra bởi khung cảnh của hội trường, khung cảnh của diễn đàn, cách thức tổ chức, bố trí, sắp xếp chỗ ngồi, vị trí cho người nghe (dễ tiếp cận cho mọi đối tượng, thân thiện với các nhóm dễ bị tổn thương như người khuyết tật, người già..., bố trí bàn ghế, thời gian phù hợp…).

1.2.2. Tạo sự hấp dẫn, gây ấn tượng trong khi nói

Phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp cần tạo nên sự hấp dẫn, gây ấn tượng bằng giọng nói, điệu bộ, ngôn ngữ. Giọng nói phải rõ ràng, mạch lạc, truyền cảm, tránh cách nói đều đều; âm lượng phải thay đổi theo nội dung và nhấn mạnh vào những điểm quan trọng. Động tác, cử chỉ cần phù hợp với nội dung và giọng nói; người nói cần đưa ra ví dụ, số liệu, dẫn chứng để minh hoạ, đặt câu hỏi trao đổi thảo luận, gia tăng sự tương tác, để tăng thêm sự chú ý của người nghe.

Kỹ năng lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ

a) Tính hội thoại

- Câu ngắn, câu đơn: người nghe dễ nhớ, dễ hiểu; không ảnh hưởng đến việc thở lấy hơi của người nói.

- Câu nhiều mệnh đề nối tiếp nhau với cấu trúc câu đơn giản: bài nói sôi nổi, có kịch tính, thu hút sự chú ý của người nghe.

- Cấu trúc liên kết, tăng tiến, quan hệ (không chỉ /mà còn; càng / ngày càng; mặc dù / nhưng...) để làm nổi bật, nhấn mạnh vấn đề.

- Nên đặt những thông tin quan trọng ở giữa câu: người nghe dễ dàngtiếp thu.

Ví dụ:Năm 2013, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam - đây là sự kiện chính trị- pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta.

b) Tính chính xác

Tính chính xác của lời nói trong thuyết trình thể hiện: 

- Chính xác về phát âm.

- Chính xác về từ (từ phải rõ nghĩa, đơn nghĩa; tránh dùng từ đa nghĩa, diễn đạt không rõ ràng).

- Chính xác về câu (câu đúng ngữ pháp, đúng ngữ nghĩa, tránh đặt câu tối nghĩa).

c) Tính phổ thông

- Được biểu hiện ở nội dung, cách diễn đạt phù hợp trình độ người nghe và bối cảnh giao tiếp.

- Cần hạn chế việc sử dụng các từ địa phương, các thuật ngữ pháp lý khó.

- Cần lấy ví dụ, các tình huống thường xảy ra trong đời sống để minh hoạ.

- Không lạm dụng từ nước ngoài, chỉ sử dụng từ nước ngoài khi tiếng Việt không có từ thay thế.

d) Tính truyền cảm

- Tính truyền cảm là đặc trưng riêng của ngôn ngữ nói.

- Để tạo ra tính truyền cảm cho bài nói, có thể sử dụng các biện pháp tu từ: ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, từ láy, điệp từ, điệp ngữ, câu ẩn chủ ngữ, câu hỏi...

đ) Tránh dùng từ lấp khoảng trống:

Từ lấp khoảng trống là những từ hoặc cụm từ được liên tục lặp đi lặp lại trong lúc đối thoại: “vậy đấy”, “bạn biết không”, “được chứ”, “à”, “ờ”, “à há”…

Loại bỏ những từ này giúp cuộc đối thoại rõ ràng, chuyên nghiệp, thuyết phục hơn; tăng sức ảnh hưởng đến người nghe bằng cách sử dụng ngôn từ có sức biểu cảm mạnh.

e) Thuyết trình thông qua 2 kênh: Kênh ngôn ngữ và kênh phi ngôn ngữ:

- Kênh ngôn ngữ:

+ Dùng các yếu tố như ngữ điệu, cường độ, âm lượng, nhịp độ lời nói và sự ngừng giọng…Ngữ điệu: phong phú, biến hoá, có sự vận động của âm thanh, tránh cách nói đều đều, đơn điệu, buồn tẻ.Cường độ: To hay nhỏ phụ thuộc vào khuôn khổ kích thước hội trường, số lượng và đặc điểm người nghe.

+ Nhịp độ lời nói: Nhanh hay chậm phụ thuộc vào nội dung bài thuyết trình, tình huống,  không gian và đối tượng nghe, khả năng hoạt động của tư duy và sự chú ý của người nghe. Thông thường khi trình bày bài nói, nhịp độ chậm hơn đọc khoảng 1,5 lần.

- Kênh phi ngôn ngữ:

Giao tiếp phi ngôn ngữ là cách gửi và nhận thông điệp từ những gì mà chúng ta thể hiện ra bên ngoài trong quá trình giao tiếp. Nó bao gồm tất cả những thao tác của từng bộ phận trên cơ thể như: cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt, nụ cười, giọng điệu, tư thế đứng, di chuyển linh hoạt, cử động bàn tay

Trong quá trình giao tiếp, lời nói gồm 3 yếu tố chính là ngôn ngữ, cường độ giọng nói và phi ngôn ngữ. Trong đó, ngôn ngữ góp phần nhỏ nhất với 7,01% tác động đến người nghe, 37,98% là cường điệu giọng nói và phi ngôn ngữ trở nên quan trọng nhất với 55,01%.

Kỹ năng khôi phục và tăng cường sự chú ý

Khi sự chú ý của người nghe bị giảm, báo cáo viên pháp luậtcần chủ động tìm cách khôi phục và tăng cường sự chú ý của người nghe:

- Điều chỉnh giọng nói cho phù hợp;

- Thay đổi tư thế đứng, nên rời bục giảng và tiến gần về phía người nghe hoặc đi vào giữa hội trường tiếp tục nói;

- Sử dụng các phương tiện trực quan như sơ đồ, bản đồ, biểu băng, băng ghi hình…;

- Thay đổi trạng thái giao tiếp từ độc thoại sang đối thoại bằng cách đặt câu hỏi và đề nghị người nghe trả lời;

- Chuyển sang nói bằng giọng hài hước, sử dụng biện pháp gây cười như: chơi chữ, nói lái, kỹ thuật tương phản hoặc kể một câu chuyện cười phù hợp để giảm bớt sự căng thẳng, khôi phục trở lại sự chú ý.

1.2.3. Trả lời câu hỏi khi thực hiện đối thoại

Báo cáo viên pháp luậtcần phải trả lời câu hỏi của người nghe và tạo điều kiện, dành thời gian để hỏi về những vấn đề họ quan tâm nhưng chưa được giải thích hoặc giải thích chưa rõ.Quá trình trả lời câu hỏi của người nghe cần chú ý một số vấn đề sau:

- Tôn trọng và chú ý lắng nghe ý kiến của người hỏi.

- Nên thận trọng khi trả lời, chắc chắn đáp án đúng mới trả lời, trường hợp câu hỏi khó chưa trả lời được ngay thì đề nghị sẽ trả lời sau.

- Trả lời rõ ràng, đúng, trúng yêu cầu của câu hỏi.

- Lập luận có cơ sở khoa học, có căn cứ xác đáng, trên cơ sở các quy luật lôgíc và phương pháp chứng minh, lời nói nhã nhặn, khiêm tốn, phù hợp với vị trí của mình trong quan hệ giao tiếp.

- Có thể đặt tiếp những câu hỏi gợi ý để người nghe tự trả lời câu hỏi của mình.

- Nếu người nghe đưa ra nhiều câu hỏi một lúc thì có thể tìm cách hạn chế bớt phạm vi vấn đề của các câu hỏi.

- Đối với những câu hỏi không thuộc phạm vi của tập huấn, không có trách nhiệm trả lời thì báo cáo viên pháp luậtcó thể từ chối hoặc chỉ dẫn người hỏi tìm gặp những người có trách nhiệm để trả lời.

1.3. Các bước tiến hành một buổi phổ biến pháp luật trực tiếp

a) Bước chuẩn bị

 

b) Tiến hành một buổi phổ biến pháp luật trực tiếp

Một buổi phổ biến pháp luật trực tiếp, gồm 03 phần: Mở đầu, triển khai nội dung và kết luận.

- Mở đầu

Thông thường có hai cách mở đầu: Trực tiếp và gián tiếp

+ Mở đầu trực tiếp: Giới thiệu với người nghe về chủ đề và giới hạn phạm vi nội dung sẽ trình bày. Cách mở đầu này ngắn, gọn, giúp người nghe nhận biết ngay nội dung chính. 

+ Mở đầu gián tiếp: Nêu vấn đề có liên quan tới chủ đề của bài thuyết trình để dẫn dắt người nghe đến chủ đề chính. Ví dụ, báo cáo viên có thể nhắc đến sự kiện được dư luận xã hội quan tâm, kể một câu chuyện pháp luật, chiếu một đoạn phim, đề nghị trả lời câu hỏi hoặc đưa ra con số thống kê tình hình vi phạm pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể (giao thông, bạo lực học đường...), từ đó gắn chủ đề của buổi tuyên truyền.

- Triển khai nội dung (phổ biến những quy định pháp luật cụ thể trong lĩnh vực nhất định)

+ Nội dung pháp luật phù hợp với khả năng nhận thức và đặc điểm độ tuổi của học sinh, sinh viên.

+ Đưa nhiều ví dụ, dẫn chứng minh họa, giúp người nghe dễ hiểu, hình dung được việc áp dụng vào thực tế.

+ Nêu được hậu quả pháp lý của việc không tuân thủ, chấp hành pháp luật.

- Kết luận

+ Tóm tắt những vấn đề cơ bản đã trình bày, nhấn mạnh lại chủ đề hoặc thông điệp muốn truyền tải. Đồng thời, gợi mở những vấn đề cần tiếp tục có sự nghiên cứu, tìm hiểu.

+ Đánh giá hiệu quả của buổi phổ biến pháp luật, giúp báo cáo viên nhìn lại cách thức tổ chức, phương pháp và kỹ năng của bản thân để tiếp tục trau dồi, nâng cao năng lực phổ biến pháp luật.

1.4. Những vấn đề cần tránh

 

2. Kĩ năng xây dựng tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường được thực hiện thông qua nhiều loại tài liệu khác nhau, rất đa dạng, phong phú, trực tiếp là nguồn tư liệu, bổ sung hỗ trợ cho các hoạt động giáo dục pháp luật trong nhà trường dưới cả 2 dạng hình thức là chính khoá và ngoại khoá. Những tài liệu này ngoài việc bổ sung những kiến thức pháp luật mới, còn góp phần trang bị kĩ năng, nghiệp vụ phổ biến cho người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và cho đội ngũ giáo viên, học sinh, sinh viên nói riêng. Các loại tài liệu này chủ yếu thể hiện dưới các dạng như sách pháp luật, cẩm nang pháp luật, truyện tranh, tờ gấp pháp luật, infographic, tiểu phẩm/ câu chuyện pháp luật,...

2.1. Kỹ năng biên soạn sách, cẩm nang pháp luật

Sách pháp luật, cẩm nang pháp luật (gọi chung là sách pháp luật) là một loại tài liệu tuyên truyền, phổ biến nội dung, kiến thức pháp luật thiết yếu trong các lĩnh vực của đời sống, qua đó, giúp người đọc chủ động tìm hiểu, nghiên cứu, tiếp cận kiến thức pháp luật qua việc đọc sách, nghiên cứu sách để đáp ứng nhu cầu của bản thân.

Tổ chức biên soạn sách pháp luật

Việc tổ chức biên soạn sách pháp luật cần theo các bước cơ bản sau:

- Bước 1: Xây dựng kế hoạch biên soạn sách

- Bước 2:  Biên soạn theo kế hoạch biên soạn và phân công

- Bước 3: Biên tập

- Bước 4: Thẩm định

- Bước 5: Tổ chức in ấn, phát hành sách

Kỹ năng biên soạn nội dung sách pháp luật phổ thông

Sách pháp luật phổ thông gồm: Sổ tay hỏi đáp pháp luật, sổ tay hướng dẫn tìm hiểu pháp luật, sổ tay pháp luật bỏ túi. Với mỗi loại sách/sổ tay có yêu cầu kỹ năng biên soạn khác nhau, cụ thể như sau:

a)    Sổ tay hỏi đáp pháp luật

Sổ tay hỏi đáp pháp luật được xây dựng để tuyên truyền, phổ biến về các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Nội dung sổ tay hỏi đáp pháp luật có thể là nội dung pháp luật trong một lĩnh vực cụ thể như an toàn giao thông, phòng, chống bạo lực học đường, phòng cháy chữa cháy… hoặc trong nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến các quan hệ xã hội thường gặp trong đời sống hàng ngày.

Kỹ năng biên soạn sổ tay hỏi đáp pháp luật chủ yếu dựa trên phương pháp đặt câu hỏi và cách trả lời câu hỏi. Có các dạng câu hỏi sau:

- Câu hỏi trực tiếp: Là loại câu hỏi trực tiếp vào nội dung vấn đề. Câu hỏi trực tiếp thường dùng trong trường hợp cần giải thích các khái niệm, các thuật ngữ pháp lý, hoặc các vấn đề có tính lý thuyết.

Ví dụ: “Hành vi nào bị nghiêm cấm khi tham gia giao thông?”

- Câu hỏi tình huống: thông qua một tình huống, một sự việc để hỏi về một vấn đề. 

Ví dụ: A năm nay 17 tuổi, A điều khiển xe máy có dung tích xi lanh trên 120 cm3”. Hỏi hành vi của A có đúng quy định của pháp luật không?

Đối với câu hỏi loại này câu trả lời cần phân tích sự việc, đối chiếu với quy định của pháp luật sau đó hướng dẫn cách giải quyết cụ thể.

Yêu cầu, đối với câu hỏi và câu trả lời: Câu hỏi và đáp án trả lời phải đảm bảo yêu cầu ngắn gọn, thiết thực, dễ hiểutheo từng vấn đề đúng quy định của pháp luật. Đối với tình huống pháp luật cần có nội dung rõ ràng, rõ vấn đề pháp lý cần giải quyết qua tình huống; cách giải quyết tình huống phải logic, theo quy định của pháp luật hiện hành.

b)    Sổ tay giới thiệu pháp luật

Sổ tay giới thiệu pháp luật thường sử dụng để tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật (luật, bộ luật, pháp lệnh, nghị định) mới ban hành, mới sửa đổi, bổ sung. Sổ tay được viết dưới dạng các chuyên đề chuyên sâu.

- Bố cục sổ tay gồm 03 phần:

+ Giới thiệu chung về nội dung của cuốn Sổ tay; tình hình thực tế liên quan trực tiếp đến các vấn đề thuộc nội dung sổ tay; Giải thích các khái niệm, thuật ngữ nêu ra trong nội dung sổ tay.

+ Các chuyên đề về quy định của pháp luật về vấn đề nêu trong nội dung sổ tay; các điểm mới, điểm sửa đổi, bổ sung (nếu có) so với các quy định pháp luật trước đây;  hướng dẫn thực hiện.

+ Kết luận.

Tất cả các nội dung trong sổ tay đều phải viết thật ngắn gọn, cô đọng, rõ ràng mạch lạc dễ hiểu để sổ tay không quá dài và quá nhiều chữ.

2.2. Biên soạn tờ gấp/infograpic giới thiệu pháp luật

Tờ gấp/infographic giới thiệupháp luật là một trong những hình thức tuyên truyền pháp luật hiệu quả, bởi tính cô đọng, dễ hiểu, đơn giản, bắt mắt.

Tờ gấp/infographic giới thiệupháp luật có thể được trình bày dưới các dạng sau:

+ Hỏi - đáp trực tiếp.

+ Thông qua các tình huống pháp luật.

+ Mô phỏng bằng sơ đồ (thường áp dụng đối với các quy trình, thủ tục luật định).

Thiết kế tờ gấp/infograpic giới thiệu pháp luật cho học sinh, sinh viên cần sinh động, có thể mời họa sĩ để thiết kế, có hình ảnh hoạt hình hoặc thực tiễn để minh họa.

Sau khi xây dựng xong tờ gấp/infograpic giới thiệu pháp luật, có thể đăng tải trên website của các trường học, trên các trang mạng xã hội, … hoặc in, phát cho các học sinh, sinh viên khai thác, sử dụng.

2.3. Biên soạn câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật

Câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật là hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả đối với học sinh, sinh viên, các em có thể áp dụng vào thực tiễn khi xảy ra tình huống tương tự. Một câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật không nên quá dài, chỉ nên từ 1 - 3 trang A4 là phù hợp.

Yêu cầu đối với câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật

-         Đặt tên câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luật

Tên câu chuyện pháp luật, tiểu phẩm pháp luậtphải cô đọng, thể hiện chủ đề nội dung tác phẩm; tránh đặt tên khó hiểu, dài dòng.

-         Yêu cầu về nội dung

Phải phản ánh thực trạng của đời sống pháp luật, về một sự việc có thật, gắn với đời sống hàng ngày hoặc định hướng, gợi mở cho người đọc quan tâm, tìm hiểu và áp dụng pháp luật. 

-         Hình thức thể hiện

Phải ngắn gọn, diễn đạt bằng một ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ. Câu chuyện pháp luật nên được thể hiện dưới hình thức văn kể, đơn giản, theo trình tự diễn biến câu chuyện. Câu chuyện pháp luật chủ yếu được sử dụng cho hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên hệ thống phát thanh, truyền thanh. Tiểu phẩm pháp luật nên được thể hiện dưới hình thức đối thoại, có bối cảnh, cần nhiều người thể hiện hoặc cần được thể hiện dưới nhiều vai (nhân vật). Tiểu phẩm pháp luật thường được sử dụng cho hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật qua sân khấu, truyền hình, phát thanh.

Người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hoàn toàn có thể sử dụng câu chuyện pháp luật để xây dựng thành tiểu phẩm pháp luật và ngược lại, từ tiểu phẩm pháp luật có thể cô đọng lại thành câu chuyện pháp luật để sử dụng cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

3. Kĩ năng trong tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật

Việc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trong nhà trường luôn nhận được sự tham gia, hưởng ứng sôi nổi của học sinh, sinh viên. Có một số hình thức tổ chức thi tìm hiểu pháp luật như sau:

a)    Thi nói

Là hình thức thi mà thí sinh phải thể hiện sự hiểu biết của mình bằng việc trình bày, thuyết trình, đưa ra quan điểm về chủ đề pháp luật nhất định. Việc đánh giá trình độ hiểu biết pháp luật, khả năng diễn đạt của người dự thi thông qua Ban Giám khảo cuộc thi. Trong thi nói có ba loại hình thi: thi hùng biện, thi trả lời câu hỏi/tình huống trực tiếp; thi biểu diễn tiểu phẩm kịch bản.

- Thi hùng biện là hình thức thi mà thí sinh phải trình bày nội dung pháp luật theo chủ đề nhất định. Việc thi hùng biện thể hiện khả năng diễn thuyết, lập luận, mức độ am hiểu pháp luật của thí sinh.

- Thi trả lời câu hỏi/tình huống trực tiếplà hình thức thi mà người thi phải trực tiếp trả lời những câu hỏi/tình huốngvề lĩnh vực pháp luật do Ban tổ chức hoặc Ban Giám khảo đưa ra.

- Thi biểu diễn tiểu phẩm là hình thức thi mà người dự thi phải xây dựng kịch bản về sự kiện pháp lý xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, cách xử lý những vấn đề đó trên cơ sở các quy định pháp luật. Người thi phải đóng vai, diễn xuất thể hiện kịch bản bằng hình thức sân khấu. Thi biểu diễn tiểu phẩm có khả năng lôi cuốn người xem, tạo sự hấp dẫn, tránh khô khan và dễ truyền tải đến người xem.

b) Thi viết

Là hình thức thi mà người tham gia thi phải trả lời các câu hỏi của Ban Tổ chức bằng cách viết lên giấy (Bài dự thi) những hiểu biết của mình về nội dung pháp luật theo đề bài.

Hình thức thi này có thể áp dụng ở những phạm vi và đối tượng khác nhau. Nhiều người có thể cùng tham dự, cùng làm bài thi. Người dự thi có điều kiện nghiên cứu văn bản, thảo luận, bàn bạc, thống nhất nội dung trả lời.

c)   Thi trắc nghiệm

Là hình thức thi mà Ban Tổ chức đưa ra câu hỏi và một số đáp án, người dự thi trả lời bằng cách lựa chọn phương án trả lời đúng.

Thi trắc nghiệm có ba loại hình thi gồm: trắc nghiệm trên giấy, trắc nghiệm điện tử và trắc nghiệm trực tiếp trên sân khấu.

- Trắc nghiệm trên giấy: Là hình thức thi mà Ban tổ chức cuộc thi in sẵn câu hỏi và các phương án trả lời trên giấy và phát tới người dự thi.

- Trắc nghiệm điện tử: Là hình thức thi sử dụng công nghệ thông tin (thông qua mạng internet hoặc mạng điện thoại), người dự thi nhận câu hỏi và gửi đáp án thông qua mạng internet, Báo, Đài phát thanh, Đài truyền hình….

- Trắc nghiệm trực tiếp trên sân khấu: Là hình thức thi mà người dự thi trả lời câu hỏi bằng cách lựa chọn phương án đúng trong các phương án do Ban tổ chức đưa ra sau khi nghe câu hỏi (hoặc xem tình huống) ngay tại trên sân khấu.

Mỗi hình thức thi có ưu điểm và nhược điểm riêng, Ban tổ chức cuộc thi cần căn cứ vào nội dung thi, đối tượng hướng tới, kinh phí, điều kiện để quyết định áp dụng hình thức thi nào cho phù hợp. Một cuộc thi cũng có thể sử dụng một, một số hoặc tất cả các hình thức thi nêu trên.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 13

Phương pháp tổ chức tập huấn theo phương pháp tích cực (trao đổi hai chiều, lấy người học làm trung tâm...)

 

Việc tổ chức tập huấn theo phương pháp tích cực (trao đổi hai chiều, lấy người học làm trung tâm ...) là một kỹ năng mới, được sử dụng nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của người được tập huấn; đáp ứng nhu cầu tập huấn. Đồng thời rèn luyện thái độ giải quyết vấn đề trong thực tiễn, kích thích sự tham gia tích cực của học viên, tạo ý t­ưởng và khám phá các cách giải quyết mới...

1. Phương pháp làm mẫu: được sử dụng nhiều để hướng dẫn các thao tác kỹ năng thực hành.

1.1. Các bước thực hiện phương pháp làm mẫu:

Bước 1: Trình diễn ở tốc độ tiêu chuẩn

          Bước này nhằm giới thiệu kỹ năng mà người được tập huấn sắp học đồng thời giúp học viên hình dung kết quả cuối cùng mà họ cần đạt sau bài học.

Cầntrình diễn kỹ năng mẫu chính xác, với tốc độ tiêu chuẩn, tạo ra kết quả tốt nhất về kỹ năng đó để người được tập huấn quan sát, ghi nhớ và đánh giá kết quả làm mẫu.

Bước 2: Trình diễn chậm kết hợp giảng giải

Giúp người được tập huấn hiểu rõ yêu cầu và bản chất của từng động tác nhỏ trong kỹ năng, những hệ thống logic phía sau mỗi động tác. Trong bước này người được tập huấn lắng nghe và quan sát kỹ từng động tác, ghi nhớ động tác và bản chất của các thao tác.

Bước 3: Người được tập huấn ghi nhớ cách làm

Người được tập huấn phải mô tả lại quá trình thao tác và giải thích tại sao phải thực hiện như vậy. BCVcó thể thao tác theo mô tả của học viên, hỏi lại khi học viên mô tả chưa đủ hoặc chưa chính xác.

Bước 4: Thực hành độc lập

Chọn một số người được tập huấn giỏi làm thực hành mẫu, áp dụng kỹ năng vừa được học, một mặt giúp người được tập huấn sẽ được trải nghiệm, điều chỉnhlại các thao tác chưa phù hợp...; mặt khác những người này sẽ hỗ trợ những người được tập huấn khác trong thực hành.

Bước 5: Rèn luyện kỹ năng cho học viên

Chia người được tập huấn thành các nhóm thực hành nhỏ với sự hỗ trợ của những người đã được thực hành tại Bước 4 trong mỗi nhóm.

 Thời gian cho bước này ít nhất phải chiếm 50% tổng thời gian của cả thời gian tập huấn. Cần khuyến khích để người được tập huấn tích cực giúp đỡ nhau học tập. Người tập huấnhạn chế can thiệp, không làm hộ người được tập huấn. Nhưng cần có mặt để giải đáp những thắc mắc mà người được tập huấn chưa trả lời được.

Bước 6: Đánh giá kết quả học tập và kết thúc bài học

Bước này nhằm củng cố thêm kỹ năng của người được tập huấn sau khi thực hành. Người tập huấncó thể yêu cầu một số người được tập huấn trình diễn lại kỹ năng, trả lời thắc mắc của học viên xuất hiện trong khi thực hành và nhấn mạnh lại một vài điểm quan trọng về kỹ năng mà học viên cần chú ý.

1.2. Ưu điểm, nhược điểm của phương pháp

- Phương pháp làm mẫu có khả năng kết hợp sử dụng nhiều giác quan của người học như nghe nhìn, giúp cho việc ghi nhớ;Tiến trình học gắn liền với thực hành giúp rèn luyện kỹ năng tốt.

- Phương pháp này sẽ khó thực hiện với nhóm quá đông và việc làm mẫu cần khá nhiều thời gian và vật liệu để tiến hành các bước một cách chu đáo.

2. Phương pháp kể chuyện 

2.1. Mục đích sử dụng:

 Phương pháp kể chuyện thường được dùng để đạt mục tiêu thay đổi không khí, thu hút sự tập trung của người được tập huấn về một vấn đề nào đó.

Phương pháp kể chuyện cũng rất hiệu quả khi sử dụng để tập huấn những chủ đề liên quan đến quản lý công việc và giao tiếp như: kỹ năng quản lý, giải quyết vấn đề , tình huống xung đột, xây dựng nhóm làm việc.

2.2. Xây dựng chuẩn bị:

- Người tập huấn dùng những câu chuyện có thật để đưa vào tình huống tập huấn. Câu chuyện đưa ra trong lớp học có thể tổng hợp từ một số câu chuyện nhỏ, sảy ra ở những thời điểm và những nơi khác nhau.

- Câu chuyện phải có cốt chuyện[4], hay, có tình tiết với những mâu thuẫn, tình huống cụ thể và phù hợp với mục tiêu học tập.

Khi định dùng phương pháp kể chuyện, người tập huấn phải chuẩn bị kỹ câu chuyện định kể trong đó có đầy đủ những yếu tố nêu trên. Trong trường hợp câu chuyện do người được tập huấn kể, người tập huấnvà những người được tập huấn khác có thể hỏi thêm để người kể cung cấp các chi tiết đó.

2.3. Kể chuyện:

          Kể chuyện có thể coi là một nghệ thuật sử dụng giọng nói. Cùng một lúc người kể phải thể hiện giọng nói của tất cảc các nhân vật trong chuyện; phải thể hiện diễn biến nội tâm nhân vật thong qua giọng nói của họ. Nhân vật buồn vui hay giận hờn , người kể cần thể hiện được điều đó. Nhân vật nói nhanh hay nói chậm; giọng thanh hay giọng khan… đều là những thử thách mà người kể chuyện phải cố gắng. Mức độ thể hiện chính xác cũng là mức độ thành công ở phần kể chuyện. Khi thực sự xúc động bởi câu chuyện thì người kể sẽ thể hiện câu chuyện hay nhất.

2.4. Phân tích và rút ra bài học:

Mục tiêu của phương pháp ngày không phải là kể một câu chuyện hay mà là qua việc kể chuyện đó, người được tập huấn học được gì qua câu chuyện đó. Người tập huấncó thể hướng dẫn học viên phân tích câu chuyện tùy theo mức độ cảm nhận của người được tập huấn sau khi nghe chuyện và khả năng linh hoạt của người tập huấn.

Nếu phần kể chuyện chưa gây được ấn tượng, cảm xúc mạnh cho người được tập huấn, phần phân tích nên bắt đầu từ việc nhắc lại tên các nhân vật, diễn biến hoạt động của câu chuyện đến diễn biến tâm lý của nhân vật và của người nghe. Sau đó phân tích những vấn đề đưa ra trong câu chuyện; những điều chưa hợp lý, xấu và tốt; nguyên nhân và hậu quả của những vấn đề đó. Và cuối cùng đưa ra bài học kết luận cho nhân vật trong chuyện gắn với nội dung cần truyền tải.

Nếu phần kể chuyện gây được ấn tượng mạnh cho người được tập huấn, phần phân tích có thể bắt đầu từ cảm xúc chung của người nghe: buồn , vui, giận…và các nguyên nhân của những cảm xúc đó để đi đến kết luận vấn đề đưa ra trong câu chuyện, và rút ra bài học.

2.5. Ưu điểm, nhược điểm của phương pháp:

Phương pháp kể chuyện rất dễ sử dụng lại đạt hiệu quả cao trong việc tạo ra ấn tượng, cảm xúc trong người được tập huấn. Vấn đề được đưa ra dưới dạng câu chuyện logic giúp người được tập huấn dễ nhớ và nhớ lâu. Tuy nhiên phương pháp cũng đòi hỏi người người tập huấnphải rèn luyện kỹ năng xây dựng câu chuyện phù hợp với mục đích tập huấn và khả năng kể chuyện tốt.

3. Phương pháp làm việc nhóm

Phương pháp này giúp học viên làm việc tập trung và có định hướng; tăng cường sự liên kết và hợp tác giữa các học viên.

          *Các bước thực hiện:

          - Bước 1: Người tập huấn giao nhiệm vụ (nhiệm vụ chung hoặc nhiệm vụ từng nhóm).

          - Bước 2: Chia nhóm thảo luận (có thể chia nhóm theo cơ quan, theo lĩnh vực chuyên môn, theo sở thích, theo vị trí ngồi trong lớp, theo giới tính...).

          - Bước 3: Các nhóm thảo luận theo nhiệm vụ được giao.

          - Bước 4: Các nhóm trình bày kết quả thảo luận.

          - Bước 5: Giảng viên tổng hợp kết quả thảo luận.

* Chú ý: Thực hiện phương pháp này cần có sự phân công rõ ràng:

          + Nhiệm vụ: vấn đề thảo luận, thư ký nhóm, trưởng nhóm

          + Thời gian thảo luận, thời gian trình bày kết quả nhóm;

          + Vị trí các nhóm thảo luận

          + Chia nhóm phù hợp với quy mô lớp học. Tốt nhất mỗi nhóm từ 5-7 học viên vì số lẻ là số cần thiết để đi đến thống nhất theo đa số; cách chia nhóm cần đơn giản, thuận tiện.

          4. Phương pháp đóng vai

Là phương pháp trong đó người được tập huấn diễn tả thái độ của người khác ở những tình huống cho trước, vai diễn được các thành viên quán sát, ghi chép lại để nhận xét và rèn luyện thái độ giao tiếp

Phương pháp này được thực hiện nhằm khuyến khích khả năng giao tiếp, tạo điều kiện liên hệ với những tình huống nghề nghiệp cụ thể, luyện cách xử lý tình huống.

* Ưu điểm của phương pháp đóng vai

          - Làm cho việc hình dung và thảo luận vấn đề được sống động, dễ dạng

          - Học nhanh, sâu và vững các kiến thức, kỹ năng

          - Làm học viên năng động trong mọi tình huống

 

CHUYÊN ĐỀ 14

Kỹ năng truyền thông, nắm bắt, định hưng dư luận xã hội và tuyên truyền văn bản quy phạm pháp luật ngay từ khâu dự thảo

 

I. Một số vấn đề chung

1. Mục đích, ý nghĩa của truyền thông dự thảo chính sách pháp luật trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Nhằm thể chế hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng về chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng"; các định hướng lớn về công tác PBGDPL tại Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư; các nhiệm vụ, giải pháp tại Quyết định số 1521/QĐ-TTg ngày 06/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 21/2021/QĐ-TTg ngày 21/6/2021 quy định về thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng phối hợp PBGDPL, ngày 30/3/2022 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 407/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tổ chức chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 2022 – 2027”. Đây là những cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng trong tổ chức truyền thông dự thảo chính sách pháp luật trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Hoạt động này nhằm mục đích, ý nghĩa sau:

1.1. Đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay và yêu cầu đổi mới công tác PBGDPL - khâu đầu tiên của quá trình tổ chức thi hành, đưa pháp luật vào cuộc sống, trong đó bảo đảm gắn kết chặt chẽ với công tác xây dựng,hoàn thiện pháp luật.

1.2. Tạo điều kiện cho người dân tham gia xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thông qua việc trao đổi, đề xuất, kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các nội dung cần sửa đổi, bổ sung, thay thế trong dự thảo VBQPPL nhằm đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của người dân trong tham gia xây dựng pháp luật, qua đó, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường đồng thuận xã hội; góp phần củng cố, xây dựng niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước, thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng XIII về phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân.

1.3. Bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013, trong đó có quyền tiếp cận thông tin pháp luật, tìm hiểu, học tập pháp luật ngay từ trong giai đoạn soạn thảo VBQPPL theo quy định tại Điều 2 Luật PBGDPL năm 2012, Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.

1.4. Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 về lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, qua đó đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng, tính khả thi của văn bản, đồng thời tạo sự đồng thuận của dư luận trong thực thi văn bản khi được thông qua/ban hành.

1.5. Đa dạng hóa, đổi mới các hình thức PBGDPL đáp ứng yêu cầu thực tiễn về PBGDPL, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL.

2. Xác định dự thảo chính sách, pháp luật cần tập trung truyền thông

Có 02 cách thức lựa chọn nội dung truyền thông dự thảo văn bản quy phạm pháp luật:

2.1. Xác định các dự thảo chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng VBQPPL

Đây là cách thực hiện đang được một số bộ, ngành, địa phương sử dụng để truyền thông về dự thảo chính sách, pháp luật đang trong quá trình xây dựng VBQPPL như: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tổ chức truyền thông, phổ biến dự thảo Bộ luật Lao động đã lựa chọn một số chính sách quan trọng, trong đó có 02 chính sách là: (i) Tuổi nghỉ hưu của người lao động và (ii) Về mở rộng khung thỏa thuận thời giờ làm thêm tối đa…. Các nội dung chính sách này đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp có trách nhiệm của cán bộ, nhân dân. Qua đó cho thấy cách thức này hiệu quả, thiết thực vì lựa chọn được vấn đề liên quan mật thiết với quyền và lợi ích chính đáng của cán bộ, Nhân dân.

Trên cơ sở Quyết định số 407/QĐ-TTg, phạm vi các dự thảo chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng VBQPPL được  xác định trên cơ sở đáp ứng 4 tiêu chí:

(i) Là các chính sách được ban hành trong các VBQPPL mà Luật Ban hành VBQPPL quy định phải lập đề nghị xây dựng VBQPPL trước khi tiến hành soạn thảo, trừ các nội dung thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật;

(ii) Tác động trực tiếp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của người dân, tổ chức, doanh nghiệp;

(iii) Được xác định là những vấn đề khó, nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm hoặc có nhiều ý kiến khác nhau về nội dung dự thảo chính sách;

(iv) Chính sách có tác động trên phạm vi cả nước hoặc trên phạm vi toàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Thời điểm truyền thông dự thảo chính sách được thực hiện ngay từ khi cơ quan chủ trì soạn thảo VBQPPL lấy ý kiến đối với đề nghị xây dựng VBQPPL theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL.

2.2. Toàn văn nội dung dự thảo văn bản quy phạm pháp luật

Hiện cách thức này được sử dụng để truyền thông, lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trong quá trình soạn thảo thông qua việc đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử của Quốc hội, Chính phủ và Cổng Thông tin điện tử của cơ quan chủ trì soạn thảo theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Tuy nhiên, hiệu quả của cách thức này không cao, nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp luật không có người dân góp ý khi đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử.

II. Một số kỹ năng truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

1. Các hình thức truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật

1.1. Xây dựng tài liệu truyền thông dự thảo chính sách

1.2. Truyền thông trên báo chí (Báo hình, báo nói, báo viết, báo điện tử)

1.3. Kỹ năng tổ chức diễn đàn, đối thoại lấy ý kiến về dự thảo chính sách, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật

1.4. Truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật tại địa bàn cơ sở

1.5. Truyền thông qua mạng xã hội và hình thức khác.

2. Xây dựng Kế hoạch truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật

Để xây dựng Kế hoạch truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật cần thực hiện các bước sau đây:

2.1. Bước 1: Xác định mục tiêu truyền thông

Việc xác định mục tiêu truyền thông cần áp dụng mô hình SMART: Specific – cụ thể; Measurable – có thể đo lường được; Achievable – có thể đạt được; Realistic – thực tế; Time-focused – tập trung vào yếu tố thời gian

Các mục tiêu sẽ giúp chúng ta đo lường hiệu quả và có cơ sở để đánh giá hoạt động truyền thông của mình. Tuy nhiên, có một yêu cầu bắt buộc đó là mục tiêu trong kế hoạch bắt buộc phải đáp ứng 2 tiêu chí là có thể đạt được và thực tế.

2.2. Bước 2: Lựa chọn và xác định dự thảo chính sách, pháp luật trong quá trình xây dựng VBQPPL.

Trên cơ sở chương trình/kế hoạch xây dựng dự án, dự thảo VBQPPL của Quốc hội, Chính phủ, địa phương hàng năm; căn cứ nội dung, tính chất dự thảo chính sách và yêu cầu thực tiễn, các cơ quan, đơn vị cần chủ động lựa chọn, xác định các dự thảo chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng VBQPPL theo các tiêu chí được xác định tại Quyết định số 407/QĐ-TTg để tập trung tổ chức truyền thông.

2.3. Bước 3: Xác định đối tượng chính

Đối tượng chính là đối tượng chịu tác động của VBQPPL. Việc xác định được đối tượng chính sẽ giúp việc truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật đạt hiệu quả, tiết kiệm chi phí và đưa ra những kế hoạch phù hợp.

2.4. Bước 3: Xác định thông điệp truyền tải

Thông điệp giúp triển khai hiệu quả kế hoạch truyền thông của mình. Để tạo nên một thông điệp hay cần chú ý:

- Truyền tải các công việc đã thực hiện và vì sao lại thực hiện công việc này.

- Truyền tải những chính sách, nội dung mới trong dự thảo VBQPPL.

- Phù hợp với mục tiêu mà đề ra.

- Thể hiện đầy đủ những vấn đề muốn truyền thông đến công chúng.

2.5. Bước 4: Xác định hình thức truyền thông phù hợp

Cần chọn hình thức truyền thông phù hợp, thu hút được nhiều đối tượng chính tham gia. Trong mỗi hình thức truyền thông có thể chọn ra 1 loại hình phù hợp. Chẳng hạn, đối với hình thức truyền thông trên báo chí, có thể lựa chọn loại hình truyền thông trên báo giấy, báo điện tử, trang thông tin điện tử hoặc trên truyền thanh, truyền hình….[5].

Tùy vào ngân sách, mục tiêu và tính chất của truyền thông, có thể tích hợp lựa chọn nhiều hình thức truyền thông. Tuy nhiên luôn chú ý đến tính hiệu quả vì chỉ cần chọn lựa sai hình thức thì cho dù thông điệp hay chất lượng dự thảo chính sách, pháp luật có tốt nhưng hoạt động truyền thông sẽ không đạt được hiệu quả như mong đợi.

2.6. Bước 6: Xây dựng chiến thuật truyền thông chi tiết và ngân sách

Với bước này, những hoạt động chi tiết sẽ được miêu tả và tính đến. Xây dựng kế hoạch truyền thông chi tiết, trong đó xác định thời điểm truyền thông, các hoạt động cần thực hiện, dự toán kinh phí thực hiện.

2.7. Bước 7: Đo lường và báo cáo

Đây là bước cuối của kế hoạch truyền thông nhằm đo lường, đánh giá hiệu quả hoạt động truyền thông về dự thảo chính sách, pháp luật so với mục tiêu đã đề ra. Đánh giá và rút kinh nghiệm cho các hoạt động truyền thông tiếp theo. Những thước đo đánh giá một kế hoạch truyền thông hiệu quả là:

- Tần suất xuất hiện trên báo.

- Tương tác với công chúng sau hoạt động truyền thông.

- Phản hồi của công chúng về hoạt động truyền thông.

- Ý kiến góp ý, phản biện của công chúng về dự thảo chính sách, pháp luật

- Chất lượng của VBQPPL

- Đo lường số liệu tương tác với hoạt động truyền thông.

3. Xây dựng tài liệu truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật

3.1. Yêu cầu chung của Tài liệu truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật

Để hoạt động truyền thông dự thảo chính sách đạt hiệu quả, cơ quan chủ trì soạn thảo VBQPPL xây dựng tài liệu, nội dung truyền thông dự thảo chính sách bảo đảm đầy đủ, ngắn gọn, dễ hiểu, hình thức phong phú, sinh động. Tài liệu truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật gồm các nội dung chủ yếu sau đây: Sự cần thiết ban hành chính sách; mục đích, quan điểm xây dựng chính sách; phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của chính sách; Nội dung cơ bản của chính sách; Nội dung mới hoặc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ so với quy định hiện hành về quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của người dân, tổ chức, doanh nghiệp; chú trọng các vấn đề khó, có nhiều ý kiến khác nhau; Các nội dung khác cần thông tin rộng rãi đến người dân, tổ chức, doanh nghiệp và toàn xã hội (nếu có).

3.2. Xu hướng sử dụng video/hình ảnh trong truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật

Tài liệu truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật có thể được truyền tải thông qua một số hình thức sau: Infograpphic (sử dụng hình ảnh trong truyền thông chính sách); Bản tin truyền thông chính sách, pháp luật phát trên các phương tiện thông tin đại chính (báo hình, báo nói), Cổng/Trang Thông tin điện tử; Video clip truyền thông. Xu hướng truyền thông nói chung và truyền thông về dự thảo chính sách, pháp luật nói riêng hiện nay là sử dụng video/hình ảnh và đã tỏ ra hiệu quả hơn hẳn truyền thông theo phương thức truyền thống bằng những bài viết, vì các lý do sau đây:

+ Thu hút được sự chú ý

Hầu hết mỗi người sẽ có một khoảng thời gian tập trung nhất định, trong giai đoạn hiện nay, thông tin rất đa dạng nên mỗi người phải lựa chọn thông tin để chú ý. Nếu bài truyền thông có video/hình ảnh thì sẽ  tạo được sự chú ý của họ. Đó là một cách tạo động lực tuyệt vời để người xem có thể tìm hiểu sơ bộ rồi họ sẽ tìm hiểu nội dung chi tiết hơn.

 

Description: C:\Users\Administrator\Pictures\Infograpphic_Du_thao_Bo_luat_Lao_dong_sua_doi_2208172740 (2).jpg

                  Ví dụ về truyền thông về dự thảo Bộ Luật Lao động (sửa đổi)

 

+ Tập trung vào nội dung cơ bản của dự thảo chính sách, pháp luật

Dù chất lượng nội dung bài viết tốt, nhưng nếu có những hình ảnh minh họa phù hợp, kèm theo những câu ngắn gọn, dễ hiểu liên quan đến chính sách, nội dung chính của dự thảo VBQPPL sẽ tạo sự hấp dẫn, dễ hiểu, gây chú ý. Hình ảnh làm cho bài viết được sôi nổi và tạo cảm hứng hơn.

 

Description: C:\Users\Administrator\Pictures\video (2).jpg

          Ví dụ về truyền thông dự thảo Luật Đất đai sửa đổi (qua video)

 

4. Kỹ năng tổ chức diễn đàn, đối thoại lấy ý kiến về dự thảo chính sách, pháp luật

4.1. Hình thức tổ chức diễn đàn, đối thoại

Đây là hình thức tổ chức sự kiện truyền thông được nhiều bộ, ngành, địa phương tổ chức. Hình thức này gồm 02 loại hình như sau:

4.1.1. Diễn đàn, đối thoại trực tiếp

Tổ chức diễn đàn, đối thoại trực tiếp lấy ý kiến dự thảo VBQPPL là một hình thức của phổ biến pháp luật trực tiếp, tương tự tổ chức hội nghị, hội thảo lấy ý kiến. Ở đó, người chủ trì diễn đàn, báo cáo viên/chuyên gia về pháp luật và đại biểu tham dự diễn đàn được trao đổi, thảo luận, đối thoại trực tiếp.

Ưu điểm của hình thức này là linh hoạt, có thể tiến hành ở nhiều nơi, với số lượng người nghe khác nhau. Có thể tổ chức tập trung cho nhiều người tham dự để truyền thông; tạo điều kiện tương tác, giao lưu, chia sẻ về những vấn đề, nội dung của dự thảo văn bản. Tuy nhiên, hình thức tổ chức diễn đàn, đối thoại trực tiếp có hạn chế là chưa thực sự thuận tiện cho đối tượng tham dự diễn đàn do phải đến địa điểm chung, có thể gây tốn kém chi phí đi lại, ăn nghỉ.   

4.1.2. Diễn đàn, đối thoại trực tuyến

Tổ chức diễn đàn, đối thoại trực tuyến là hình thức thực hiện trao đổi, thảo luận, chia sẻ ý kiến về một số vấn đề, nội dung hoặc toàn bộ dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thông qua việc ứng dụng các phương tiện công nghệ thông tin.

Tổ chức diễn đàn, đối thoại trực tuyến có ưu điểm là thuận tiện cho đối tượng tham dự diễn đàn do không phải đến địa điểm tập trung; không tốn kém chi phí đi lại, ăn nghỉ. Nhưng hình thức này cũng có hạn chế là không phải nơi nào, địa bàn nào cũng có thể đáp ứng điều kiện về phương tiện, trang thiết bị để tổ chức diễn đàn, nhất là những địa bàn còn khó khăn trong tiếp cận, ứng dụng công nghệ thông tin.. Địa điểm tổ chức diễn đàn, đối thoại trực tuyến phải bảo đảm, được trang bị đầy đủ các phương tiện công nghệ thông tinhiện đại. Do không tập trung đại biểu tại địa điểm chung nên hạn chế hơn trong việc tương tác, giao lưu, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm, thông tin so với tổ chức diễn đàn, đối thoại trực tiếp.

4.2. Các bước tổ chức diễn đàn, đối thoại

4.2.1. Xây dựng, ban hành kế hoạch tổ chức

Xây dựng, ban hành kế hoạch tổ chức là công việc đầu tiên, nhằm tạo cơ sở để việc tổ chức diễn đàn, đối thoại đạt yêu cầu về nội dung và tiến độ thực hiện. Kế hoạch nhằm xác định mục đích, yêu cầu, nội dung, tiến độ thời gian và phân công trách nhiệm của cơ quan, đơn vị có liên quan; kinh phí bảo đảm. Kế hoạch tổ chức diễn đàn, đối thoại do cơ quan chủ trì tổ chức diễn đàn xây dựng, hoàn thiện và trình người có thẩm quyền ban hành.

4.2.2. Chuẩn bị nội dung và điều kiện tổ chức diễn đàn, đối thoại

a) Về nội dung, bao gồm các vấn đề được nêu tại mục 3.1 phần này

Nội dung của diễn đàn cần được nghiên cứu, lựa chọn, chuẩn bị kỹ lưỡng, phải phù hợp với đối tượng tham gia diễn đàn, đối thoại và phù hợp với thời lượng tổ chức diễn đàn.

Ví dụ: Khi tổ chức diễn đàn, đối thoại lấy ý kiến của thanh niên về dự thảo Bộ luật Dân sự, cơ quan chủ trì tổ chức diễn đàn cần lưu ý đây là Bộ luật có số lượng điều luật lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó nên giới hạn, lựa chọn những vấn đề, nội dung, điều luật có tác động, liên quan trực tiếp đến thanh niên như: quyền nhân thân, chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, giao dịch dân sự, giám hộ, nơi cư trú...

b)Cơ quan chủ trì có thể xem xét, quyết định về số lượng, thành phần tham dự diễn đàn cho phù hợp, bảo đảm thành phần tham dự là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, đại diện theo ngành, nghề, vùng miền.

c) Thời gian tổ chức diễn đàn, đối thoại phải phù hợp, bám sát yêu cầu, tiến độ xây dựng, ban hành dự thảo văn bản theo chương trình, kế hoạch công tác[6]. Địa điểm tổ chức diễn đàn, đối thoại bảo đảm thuận tiện, tạo điều kiện cho đối tượng tham gia diễn đàn đầy đủ.

d) Kinh phí tổ chức diễn đàn, đối thoại phải được chuẩn bị phù hợp với yêu cầu, mục đích, quy mô của diễn đàn. Cơ quan chủ trì và cơ quan phối hợp tổ chức diễn đàn, đối thoại cần phân công rõ đầu mối thực hiện để việc tổ chức diễn đàn đạt hiệu quả.

4.3.3. Lựa chọn báo cáo viên, chuyên gia pháp luật

Báo cáo viên, chuyên gia pháp luật là người quan trọng, được giao trách nhiệm truyền đạt, giới thiệu về dự thảo chính sách, pháp luật. Họ cũng có thể tham gia trao đổi, thảo luận, đối thoại tại diễn đàn và có vai trò quan trọng đến chất lượng, kết quả tổ chức diễn đàn, đối thoại.

Khi lựa chọn báo cáo viên, chuyên gia pháp luật, cần lưu ý:

(i) Chọn báo cáo viên/chuyên gia pháp luật là người có kinh nghiệm, hiểu biết sâu về lĩnh vực của dự thảo văn bản; tốt nhất là tham gia Ban/Tổ soạn thảo, Tổ biên tập. Cùng với người chủ trì diễn đàn, báo cáo viên/chuyên gia là người tham gia trao đổi, chia sẻ, giải đáp các ý kiến góp ý của đại biểu tham gia diễn đàn, nhất là các ý kiến trái chiều, ý kiến phản biện đối với nội dung dự thảo văn bản.

(ii) Chọn báo cáo viên/chuyên gia pháp luật có kỹ năng thuyết trình tốt. Các quy định pháp luật luôn khô cứng, do đó để diễn đàn, đối thoại được lôi cuốn, hấp dẫn đòi hòi báo cáo viên/chuyên gia bên cạnh có kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, thì cũng cần có phương pháp sư phạm và kỹ năng thuyết trình tốt.

 (iii) Ngoài báo cáo viên/chuyên gia pháp luật là diễn giả thuyết trình về dự thảo văn bản và tham gia trao đổi, thảo luận, cơ quan chủ trì diễn đàn, đối thoại có thể mời thêm chuyên gia khác để tham gia trao đổi, đối thoại, thảo luận với đại biểu về các nội dung, vấn đề liên quan (có thể là chuyên gia pháp luật hoặc chuyên gia xã hội học…). 

4.3.4. Dự kiến các vấn đề, nội dung trọng tâm gợi ý trao đổi, thảo luận

Vấn đề, nội dung trọng tâm được gợi ý, thảo luận tại diễn đàn, đối thoại có thể là:

(i) Vấn đề, chính sách chủ yếu trong dự thảo VBQPPL.

(ii) Vấn đề, chính sách cơ quan chủ trì soạn thảo còn băn khoăn, đang còn có ý kiến, cách tiếp cận khác nhau.

(iii) Vấn đề, chính sách phức tạp, nhạy cảm, mới chưa có kinh nghiệm thực tiễn.

(iv) Thực trạng (tập trung vào tồn tại, hạn chế, bất cập và nguyên nhân) thi hành các quy định của văn bản hiện đang có hiệu lực để có cơ sở thực tiễn cho việc đề nghị sửa đổi, bổ sung.

4.3.5. Dẫn đề, định hướng diễn đàn, đối thoại

- Người chủ trì diễn đàn, đối thoại là người khai mạc, định hướng diễn đàn và là người kết luận khi kết thúc diễn đàn, đối thoại.

- Diễn đàn, đối thoại có thành công hay không chịu sự chi phối, tác động bởi năng lực, kinh nghiệm của người chủ trì diễn đàn.

- Dẫn đề diễn đàn, đối thoại được thực hiện ngay sau khi phát biểu khai mạc diễn đàn, đối thoại. Tuy nhiên, cũng có trường hợp dẫn đề diễn ra đan xen trong quá trình thực hiện từng nội dung, vấn đề của diễn đàn, đối thoại.

4.3.6. Báo cáo viên/chuyên gia pháp luật trình bày, giới thiệu nội dung của dự thảo VBQPPL

Tùy thuộc thời lượng tổ chức diễn đàn, đối thoại, báo cáo viên/chuyên gia dự kiến các nội dung trình bày, giới thiệu dự thảo văn bản cho phù hợp, tránh rơi vào tình trạng thực hiện hết nội dung nhưng chưa hết thời gian tổ chức hoặc kéo dài quá thời gian đã định trước (“cháy” chương trình), làm ảnh hưởng tới chất lượng của diễn đàn, đối thoại. Việc trình bày, giới thiệu nội dung của dự thảo VBQPPL có thể theo hướng khái quát hoặc cụ thể. Thông thường, tại diễn đàn, đối thoại, báo cáo viên/chuyên gia sẽ trình bày một số nội dung có liên quan đến dự thảo văn bản, chính sách như: (i) Sự cần thiết ban hành; (ii) Mục đích, quan điểm chỉ đạo xây dựng;  (iii) Những chính sách, nội dung cơ bản;  (iv) Những vấn đề còn có quan điểm, ý kiến khác nhau…

Tùy thuộc đối tượng tham dự diễn đàn, đối thoại, mục đích, yêu cầu, thời lượng, báo cáo/chuyên gia sẽ lựa chọn nội dung trình bày cho phù hợp, đáp ứng nhu cầu về tiếp cận thông tin, lôi cuốn, tạo cảm hứng cho đối tượng.

Ví dụ, với đối tượng tham dự là người dân, báo cáo viên/chuyên gia nên bỏ qua hoặc nói khái quát về các nội dung (i), (ii) nêu trên, nên tập trung, dành phần lớn thời gian để thuyết minh sâu, làm rõ hơn về những chính sách, nội dung cơ bản tại điểm (iii) và (iv) để cung cấp kiến thức, thông tin giúp cho đối tượng hiểu hơn và tham gia ý kiến.

4.3.7. Trao đổi, thảo luận, đối thoại hai chiều

Đây là phần quan trọng nhất của diễn đàn, đối thoại. Hiệu quả của diễn đàn, đối thoại (thu nhận được ý kiến góp ý có chất lượng, khả thi hay không) chịu sự chi phối của phần trao đổi, thảo luận, đối thoại hai chiều.

Trao đổi, thảo luận, đối thoại hai chiều có sự tham gia chủ yếu của cơ quan chủ trì diễn đàn, đối thoại thông qua người chủ trì, dẫn dắt, định hướng nêu tại điểm 4.3.4 nêu trên, báo cáo viên/chuyên gia, đại biểu tham dự diễn đàn, đối thoại. Vì vậy, đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp, các bên có thời lượng hợp lý để tham gia trao đổi, thảo luận, đối thoại.

Để đạt kết quả trong trao đổi, thảo luận, đối thoại, ngoài kiến thức, kinh nghiệm, các bên tham gia cần lưu ý một số yêu cầu như sau:

(i) Đối với người chủ trì diễn đàn/đối thoại:

Người chủ trì có nhiệm vụ định hướng, dẫn dắt diễn dàn, bảo đảm việc tổ chức diễn đàn từ khi bắt đầu đến khi kết thúc được diễn ra theo yêu cầu, mục tiêu, chương trình đề ra. Người chủ trì phải thực hiện nhiệm vụ nắm bắt, xâu chuỗi, thể hiện quan điểm đánh giá, tiếp thu, ghi nhận các ý kiến góp ý phù hợp, khả thi để nghiên cứu, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản, chính sách. Đối với ý kiến không phù hợp, không khả thi, người chủ trì cần có giải thích, nêu rõ lý do để tạo sự đồng thuận, chia sẻ, tạo tâm lý thoải mái cho đại biểu.

(ii) Đối với báo cáo viên/chuyên gia: Tại phần trao đổi, thảo luận, đối thoại, báo cáo viên/chuyên gia tham gia chủ yếu đối với các ý kiến có liên quan đến những nội dung trình bày về dự thảo văn bản. Có thể đại biểu chưa hiểu hoặc muốn hiểu rõ thêm về một hoặc một số vấn đề, nội dung do báo cáo/chuyên gia trình bày. Trên thực tế, cơ quan chủ trì tổ chức diễn đàn, đối thoại thường sẽ mời báo cáo/chuyên gia là những người đang công tác tại cơ quan chủ trì soạn thảo VBQPPL.

(iii) Đối với đại biểu tham dự diễn đàn, đối thoại: Để ý kiến tại diễn đàn, đối thoại được chất lượng, đại biểu tham dự cần nghiên cứu kỹ dự thảo văn bản và các tài liệu có liên quan; nghiên cứu, chuẩn bị trước, chu đáo ý kiến góp ý; tập trung vào những nội dung, vấn đề gợi ý trao đổi, thảo luận đã được người chủ trì diễn đàn định hướng trước đó.

4.3.8. Kết luận diễn đàn, đối thoại

Người chủ trì diễn đàn, đối thoại tổng kết, kết luận diễn đàn, đối thoại sau khi kết thúc trao đổi, thảo luận. Thông thường ý kiến kết luận sẽ tập trung vào các vấn đề: (i) Khái quát các ý kiến phát biểu, góp ý; (ii) Đánh giá, ghi nhận, biểu dương các ý kiến có chất lượng, khả thi; (iii) Dự kiến những ý kiến có thể sẽ được Ban Tổ chức, cơ quan chủ trì diễn đàn, đối thoại nghiên cứu, tiếp thu, đề xuất cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản; (iv) Rút kinh nghiệm đối với những vẫn đề còn hạn chế, chưa đảm bảo yêu cầu, mục tiêu đề ra (nếu có).

4.3.9. Tổng hợp ý kiến tại diễn đàn, đối thoại và báo cáo kết quả tổ chức diễn đàn

Cơ quan chủ trì tổ chức diễn đàn, đối thoại lập bảng tổng hợp ý kiến góp ý và xây dựng báo cáo kết quả tổ chức diễn đàn, đối thoại. Trường hợp cơ quan chủ trì tổ chức diễn đàn cũng chính là cơ quan chủ trì soạn thảo VBQPPL thì cần tổ chức tiếp thu các ý kiến góp ý và chỉnh lý dự thảo chính sách, pháp luật, đồng thời bổ sung các vấn đề góp ý trong Báo cáo tổng hợp, tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý đối với dự thảo chính sách, dự thảo VBQPPL theo hồ sơ quy định của Luật Ban hành VBQPPL. Trường hợp cơ quan chủ trì tổ chức diễn đàn không phải là cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản thì gửi báo cáo kèm tổng hợp ý kiến cho cơ quan chủ trì soạn thảo và kiến nghị, đề xuất việc nghiên cứu, tiếp thu, hoàn thiện dự thảo chính sách, VBQPPL.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 15

Kỹ năng phbiến, giáo dục pháp luật qua một số phương tiện thông tin đại chúng.

 

1.     Khái niệm về phương tiện thông tin đại chúng    

          Theo cách hiểu thông thường, truyền thông đại chúng (tên tiếng Anh là Mass Communications) là một trong ba hình thức của truyền thông[7]. Truyền thông đại chúng được hiểu là các hoạt động lan truyền thông tin nhanh chóng đến nhóm công chúng lớn với số lượng đông đảo người tiếp nhận. Hoạt động truyền thông đại chúng được thực hiện thông qua các phương tiện cụ thể được áp dụng nhằm lan tỏa thông tin trên diện rộng, một cách nhanh chóng, đồng thời. Các phương tiện này được gọi là phương tiện thông tin đại chúng. Hiện nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, phương tiện truyền thông đại chúng có thể là bất kỳ nguồn nào cho phép chủ thể gửi thông tin đến công chúng một cách đại trà, đồng thời và nhanh chóng và cho phép mọi người có thể kết nối để truy cập thông tin. Có thể kể đến một số phương tiện như: Internet, mạng xã hội, tivi, báo đài…;

          Về mặt pháp lý, phương tiện thông tin đại chúng được xác định là một trong các hình thức của phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL)[8]. Trong lĩnh vực PBGDPL, phương tiện thông tin đại chúng thường được hiểu đồng nhất với khái niệm hoạt động “báo chí”. Ví dụ, theo khoản 2 Điều 3 Thông tư số 38/2017/TT-BTTT ngày 13/12/2017 của Bộ Thông tin và Truyền thông hướng dẫn các cơ quan báo chí xây dựng chương trình, nội dung phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân, khái niệm “phương tiện thông tin đại chúng” được hiểu là phương tiện được cơ quan báo chí sử dụng để cung cấp, truyền dẫn thông tin tới đông đảo công chúng bao gồm các đài phát thanh, đài truyền hình, báo in, báo điện tử và trang/Cổng thông tin điện tử. Hiện nay, các hình thức truyền thông đại chúng được phân thành 04 nhóm bao gồm:

          - Phương tiện in được thể hiện dưới dạng như: báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn… được in thành văn bản;

          - Các chương trình được phát trên sóng phát thanh;

          - Các chương trình truyền hình, chương trình nghe – nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện khác nhau và phát trên sóng truyền hình;

          - Các bài viết, tin tức được đăng tải trên mạng thông tin máy tính.

          2. Vai trò của phương tiện thông tin đại chúng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật:

Theo đánh giá của đồng chí Trương Vĩnh Trọng, thì phương tiện thông tin đại chúng (hay có thể hiểu là cơ quan báo chí) được đánh giá là một trong những kênh tuyên truyền pháp luật có sức mạnh và vai trò to lớn.[9] Với đặc tính cơ bản của phương tiện thông tin đại chúng là tính phổ cập, nhanh chóng, kịp thời và rộng khắp, trong công tác PBGDPL, phương tiện thông tin đại chúng đóng vai trò quan trọng, là công cụ, phương tiện hữu hiệu đưa pháp luật đến với cán bộ, nhân dân, cụ thể:

- Giúp cho đông đảo cán bộ, nhân dân dễ dàng tiếp thu, nắm bắt, tìm hiểu, nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật.

- Góp phần phản ánh thực tiễn thi hành pháp luật và hướng dẫn dư luận xã hội ủng hộ, biểu dương người tốt, việc tốt trong chấp hành pháp luật, lên án, phê phán những biểu hiện tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội, tạo niềm tin vào pháp luật, vào công lý trong mọi tầng lớp nhân dân.

- Đóng vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Bên cạnh việc phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến nhân dân, phương tiện thông tin đại chúng còn là diễn đàn mở giúp thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân, phản ánh những đề xuất, kiến nghị của người dân với Đảng, Nhà nước về các chính sách, các quy định pháp luật chưa thật phù hợp, về những bất cập, những vướng mắc, bức xúc trong thực tiễn thi hành, chấp hành pháp luật.

- Nâng cao hiệu quả và chất lượng của thông tin pháp luật được cung cấp.

3. Các đặc trưng cơ bản của phổ biến, giáo dục pháp luật qua các phương tiện thông tin đại chúng

3.1. Đối tượng phổ biến rộng và đa dạng: Với bản chất của hoạt động truyền thông đại chúng, PBGDPL thông qua phương tiện thông tin đại chúng được sử dụng khi cần cung cấp thông tin pháp luật trên diện rộng, hướng tới thu hút số lượng đông đảo các cá nhân, tổ chức. Bên cạnh đó, do hướng tới việc tăng số lượng người được tiếp cận thông tin nên đối tượng của các hoạt động PBGDPL qua phương tiện thông tin đại chúng sẽ rất đa dạng, ít chịu sự kiểm soát của đối tượng thực hiện và phụ thuộc vào thị hiếu, sở thích và nhu cầu của từng đối tượng cụ thể.

3.2. Hình thức phong phú, hấp dẫn:Như đã đề cập, việc PBGDPL qua các phương tiện thông tin đại chúng có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức thể hiện khác nhau như: tin, bài, tọa đàm, diễn đàn, truyện ngắn, tiểu phẩm, phim truyền hình, phim tài liệu,… cho phép các thông tin pháp luật được truyền tải, lồng ghép dưới các hình thức giúp hấp dẫn tối đa số lượng người theo dõi, tiếp nhận thông tin.

3.3. Tính nhanh chóng, kịp thời: Một trong những mục tiêu của truyền thông đại chúng là hướng tới cung cấp thông tin tới một số lượng lớn chủ thể do đó, một trong những đặc điểm nổi bật của phương tiện thông tin đại chúng là thông tin truyền tải phải nhanh nhạy, kịp thời, cập nhật để đáp ứng nhu cầu được thông tin, tìm hiểu về pháp luật của người dân. Hiện nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ, đặc tính càng được thể hiện rõ nét, đặc biệt là với hình thức báo điện tử.

3.4. Nội dung thông tin pháp luật bảo đảm tính phổ cập, linh hoạt: Do đối tượng phục vụ của hoạt động truyền thông đại chúng là đông đảo công chúng với nhu cầu, tính cách và suy nghĩ khác nhau nên để tiếp cận với đại đa số quần chúng thì nội dung thông tin cần hướng tới tính phổ cập, ngắn gọn để phù hợp với đại đa số quần chúng. Bên cạnh đó, mỗi cơ quan báo chí hay phương tiện truyền thông đều có một tập đối tượng, khách hàng theo dõi và trung thành riêng (như thanh niên, phụ nữ, nông dân, nhà khoa học…) với các trình độ khác nhau. Vì vậy, nội dung thông tin pháp luật cũng cần có sự linh hoạt để điều chỉnh ngay từ khi lựa chọn phương tiện truyền thông để phù hợp với đặc tính, thị hiếu của từng tập đối tượng cụ thể.

3.5. Hiệu quả hoạt động PBGDPL hướng tới tạo dư luận xã hội và tăng số lượng đối tượng tiếp cận thông tin: Như đã đề cập, một trong những đặc điểm của hoạt động PBGDPL thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng là hướng tới việc tiếp cận số lượng lớn quần chúng, đồng thời chủ thể thực hiện hoạt động PBGDPL khó theo dõi và đánh giá cụ thể sự thay đổi của từng đối tượng được tiếp cận thông tin. Thay vào đó, hiệu quả hoạt động PBGDPL được thể hiện thông qua số lượng người tiếp cận và khả năng tạo dư luận xã hội về vấn đề được phổ biến.

4. Một số kỹ năng khi thực hiện PBGDPL trên phương tiện thông tin đại chúng

4.1. Chọn vấn đề, sự kiện để thực hiện truyền thông đại chúng: Những vấn đề, sự kiện được lựa chọn nên là những vấn đề có thật, mang tính thời sự, đang xảy ra trong đời sống chính trị pháp lý, có tính chất tiêu biểu, có ý nghĩa quan trọng trong từng phạm vi, từng thời điểm, được dư luận xã hội quan tâm. Việc lựa chọn vận đề cần có chọn lọc những sự kiện, vấn đề nổi bật, cần hạn chế thực hiện truyền thông các nội dung, sự kiện chỉ mang tính hành chính, tóm tắt thuần túy như thông tin về hoạt động tổng kết, sơ kết công tác…

4.2. Lựa chọn cách thể hiện và phương tiện truyền thông: Việc lựa chọn hình thức truyền thông phù hợp sẽ làm tăng tính hiệu quả của thông tin và tăng cường sức hút với cộng đồng. Đối với những vấn đề cần thông tin nhanh nhạy, kịp thời, ngắn gọn thì lựa chọn thể loại tin, phóng sự ngắn. Đối với những vấn đề cần trình bày một cách chi tiết, phân tích, nhìn nhận, đánh giá vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau thì lựa chọn thể loại bài, chương trình tọa đàm, phân tích.... Đối với những vấn đề gai góc, khó, phức tạp thì có thể cân nhắc sử dụng các hình thức chương trình , bài viết dài kỳ. Đồi với những vấn đề “kén” người xem  thì cần lồng ghép nội dung thông tin pháp luật trong các chương trình văn hóa, phim ảnh, game show… để thu hút sự quan tâm theo dõi của khán giả.

4.3. Xác định đối tượng thông tin: Thông thường các thông tin pháp luật có đối tượng rộng rãi, không bó hẹp trong một phạm vi cụ thể. Tuy nhiên, đcác hoạt động truyền thông phát huy hiệu quả cao nhất, cần xác định cụ thể đối tượng chủ yếu cần được thông tin. Từ đó căn cứ vào trình độ nhận thức, thị hiếu, sở thích nói chung của đối tượng đó mà chọn lọc các phương tiện truyền thông đang phục vụ đối tượng này, đồng thười lựa chọn cách thể hiện, ngôn ngữ phù hợp.

4.4. Thu thập thông tin: Phải thu thập đầy đủ số liệu, sự kiện chủ yếu, phản ánh được, bao quát được vấn đề định nêu. Có những sự kiện, số liệu chính và sự kiện, số liệu phụ. Tùy theo tính chất của vấn đề cần thông tin, phải thu thập được những sự kiện, số liệu chính. Bên cạnh đó, cũng cần thu thập các số liệu, sự kiện phụ giúp làm sáng tỏ thêm sự kiện, số liệu chính.

4.5. Xử lý thông tin:

Việc xử lý thông tin bao gồm:

- Kiểm tra và nắm vững tính chính xác của thông tin: sau khi thu thập thông tin, cần kiểm tra tính chính xác, khách quan của thông tin. Nếu còn nghi ngờ, phân vân về thông tin nào đó mà chưa có điều kiện kiểm tra, xác minh thì kiên quyết không sử dụng. Việc kiểm tra thông tin được thực hiện bằng nhiều cách: thông qua tư liệu, thông qua nhân chứng… Tuy nhiên, cần lưu ý nguồn thông tin kiểm chứng phải là các nguồn chính thống, có giá trị tham khảo hoặc là các chuyên gia có uy tín.

- Lựa chọn thông tin: Lựa chọn tức là sàng lọc và loại bỏ những thông tin không cần thiết, những thông tin còn nghi ngờ về độ chính xác, chân thực, khách quan.

- Sắp xếp, so sánh, đối chiếu các thông tin khác, “dựng một bức tranh có ý nghĩa về diễn biến của sự kiện, mối quan hệ giữa các thông tin, mối liên kết” để có được cái nhìn bao quát về vấn đề, sự kiện.

- Nhận dạng, phân biệt, tập trung sự chú ý vào các sự việc và nhân vật quan trọng trong tin, bài; đồng thời giải quyết từng điểm để làm cho tin, bài hấp dẫn, dễ hiểu.

4.6. Dựng một dàn bài:

Xây dựng bố cục, kịch bản hay cách trình bày thông tin là công đoạn rất quan trọng, có thể nói rằng tính sáng tạo khi thực hiện hoạt động PBGDPL trên truyền thông đại chúng là nằm ở bố cục, sắp xếp sự kiện, số liệu để làm nổi bật chủ đề, gây ấn tượng cảm xúc đối với người đọc. Khi đã xác định được góc độ, mục tiêu và yêu cầu của chương trình, tin bài và đã lựa chọn được thông tin cần thiết thì nhiệm vụ tiếp theo là làm dàn ý và sắp xếp các nội dung cho phù hợp. Việc làm dàn ý bài viết theo một kết cấu nhất định sẽ giúp cho thông tin được truyền tải mạch lạc, người đọc dễ hiểu, dễ cảm nhận được vấn đề, thông tin được phản ánh.

Có nhiều cách kết cấu các thông tin pháp luật, cụ thể là:

- Kết cấu theo thời gian: sắp xếp bài viết theo trật tự thời gian;

- Kết cấu theo phương pháp diễn dịch: bằng cách đề cập đến thông tin chính, sau đó chứng minh bằng các lý lẽ dựa trên các sự việc;

- Kết cấu theo phương pháp quy nạp: trình bày nội dung bài viết từ các sự việc, tình trạng, sau đó tổng hợp, khái quát;

- Kết cấu kim tự tháp ngược: tức là kết cấu theo thứ tự quan trọng giảm dần, thông tin chính đề cập trước, sau đó là các thông tin bổ sung;

- Kết cấu theo không gian: Đề cập tới các thông tin trên thế giới sau đó tới tin trong nước hoặc ngược lại…

4.7. Sản xuất chương trình,  tin, bài:

Tin, bài tuyên truyền pháp luật phải thể hiện ngắn gọn, súc tích, rõ ràng, luôn thu hút độc giả từ đầu đến cuối, tránh viết “dây cà ra dây muống”. Ngôn ngữ trong tin, bài tuyên truyền pháp luật chủ yếu mang tính truyền tải thông tin, trong sáng, dễ hiểu, giản dị, chuẩn xác trong sử dụng thuật ngữ pháp lý. Tuy nhiên, thể tài tin, bài cũng rất cần sự sáng tạo trong ngôn ngữ thể hiện, cần sử dụng các hình thức đảo câu, đảo ý để tăng sự hấp dẫn của tin, bài; sử dụng trích dẫn, ví dụ cho phù hợp, góp phần mang lại cho bài viết sự chân thực và sống động…

Mỗi đoạn trong tin, bài cần tập trung thể hiện một ý, chuyển đoạn một cách chặt chẽ, logic và không được hư cấu, thông tin thiếu căn cứ rõ ràng.

5. Kỹ năng phối hợp với các cơ quan báo chí trong thực hiện các hoạt động PBGDPL trên phương tiện thông tin đại chúng

Để thực hiện các hoạt động PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chung đòi hỏi vừa cần có kiến thức pháp luật và nghiệp vụ truyền thông, báo chí. Do đó, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, nắm giữ thông tin pháp luật với các cơ quan báo chí trong triển khai các hoạt động PBGDPL trên phương tiện thông tin đại chúng là cần thiết. Để hoạt động phối hợp được thực hiện hiệu quả, thì cần thực hiện các công việc sau:

5.1. Các cơ quan quản lý nhà nước phải chủ động làm đầu mối phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan báo chí trong định hướng các hoạt động PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng

Một trong những hình thức phối hợp hiệu quả là tổ chức giao ban, họp báo định kỳ giữa cơ quan nhà nước với phóng viên, báo chí để thông tin, định hướng nội dung PBGDPL trong năm, từng tháng, từng quý. Các buổi sinh hoạt này, một mặt giúp báo chí kịp thời phổ biến những chính sách, văn bản pháp luật mới; mặt khác, đó cũng là dịp để đánh giá, rút kinh nghiệm về công tác PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng trong lĩnh vực quản lý của cơ quan nhà nước thời gian qua và định hướng cho công tác này trong thời gian tiếp theo.

5.2. Xây dựng kế hoạch thực hiện các hoạt động PBGDPL trên các phương tiện truyền thông đại chúng

Kế hoạch phối hợp có thể bao gồm những nội dung sau:

- Xác định nội dung và hình thức PBGDPL trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

- Thời lượng, độ dài của chương trình, tin bài; thời gian phát sóng, phát hành ấn phẩm.

- Phân công trách nhiệm thực hiện:

+ Cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm về nội dung pháp lý của hoạt động, cung cấp sách báo, tài liệu pháp luật; tạo điều kiện cho phóng viên đi cơ sở viết tin, bài, thực hiện chương trình, ghi âm, ghi hình trong phòng thu, trường quay hoặc hiện trường; cử cán bộ cùng thực hiện hoạt động PBGDPL; hỗ trợ một phần kinh phí thực hiện; giúp cơ quan báo chí tổ chức mạng lưới cộng tác viên, chuyên gia; làm đầu mối tổ chức các cuộc sơ kết, tổng kết hoạt động PBGDPL trên phương tiện truyền thông đại chúng, tổ chức khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác PBGDPL trên phương tiện truyền thông đại chúng.

+ Cơ quan báo chí chịu trách nhiệm sản xuất và thực hiện các hình thức PBGDPL trên phương tiện truyền thông đại chúng theo kế hoạch phối hợp; thực hiện theo đúng quy định của Luật Báo chí về đính chính, cải chính, chịu trách nhiệm về nội dung thông tin và lịch phát sóng, phát hành.

- Xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ cộng tác viên, phóng viên, biên tập viên thực hiện các hoạt động PBGDPL trên phương tiện truyền thông đại chúng. Theo đó, đội ngũ chịu trách nhiệm thực hiện các hoạt động PBGDPL phải  vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có tư cách đạo đức tốt, đồng thời phải có trình độ và kiến thức về pháp luật. Hai phương pháp để tạo nguồn cho đội ngũ này là: (i) Tuyển những người tốt nghiệp chuyên ngành luật về cơ quan báo chí làm phóng viên, biên tập viên để đào tạo thêm về nghiệp vụ báo chí; hoặc (ii) Đào tạo nâng cao trình độ pháp luật cho đội ngũ phóng viên để bổ sung nguồn nhân lực thực hiện công tác này.

Để nâng cao chất lượng đội ngũ này, cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan báo chí cần phối hơp thực hiện một số hoạt động sau:

+ Tổ chức các hội nghị chuyên đề, các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật ngắn ngày, theo chuyên đề nhằm nâng cao nghiệp vụ, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cộng tác viên, phóng viên, biên tập viên về pháp luật;

+ Tổ chức các câu lạc bộ pháp luật cho đội ngũ cộng tác viên, phóng viên, biên tập viên về pháp luật. Đây là nới giúp quy tụ những người có kỹ năng, kinh nghiệm để trao đổi học tập kinh nghiệm.

+ Tổ chức các cuộc thi viết về pháp luật để phát hiện và mở rộng mạng lưới cộng tác viên và là nơi để nâng cao, rèn luyện nghiệp vụ cho các phóng viên, biên tập viên.

+ Cung cấp các tài liệu nghiệp vụ báo chí, tài liệu pháp luật cho đội ngũ cộng tác viên, phóng viên, biên tập viên pháp luật.

- Khen thưởng đổi với những cá nhân và tập thể có thành tích xuất sắc trong công tác PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng. Việc khen thưởng căn cứ trên đánh giá của các cơ quan quản lý nhà nước về hiệu quả hoạt động PBGDPL của các cơ quan báo chí. Việc khen thưởng cần thực hiện thường xuyên, kịp thời để động viên, khuyến khích những cộng tác viên, phóng viên, biên tập viên tích cực tham gia, thực hiện hoạt động PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng.

 

 

 

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 16

 Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng biên giới, biển đảo

 

Hiện nay, người dân tộc thiểu số có số lượng trên 14 triệu người, đa phần đang sống và làm việc tại các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển đảo. Tại khu vực biên giới, hải đảo, những năm gần đây, lực lượng Bộ đội Biên phòng đã triển khai hiệu quả Đề án “Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, Nhân dân vùng biên giới, hải đảo”. Thông qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) để vận động cán bộ và Nhân dân chấp hành nghiêm túc các văn bản pháp luật về quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia như hiệp định, Quy chế biên giới, Luật Biên giới quốc gia, các nghị định, quy định trong việc quản lý, bảo vệ biên giới. Từ đó làm chuyển biến và nâng cao nhận thức của cán bộ và Nhân dân biên giới, gắn PBGDPL với nhiệm vụ thường xuyên của Bộ đội Biên phòng và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của chính quyền địaphương.

Trong phạm vi chuyên đề này, do đặc thù nhiệm vụ, công tác của lực lượng Bộ đội Biên phòng nên chỉ đề cập kỹ năng PBGDPL cho người dân đangsinhsốngvàlàmviệctạivùngdântộcthiểusố,miềnnúi,vùngbiêngiới,biểnđảo. Từthựctiễncôngtácvàtìnhhìnhđặcthùcủatừngđịabàn,độingũcánbộchínhtrị,báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố, các đồnbiênphòngđãtriểnkhaixâydựngnhiềumôhìnhPBGDPL.

I. NỘI DUNG, HÌNH THỨC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁPLUẬT

1.    Từ năm 2013 cho đến nay, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng đã và đang phối hợp với các Bộ, ban, ngành Trung ương và địa phương thực hiện hiệu quả Đề án “Tăng cường PBGDPL cho cán bộ, Nhân dân vùng biên giới, hải đảo” (nay là Đề án “Phát huy vai trò của lực lượng Quân đội nhân dân tham gia công tác PBGDPL, vận động Nhân dân chấp hành pháp luật tại cơ sở”). Đã có hàng triệu lượt người tham gia các hoạt động của Đề án do Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố biên giới, biển đảo chủ trì theo phương châm “có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải”. Theo đó, đối với đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng biên giới, biển đảo nói riêng, nội dung tuyên truyền chủ yếu tập trung vào các quy định pháp luật về dân tộc, tôn giáo, trách nhiệm tham gia bảo vệ chủ quyền, giữ gìn quốc phòng - an ninh. Ngoài ra, nội dung PBGDPL còn tập trung vào các quyền và nghĩa vụ của người dân;chínhsách,phápluậtmớicóliênquanđếnđồngbàodântộcthiểusố;cáclĩnh vực pháp luật liên quan đến hôn nhân và gia đình, đào tạo nghề, lao động, việc làm, hình sự, bảo vệ môi trường, giao thông đường bộ...

Tại tuyến biên giới đất liền, nội dung PBGDPL tập trung vào các văn kiện pháp lý về biên giới, Luật Biên giới quốc gia, Luật An ninh quốc gia, Nghị định số 34/2014/NĐ-CP ngày 29/4/2014 của Chính phủ về Quy chế khu vực biên giới đất liền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật đất đai, tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ và phát triển rừng, pháp luật về phòng, chống ma túy, buôn bán người; những quy định pháp luật khác gắn liền với đời sống lao động của người dân...

Tại tuyến biển, hải đảo, nội dung PBGDPL tập trung vào các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các quốc gia trên Biển Đông (DOC), Luật Biển Việt Nam năm 2012, Nghị định số 71/2015/NĐ-CP ngày 03/9/2015 của Chính phủ về quản lý hoạt động của người, phương tiện trong khu vực biêngiớibiểnnướcCộnghòaxãhộichủnghĩaViệtNam,LuậtThủysản,nhiệmvụbảo vệ chủ quyền biển đảo của lực lượng Bộ đội Biên phòng, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của lực lượng làm nhiệm vụ trênbiển...

2.    Với những nội dung trọng tâm được định hướng để triển khai PBGDPL cho người dân vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng biên giới, biển đảo nói trên, hoạt động tuyên truyền, PBGDPL đã và đang được Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố trong cả nước thực hiện thông qua khá nhiều hình thức khác nhau như: Thông qua phổ biến pháp luật trực tiếp; biên soạn, phát hành tài liệu pháp luật, tờrơi, tờ gấp; tuyên truyền cổ động trực quan trên pa-nô, áp-phích… tại khu vực biên giới; phối hợp với các tổ chức đoàn thể tại các xã, phường, thị trấn biên giới tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; tổ chức sinh hoạt các câu lạc bộ pháp luật; xây dựng và khai thác Tủ sách pháp luật tại các đồn biên phòng và các thiết chế văn hóa sở; tư vấn pháp luật trợ giúp pháp lý; PBGDPL thông qua các loại hình văn hóa, văn nghệ; PBGDPL thông qua tổ chức sinh hoạt “Ngày Phápluật”...

II. MỘT SỐ KỸ NĂNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁPLUẬT

1. Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp (kỹ năng tuyên truyền miệng về phápluật)

Có thể nói, đây là kỹ năng được ứng dụng nhiều trong hoạt động PBGDPL của Bộ đội Biên phòng do đặc thù của đối tượng PBGDPL là người dân tộc thiểu sốkhuvựcmiềnnúi,vùngbiêngiới,biểnđảo.Vìvậy,việchìnhthànhkỹnăng PBGDPL trực tiếp có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình thực hiện hoạt động này. Trong quá trình PBGDPL trực tiếp, cần phải rèn luyện những kỹ năng sau đây:

Thứ nhất, cần tạo được thiện cảm ban đầu cho người nghe

Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, cán bộ biên phòng thường rất uy tín được Nhân dân yêu mến, quý trọng, do vậy bước đầu đã có thể tháo bỏ hàng rào tâm lý ngăn cách giữa người nói và người nghe. Tuy nhiên, do đa phần cán bộ làm nhiệm vụ PBGDPL người dân tộc Kinh, có bất đồng về ngôn ngữ phong tục, tập quán với đồng bào dân tộc thiểu số mà mình có nhiệm vụ PBGDPL nên rất cần nâng cao khả năng nghe và nói tiếng dân tộc địa phương. Điều này sẽ giúp cán bộ có thể hiểu được dân nói nói cho dân hiểu những vấn đề người dân chưa nắm bắt được bằng ngôn ngữ phổ thông và tạo được sự đồng cảm giữa người nói và người nghe; tạo được sự hứng thú của người nghe, củng cố được niềm tin về vấn đề đang phổ biến, giáo dục. Đặc biệt, đối với ngườidân tộc thiểu số thì dáng vẻ bề ngoài, trang phục, quân phục, nét mặt, cử chỉ, phong thái của Bộ đội Biên phòng có ý nghĩa quan trọng đối với việc gây thiện cảm cho ngườinghe.

Thứ hai, cần tạo sự hấp dẫn, dễ hiểu khi nói

Để tạo ra sự hấp dẫn cho một buổi phổ biến pháp luật trực tiếp cho người dân tộc thiểu số, không chỉ ở khía cạnh nội dung bài giảng mà ngôn ngữ, giọng nói, tính biểu cảm của giọng nói, ngôn ngữ hình thể tác động rất nhiều đến yếu tố này. Cách nói cần sôi nổi, phóng khoáng và trẻ trung để phù hợp và gần gũi hơn với đối tượng tuyên truyền. Có thể truyền cảm hứng cho người dân tộc thiểu số bằng những câu chuyện liên quan đến nghề nghiệp, tình yêu, âm nhạc hoặc văn hóa dân tộc..., thậm chí có thể sử dụng ca dao, hò, vè hoặc ngôn ngữ bình dân để có sự tương tác giữa người nói và người nghe. Nên đơn giản hoá các khái niệm pháp lý mang tính nguyên tắc, quy định, đưa chúng trở thành những thuật ngữ giản dị, dễ hiểu sẽ giúp cho các điều luật trở nên gần gũi, đời thường và dễ tiếp thu hơn. Ngoài ra, cán bộ biên phòng không nên giải thích, phân tích các khái niệm một cách quá trừu tượng mà nên thay thế bằng việc đặt khái niệm đó trong một hoàn cảnh, tình huống cụ thể gần gũi với đời sống, sinh hoạt và cách nghĩ, phong tục, tập quán của người dân tộc thiểu số thì sẽ tạo sự hấp dẫn và hiệu quả hơn.

Thứ ba, cần sử dụng phương pháp thuyết phục trong khi PBGDPL

Đây là một phương pháp rất hiệu quả nằm trong nhóm ba phương pháp của phổ biến pháp luật trực tiếp là thuyết phục, nêu gương ám thị. Các điều luật, quy tắc nên được dẫn dắt từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp và được chứng minh bằng các hình ảnh, số liệu, sự kiện và nhân chứng cụ thể, tiêu biểu và sát với vấn đề cần chứng minh. Ví dụ như muốn chứng minh về việc đi xe với tốc độ cao hoặc sử dụng rượu, bia dễ gây tai nạn, cán bộ biên phòng nên dẫn chứng bằng những bức ảnh, câu chuyện cho thấy hậu quả của các phương tiện gây tai nạn khi tham gia giao thông với tốc độ cao, lạng lách, đánh võng hoặc sử dụng rượu, bia quá nồng độ cho phép. Từ đó, cán bộ sẽ giảng giải điều luật để đối tượng được tuyên truyền hiểu đúng vấn đề. Đặc biệt, đối với người dân tộc thiểu số, tính hiếu kì, hay hỏi hoặc lập luận, nói lý “theo kiểu đồng bào” cũng là một đặc điểm để cán bộ tranh thủ đẩy mạnh tính tương tác hai chiều, qua đó có thể hiểu được đối tượng được tuyên truyền, phổ biến lĩnh hội được kiến thức đến đâu, muốn hiểu sâu về vấn đề gì để từ đó linh hoạt thay đổi phương pháp, giúp buổi phổ biến pháp luật trực tiếp sôi nổi, hấp dẫn, hiệu quả hơn.

2. Kỹnăngxâydựngtàiliệuphổbiến,giáodụcphápluật

Đây là kỹ năng PBGDPL thông qua việc đọc, nghe và xem. Tài liệu PBGDPL rất đa dạng như: sách, tờ rơi, tờ gấp, băng tiếng, băng hình, kịch bản…; đóng vai trò quan trọng trong hoạt động PBGDPL, đồng thời là cẩm nang, phương tiện, công cụ hoạt động của những người làm công tác PBGDPL và là cầu nối đưa pháp luật đến với đối tượng được phổ biến. Tài liệu PBGDPL có đối tượng sử dụng rất rộng rãi từ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật, cán bộ, công chức, viên chức đến người dân, trong đó có người dân tộc thiểu số. Sau đây là một số kỹ năng biên soạn tài liệu PBGDPL cho người dân tộc thiểu số. 

2.1.Sách phổ biến, giáo dục phápluật

SáchPBGDPLlàmộtloạitàiliệuphổbiếnphápluật.Phổbiếnphápluậtthôngqua văn hoá đọc của người đọc sách là hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật đặc thù với nhiều thể loại như: sách nghiên cứu pháp luật, sách dạy học pháp luật, sách/sổ tay pháp luật phổ thông, sách hỏi - đáp pháp luật, sách hệ thống văn bản pháp luật... Tuy nhiên,đốivới ngườidânởvùngdântộcthiểusố,miền núi, vùng biên giới, biển đảo thường là lao động tự do, thời gian làm việc chủ yếu thường không ổn định, trình độ văn hóa không đồng đều nên việc phổ biến những nội dung,kiếnthứcphápluậtthiếtyếuthôngquaviệcđọcsáchchưamanglạihiệuquảcao.

Để nâng cao hiệu quả PBGDPL, một trong các vấn đề cần quan tâm nội dung sách cho người dân tộc thiểu số cần phải viết đơn giản, dễ hiểu, bố cục rõ ràng, ngôn ngữ giản dị và cần tập trung vào các nội dung, vấn đề gắn liền với nghĩa vụ, quyền lợi của đồng bào dân tộc thiểu số, pháp luật về biên giới, biển đảo... Về hình thức, sách được trình bày đẹp, màu sắc phong phú, hình ảnh bắt mắt, độ dày vừa phải và nếu được thì có thể in song ngữ gồm tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số nơi đối tượng PBGDPL sinh sống để hướng tới nhiều đối tượng độc giảhơn.

2.2.̀ gấp phápluật

2.2.1. Tờ gấp pháp luật cần nội dung ngắn gọn, rõ ràng trên khuôn khổ một tờ giấy, hình thức cần hấp dẫn (in nhiều màu, có tranh, ảnh minh họa), thuận tiện trong sử dụng, tiết kiệm thời gian cho người đọc. Có thể biên soạn tờ gấp với nhiều kích thước khác nhau tùy theo độ dài của nội dung nhưng kích thước phổ biến, giá thành rẻ là khổ giấy A4 khi gấp lại được 3 bình với kích thước 21cm x 10cm. Bố cục tờ gấp gồm: bìa trước, bìa sau, phần nội dung cho các trang, trám tranh, ảnh cho các trang, đặt tít của tờ gấp, tít của từng phần, chọn chữ, chọn màu và phân bố, làm vi-nhét cho từng trang. Bìa trước ghi tên của tờ gấp và tranh hoặc ảnh nhằm gây ấn tượng về chủ đề của tờ gấp. Bìa sau cũng có tác dụng làm tăng tính thẩm mỹ của tờ gấp bằng những khẩu hiệu, tranh, ảnh… Khi phân bố nội dung cho các trang, cố gắng để mỗi trang thể hiện được một phần nội dung của tờ gấp và giữa các phần có thứ tự lôgíc với nhau. Tít của từng phần có thể theo tên chương, mục của văn bản hoặc tự đặt sát với nội dung.

2.2.2. Tờ gấp pháp luật là loại tài liệu PBGDPL được sử dụng khá phổ thông tại các khu vực miền núi, biên giới, biển đảo. Với ưu điểm của mình, tờ gấp pháp luật có đối tượng sử dụng rộng rãi và là một trong những hình thức tuyên truyền pháp luật hiệu quả. Tuy nhiên, loại tài liệu này cũng có hạn chế là nội dung ngắn và lượng thông tin ít cũng như giá trị sử dụng không lâu bằng các loại tài liệu khác. Khi biên soạn nội dung cho tờ gấp pháp luật, cần căn cứ vào nhu cầu và đối tượng sử dụng để lựa chọn những nội dung pháp luật phù hợp với từng đốitượng.

Ví dụ, đối với người dân tộc thiểu số đang trong độ tuổi lập gia đình, tờ gấp tuyên truyền về Luật Hôn nhân và gia đình sẽ bao gồm phần chung của Luật và phần riêng là những quy định cụ thể cho đối tượng nữ giới và nam giới. Cách thức thể hiện có thể là những câu hỏi - đáp trực tiếp hoặc đưa ra những tình huống pháp luật gần với thực trạng, phong tục, tập quán của vùng dân tộc đó để giải thích, tuyên truyền vàđượcdịchratiếngdântộcthiểusốbảnđịahoặcsongngữ.Việcchọnảnh,bốtrí màu, tít cho từng phần cần lựa chọn và trình bày kỹ để tăng tính thẩm mỹ cho tờ gấp cũng như tạo được ấn tượng cho người đọc.

2.3. Băng tiếng, bănghình

Đâylàloạitàiliệutuyêntruyền,PBGDPLđượcđánhgiárấthiệuquả,dùng phương pháp truyền tải kiến thức pháp luật đến đối tượng được tuyên truyền thôngqua tiếng nói, hình ảnh. Để xây dựng loại tài liệu này, có thể dựa vào các nguồn băng hình, băng tiếng có nội dung PBGDPL do Ủy ban Dân tộc, Bộ Thông tin và Truyền thông, Cục Tuyên huấn (Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam), Cục Chính trị (Bộ đội Biên phòng) cấp phát hoặc trích sao từ các chuyên mục “Vì chủ quyền an ninh biên giới” của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, cũng có thể tự mình viết kịch bản và xây dựng nội dung bảo đảm phù hợp với mục đích, đối tượng, đề tài cần tuyên truyền, bảo đảm bố cục rõ ràng, nội dung pháp luật chínhxác...

Bên cạnh đó, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dânvùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng biên giới, biển đảo còn được thực hiện có hiệu quả thông qua hoạt động của 45 Đội tuyên truyền văn hóa Bộ đội Biên phòng tỉnh và gần400 Tổ tuyêntruyềnvănhóacủacácđồnbiênphòngbằnghìnhthứcphátthanh,chiếuphimlưu động. Hiện nay, trung bình mỗi tỉnh, thành phố biên giới, biển đảo, Bộ đội Biên phòng đều phối hợp với các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương xây dựng từ 3 đến 5cụmloatruyềnthanhtạikhuvựcbiêngiới,phátthanhđềuđặnvàocácngàycuốituần bằng tiếng Việt và tiếng dân tộc bản địa. Khi xây dựng băng tiếng, băng hình để trình chiếu,pháttrênhệthốngloaphátthanh,truyềnthanhtạicácxãbiêngiới,cầnlưuýcách trình bày hấp dẫn dưới nhiều hình thức như: hỏi - đáp, tình huống, tiểu phẩm, phóng sự, giới thiệu văn bản, nghiên cứu traođổi...

3. Kỹ năng xây dựng Tủ sách phápluật

Tủ sách pháp luật là nơi lưu giữ, khai thác và sử dụng sách, báo, tài liệu pháp luật để phục vụ nhu cầu công tác, nghiên cứu, học tập, tìm hiểu của người đọc. Nếu xây dựng và tổ chức tốt hoạt động của Tủ sách pháp luật sẽ giúp tăng cường PBGDPL ở cơ sở, đồng thời góp phần trang bị kiến thức pháp luật cho cán bộ và Nhân dân. Hiện nay, hầu hết các tỉnh, thành phố đã xây dựng Tủ sách pháp luật ở 100% đơn vị cấp xã. Cả nước có 44 thư viện Bộ Chỉ huy biên phòng cấp tỉnh và hơn 400 thư viện, tủ sách đồn biên phòng, được trang bị từ 60 đến 100 đầu sách pháp luật/thư viện/Tủ sách và nhiều đĩa DVD, CD, sách, báo, tạp chí… Cùng với đó, các đơn vị biên phòng đã phối hợp với các địa phương củng cố, nâng cấp Tủ sách pháp luật ở cấp xã; tủ sách, ngăn sách pháp luật tại trung tâm học tập cộng đồng, điểm Bưu điện - Văn hóa xã, trường học,…

Khi xây dựng, bổ sung sách, tài liệu pháp luật cho Tủ sách pháp luật, các đơn vị biên phòng nên căn cứ chức năng, nhiệm vụ, tình hình thực tiễn của đơn vị mình để rà soát, bổ sung, hệ thống hóa sách, báo, tài liệu bảo đảm phù hợp, thiết thực với đồng bào dân tộc thiểu số trên địabàn.

Vị trí đặt Tủ sách pháp luật thường là tại các phòng Hồ Chí Minh của các đồn biên phòng. Việc sắp xếp thư mục sách, giá sách cần đảm bảo khoa học, hợp lý để dễ dàng tra cứu và tìm sách. Các đầu sách cần được bổ sung hàng năm, nhất là sách, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ, giải đáp pháp luật. Tại các đồn biên phòng, do đặc thù địa bàn các xóm, bản cách xa nhau và xa đồn biên phòng, các đơn vị nên tăng cường việc thông tin, giới thiệu về Tủ sách, nâng cao hiệu quả khai thác sách và đều đặn luân chuyển sách từ thư viện của đồn biên phòng đến thư viện, Tủ sách của các bản đặt tại nhà văn hóa hoặc nhà sinh hoạt cộng đồng của người dân. Đặc biệt, cần thu hút sự tham gia của người dân tộc thiểu số trong việc xây dựng, duy trì hoạt động của các Tủ sách pháp luật và tham gia luân chuyểnsách.

4. Kỹ năng xây dựng Câu lạc bộ phápluật

Câu lạc bộ pháp luật là tổ chức được thành lập và hoạt động trên tinh thần tự nguyệnthamgiacủanhữngngườicónhucầutìmhiểuphápluật,tíchcựcđấutranhbảo vệ pháp luật, nhiệt tình tuyên truyền, PBGDPL. Đây là hình thức đặc biệt thích hợp để PBGDPL cho ngườidân tộc thiểu số. Thông qua sinh hoạt của Câu lạc bộ nhằm góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, gây dựng lòng tin đối với pháp luật, nâng caoýthứctôntrọngvàchấphànhphápluật,hìnhthànhthóiquensốngvàlàmviệctheo phápluậtcủacáchộiviênnóiriêngvàtoànthểNhân dânnóichungtạiđịabàn.

Khi xây dựng, thành lập Câu lạc bộ pháp luật, cần khảo sát, lựa chọn địa điểm nơi thành lập Câu lạc bộ kỹ lưỡng trên cơ sở việc phân tích, đánh giá tình hình chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội, điều kiện dân trí, mức độ hiểu biết pháp luật của người dân trên địa bàn nói chung để từ đó có cơ sở xây dựng kế hoạch thành lập Câu lạc bộ. Tiếp đó, cần đẩy mạnh công tác vận động người dân tộc thiểu số tham gia thành lập, xây dựng dự thảo Điều lệ, Quy chế tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ, ra quyết định thành lập Câu lạc bộ. Việc tổ chức Lễ ra mắt Câu lạc bộ cũng cần được tiến hành trang trọng để công khai hóa tổ chức,  chínhthứcđưaCâulạcbộđivàohoạtđộng.HộiviênthamgiaCâulạcbộcóthểlà cán bộ, công chức xã, cán bộ biên phòng phụ trách cơ sở, hòa giải viên, trưởng thôn, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số...

Về tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ, cần căn cứ vào tình hình địa bàn cụ thể và ý chí của hội viên để tiến hành cho phù hợp. Ngoài những nội dung pháp luật mà mọi đối tượng đều cần biết như dân sự, hình sự, đất đai... thì với từng đối tượng sẽ tập trung phổ biến các lĩnh vực pháp luật riêng. Ví dụ: đối tượng là thanh, thiếu niên dân tộc thiểu số thì tập trung phổ biến về Luật Giáo dục, Bộ luật Lao động, Pháp lệnh Dân số, Luật Hôn nhân và gia đình, sức khoẻ sinh sản, chính sách xoá đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số, miềnnúi...

Hình thức sinh hoạt của Câu lạc bộ cần đa dạng như: tổ chức các buổi nói chuyện, tọa đàm chuyên đề về nội dung pháp luật, giới thiệu văn bản pháp luật mới; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật, hái hoa dân chủ, giải đáp pháp luật, thi sáng tác các tác phẩm văn hoá, văn nghệ có nội dung pháp luật; xây dựng các tiểu phẩm văn hoá, văn nghệ (thơ, ca, hò, vè...) có nội dung pháp luật để biểu diễn; cung cấp thông tin, tư liệu pháp luật (sách, báo, văn bản pháp luật) phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương; tổ chức các buổi giao lưu pháp luật với các loại hình Câu lạc bộ khác, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể tại đơn vị, địa phương...

5. Knăng phổbiến, giáodục phápluật thông  qua tổchức thi tìmhiểu phápluật

Thi tìm hiểu pháp luật hình thức tương đối phổ biến hiện đang được áp dụng rộng rãi, có khả năng thu hút được nhiều đối tượng tham gia ở mọi thành phần, mọi lứa tuổi. Thi tìm hiểu pháp luật được tổ chức với nhiều hình thức khác nhau như thi nói, thi viết, thi trắc nghiệm dưới các dạng cụ thể: hỏi đáp trực tiếp, thi biểu diễn sân khấu, tiểu phẩm, thi sáng tác… Tuy nhiên, với trình độ dân trí của người dân tộc thiểu số khu vực miền núi, biên giới, biển đảo còn hạn chế, đời sống còn nhiều khó khăn, thời gian chính dành cho lao động, sản xuất… thì việc áp dụng hình thức PBGDPL này để đạt hiệu quả rất khó khăn và thực tế chưa thực sự đạt  được kết quả như mong muốn. Nếu muốn tổ chức các  cuộc thi tìm hiểu pháp  luật cho người dân tộc thiểu số khu vực miền núi, biên giới, biển đảo thì cần lưu ý một số vấn đề sauđây:

Lựa chọn chủ đề thi: Việc lựa chọn chủ đề cần phải thiết thực và phù hợp với nhu cầu của người dân tộc thiểu số theo hướng tập trung vào những vấn đề liên quan đến cuộc sống, lao động, học tập hàng ngày của đối tượng.

Lựa chọn hình thức thi: Là việc căn cứ vào nội dung, chủ đề, đối tượng tham gia, mục tiêu của cuộc thi để lựa chọn hình thức thi phù hợp. Ngoài hình thức thi viết truyền thống, còn có các hình thức thi tìm hiểu pháp luật khác như: Thi vấn đáp hoặc trả lời trực tiếp, thi hát múa, hùng biện, thi tiểu phẩm, thi vẽ tranh, thi hái hoa dân chủ, thi theo chủ đề có nội dung liên quan tới nghề nghiệp, công việc của đối tượng dự thi như: “Hòa giải viên giỏi khu vực biên giới”, “Công chức Tư pháp - Hộ tịch giỏi xã biên giới”, “Tuyên truyền viên pháp luật giỏi ở cơ sở”...

Phát động và tổng kết cuộc thi: Là việc tổ chức Lễ phát động và Lễ tổng kết cuộc thi với sự hiện diện của lãnh đạo chính quyền địa phương, lãnh đạo của các cơ quan thành viên Ban tổ chức cuộc thi, các trưởng thôn, bản, các đoàn thể quần chúng và đặc biệt là đông đảo người dân tộc thiểu số... Lễ phát động nhằm thông báo thể lệ, nội dung cuộc thi tới người dân trên địa bàn, nhất là đối tượng của cuộc thi. Lễ tổng kết nhằm đánh giá toàn diện kết quả cuộc thi, rút kinh nghiệm về phương pháp tổ chức và triển khai cuộc thi, đồng thời trao giải thưởng cho những người đạtgiải.

Tuyên truyền về cuộc thi: Có thể tuyên truyền về cuộc thi thông qua giới thiệu trực tiếp tại Lễ phát động, Lễ tổng kết cuộc thi hoặc qua hệ thống loa, đài truyền thanh ở cơ sở, áp phích thông báo những nơi công cộng để tạo sự quan tâm của người dân trên địa bàn. Để tạo được ấn tượng sâu sắc đối với người dân tộc thiểu số về cuộc thi, Ban Tổ chức cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nội dung, hình thức các điều kiện hỗ trợ cần thiết như: hội trường, âm thanh, ánh sáng, lôgô cuộc thi, băng rôn, cổ động viên, người dẫn chương trình và khách mời tham gia... Kết quả cuộc thi cần được công bố rộng rãi, bằng nhiều hình thức để vừa phát huy, nhân rộng kết quả cuộc thi, động viên những người dự thi, vừa khuyến khích, cổ vũ Nhân dân tìm hiểu pháp luật, chấp hành, tuân thủ phápluật.

6. Kỹ năng sân khấu hóa nội dung phổ biến, giáo dục phápluật

Sân khấu hóa nội dung PBGDPL là hình thức phổ biến pháp luật kết hợp với sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, có sức hấp dẫn và mang lại hiệu quả cao, đặc biệt phù hợp với người dân tộc thiểu số. Hình thức sân khấu hóa thường được áp dụng đối với các Hội thi dưới dạng thi vấn đáp, trắc nghiệm; được các đơn vị biên phòng phối hợp với tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân… các xã, phường, thị trấn biên giới, biển đảo tổ chức thường niên vào các dịp kỷ niệm ngày lễ lớn, “Ngày Pháp luật” hoặc lồng ghép trong một số hoạt động tại địa phương. Thông quahìnhthứcsânkhấuhóa,nhữngnộidungcủaphápluậtkhôngcònkhôcứngmà gần gũi hơn với cuộc sống thường ngày, trở nên dễ nhớ, dễ hiểu đối với người dân nói chung và người dân tộc thiểu số nói riêng.

Tùy từng dạng thi mà việc sân khấu hóa nội dung PBGDPL đòi hỏi những kỹ năng cơ bản khácnhau:

Thi vấn đáp: Đối tượng dự thi phải trả lời trực tiếp những câu hỏi của Ban Giám khảo về những nội dung pháp luật cụ thể theo nội dung đề ra. Vì vậy, đòi hỏi thí sinh phải nắm chắc kiến thức, có khả năng diễn đạt lưu loát, mạch lạc, rõ ràng và có tính thuyết phục cao.

Thi trắc nghiệm: Đối tượng dự thi phải đưa ra phương án lựa chọn chính xác trước những đáp án được Ban Giám khảo đưa ra. Nên người dự thi phải có phương pháp luận vững vàng, nhanh chóng loại trừ các phương án sai trong thời gian nhanh nhất.

Thi qua hình thức sân khấu: Đối tượng dự thi cần có năng khiếu văn hóa, văn nghệ để có thể thể hiện kiến thức, sự hiểu biết pháp luật và khả năng ứng xử thông qua cách trình bày dưới dạng tiểu phẩm, kịch ngắn, thơ ca, hò, vè…, qua đó truyền tải những thông điệp pháp luật đến ngườixem.

Khi tổ chức hội thi, để hướng tới đối tượng là người dân tộc thiểu số, cần lựa chọn thành phần các đội dự thi, chủ đề hội thi cùng các câu hỏi đưa ra cũng cần sát với đời sống, học tập, công tác của đối tượng để tạo sự hứng khởi, sự liên tưởng từ thực tế vào sân khấu, phát huy sự sáng tạo của đối tượng. Tổ chức hội thi tùy theo mức độ, cấp độ của địa phương để hình thức, sự đầu phù hợp, tránh lãng phí. Ngoài việc nâng cao trình độ, hiểu biết pháp luật cho thành viên các đội dự thi thì hội thi còn dịp tuyên truyền pháp luật đến các cổ động viên và người xem. Thông qua việc theo dõi trực tiếp tại hội thi, nghe giải đáp các tình huống pháp luật liên quan đến cuộc sống thường ngày, ngườidân tộc thiểu số có dịp tiếp cận với các kiến thức pháp luật, trao đổi, thảo luận với bạn bè, đồng nghiệp, người thân, qua đó, nâng cao hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật.

Đốivớicáctổ,độituyêntruyềnvănhóacủaBộđộiBiênphòng,việcxâydựngcác chủ đề, chủ điểm, tình huống pháp luật thành tiểu phẩm, kịch ngắn để thông qua đó tuyên truyền, PBGDPL cho đồng bào dân tộc thiểu số bằng hình thức sân khấu là rất hiệu quả, đáp ứng tâm lý mong muốn hưởng thụ các sản phẩm văn hóa của người dân. Kịch bản PBGDPL có thể đặt các nhà biên kịchviếthoặcdochínhcáccánbộtuyêntruyềnvănhóatronglựclượngBộđộiBiên phòng viết. Chủ đề của các tiểu phẩm, kịch ngắn thường là biểu dương nhân tố điển hình trong thi hành, chấp hành pháp luật, đồng thời phê phán những hành vi vi phạm pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Điều đáng ghi nhận là do các chiến sỹ biên phòng có kinh nghiệm biểu diễn tại các xóm, bản biên giới, gắn bó với đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số địa phương, am hiểunhiềunétvănhóacủacácdântộcởbiên giớinêncácvởkịchngắn,tiểuphẩm“cây đồnlábản”docácchiếnsỹbiênphòngtựbiêntựdiễndễđạtđượchiệuquả“4trong1” là mang đến tiếng cười cho đồng bào; tôn vinh được giá trị văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc; bảo tồn, phát huy được những làn điệu dân ca, dân vũ của dân tộc thiểu số vàPBGDPLhiệuquả,sátvớinhữngnộidung,vấnđềmàngườidânquantâm.

7. Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua pa-nô, khẩu hiệu, áp - phích

Tại vùng dân tộc thiểu số, miền núi, khu vực biên giới, biển đảo, vai trò của tuyên truyền cổ động trực quan là hết sức cần thiết trong việc thực hiện chức năng tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách sinh động đến người dân tộc thiểu số một cách hấp dẫn, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ thực hiện…

Pa-nô là hình thức tuyên truyền cổ động trực quan hiệu quả với hai loại: Pa-nô lá và Pa-nô lớn. Pa-nô lá (thường có kích thước 0,7m x 1,5m) treo trên trụ đèn đường hoặc được lắp dựng trụ sắt bên đường, nội dung được thể hiện bằng chữ và hình, nội dung súc tích, cô đọng. Khi treo pa-nô lá cần lưu ý đến chiều cao an toàn giao thông, tránh treo quá thấp. Pa-nô lớn (thường có kích thước từ 4m x 6m hoặc 9m x 14m trở lên) là hình thức tuyên truyền cố định bằng hình ảnh lớn, tầm nhìn xa làm nổi bật nội dung cần tuyên truyền… Tùy tình hình của địa phương để xác định vị trí đặt pa-nô dễ nhìn, trang trọng và có tính thẩm mỹ cao, tầm nhìn không bị che khuất hay cản trở  giaothông.

Áp-phích (hay tranh cổ động) là một loại hình nghệ thuật mang đậm tính chất kêu gọi, cổ vũ, khích lệ, tác động trực tiếp tới người dân vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng biên giới, biển đảo về một sự việc hay một mục tiêu hành động. Áp-phích cần được dán tại các vị trí bắt mắt, trang trọng như các phòng họp, cổng hội trường, trụ sở cơ quan công quyền hoặc các bảng tin Nhân dân… Vị trí dán cần vừa tầm mắt, không cao quá và cũng không thấp quá để đạt hiệu quả cao hơn.

Cờ dây, băng rôn khi treo ngang đường phải đảm bảo an toàn giao thông (từ4,5m - 5m)vàphảinghiêmtúc,trangtrọng.Dođiềukiệnthờitiếtnắng,mưanênkhitreo băng rôn bằng bạt in thì phải luồn dây bên trên băng rôn và dùng nẹp kẹp giữa để tránh việc băng rôn chùng xuống không thấy khẩu hiệu tuyên truyền. Nội dung khẩu hiệu tuyên truyền, PBGDPL in trên băng rôn cần bám sát nội dung hướng dẫn của các ngành chức năng. Khi cắm cờ hay buộc cờ phướn cần đảm bảo thẩm mỹ, tránh tình trạng cắm cờ hời hợt. Khoảng cách cắm cần phân bố đều, không dày quá hoặc thưa quá hoặc cắm không thẳng hàng, thẳng lối làm mất thẩm mỹ, thiếu trangtrọng.

8. Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tư vấn pháp luật, trợ giúp pháplý

Tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý nhằm mục đích cung cấp dịch vụ pháp lý, giải đáp pháp luật, hướng dẫn người dân tộc thiểu số ứng xử đúng pháp luật để thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, hướng dẫn họ phương pháp, cách thức xử sự trong những hoàn cảnh cụ thể phù hợp với pháp luật và tránh được những hậu quả pháp lý bất lợi, từ đó nâng cao hiểu biết pháp luật cho họ. Mỗi cán bộ biên phòng làm công tác PBGDPL cần có kiến thức pháp lý vững vàng, hiểu biết chuyên sâu về lĩnh vực tư vấn, có khả năng tuyên truyền miệng cũng như biên soạn tài liệu pháp luật tốt; nhiệt tình, tâm huyết, hòa đồng và hiểu biết về văn hóa, phong tục, tập quán dân tộc của người dân tộc thiểu số.

Đối với người dân tộc thiểu số, khi tiến hành tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, trước hết, cần tìm hiểu đối tượng để xác định rõ mục đích, nhu cầu của họ, từ đó chọn lọc và tìm ra mục đích, vấn đề chính mà người dân tộc thiểu số cần được tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý. Nội dung tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cần được chuẩn bị cẩn thận, chính xác với nhiều phương án về hình thức như: thuyết trình, hỏi đáp, đóng vai diễn các tình huống pháp luật... và có các phương tiện hỗ trợ cần thiết. Khi tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cần thể hiện sự tự tin, linh hoạt và tránh gượng ép. Đối với người dân tộc thiểu số thì cần liên hệ đến một số vấn đề pháp luật thiết thực đối với  cuộc sống, học tập và công việc hiện tại củahọ.

9. Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hòa giải ở cơsở

Hòa giải ở cơ sở hình thức PBGDPL đã góp phần hạn chế vi phạm phápluật, giảm thiểu số vụ, việc tranh chấp phải đưa lên quan có thẩm quyền Tòa án Nhân dân giải quyết trong cả nước nói chung khu vực dân tộc thiểu số, miền núi, vùng biên giới, biển đảo nói riêng. Tại các xóm, bản biên giới,  mỗi cán bộbiên phòng thành phần nòng cốt trong các tổ hòa giải nên cần vận dụng kiến thứcphápluật,đạođứchội,bằngsựnêugươngcủamìnhkinhnghiệmcuộc sống để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục, cảm hoá các bên tranh chấp từng bước giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật nhằm đạt được thoả thuận phù hợp với pháp luật đạo đức hội, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự antoànhộikhuvựcmiềnnúi,biêngiới,biểnđảo.

Với hình thức này, cán bộ biên phòng làm công tác hòa giải cần có kỹ năng tiếp cận, tìm hiểu đối tượng để nắm bắt thông tin về vụ, việc hòa giải và nhu cầu của các bên như: kỹ năng giao tiếp; kỹ năng lắng nghe đối tượng trình bày; kỹ năng yêu cầu các bên cung cấp thông tin, tài liệu về vụ, việc; kỹ năng nghiên cứu, phân tích vụ, việc để tìm ra mâu thuẫn, xung đột, nguyên nhân chủ yếu và cách thức giải quyết mâu thuẫn, xung đột… Trong khi tiến hành hòa giải, cán bộ biên phòng có rất nhiều cơ hội để lồng ghép PBGDPL, qua đó các bên tranh chấp và những người có liên quan được nâng cao hiểu biết pháp luật và ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật.

Việc lồng ghép hoạt động hòa giải với hoạt động PBGDPL cần thực hiện các bước như: Trực tiếp nắm rõ nội dung tranh chấp, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và yêu cầu cụ thể của các bên tranh chấp, kết hợp PBGDPL. Từ đó, xác định tính chất của tranh chấp, lựa chọn văn bản có liên quan đến tranh chấp để vận dụng các quy định đó vào việc giải quyết tranh chấp. Sau các bước trên, cán bộ biên phòng làm công tác hòa giải cần gặp gỡ từng bên tranh chấp để hòa giải kết hợp với việc giải thích pháp luật giúp họ nhận thức được các quyền và nghĩa vụ của mình. Cuối cùng là tổ chức cho các bên tranh chấp gặp gỡ để thảo luận với nhau việc giải quyết tranh chấp.

Trên đây là một số kỹ năng PBGDPL cơ bản mà lực lượng Bộ đội Biên phòng đã và đang thực hiện tại vùng dân tộc thiểu số, miền núi, khu vực biên giới, biển đảo. Với vai trò nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh biên giới quốc gia, lực lượng Bộ đội Biên phòng quyết tâm đẩy mạnh công tác PBGDPL và tăng cường các biện pháp, mô hình, kỹ năng PBGDPL mang tính đồng bộ, đặc thù nhằm từng bước nâng cao nhận thức của người dân tộc thiểu số và đồng bào khu vực biên giới nói chung. Qua đó, làm chuyển biến hành vi, ý thức tự giác chấp hành pháp luật, đồng thời hạn chế hành vi vi phạm pháp luật của người dân tộc thiểu số, góp phần ổn định chính trị và cuộc sống trên địa bàn biên giới, biển đảo.

 



[1]  Các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Số 27/2013/QĐ-TTg ngày 19/5/2013 quy định về thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng phối hợp PBGDPL, Số 42/2017/QĐ-TTg ngày 20/9/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg; Số 1060/QĐ-TTg ngày 05/7/2013 về thành lập Hội đồng phối hợp PBGDPL Trung ương; Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 27/01/2014 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác PBGDPL và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở; Các Thông tư của Bộ trưởng Bộ Tư pháp: Số 12/2013/TT-BTP ngày 07/8/2013 quy định quy trình ra thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành; Số 21/2013/TT-BTP ngày 18/12/2013 quy định trình tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm BCVPL; công nhận, cho thôi làm TTVPL và một số biện pháp bảo đảm hoạt động của BCVPL, TTVPL; Số 10/2016/TT-BTP ngày 22/7/2016 về BCVPL, TTVPL; Số 03/2018/TT-BTP ngày 10/03/2018 quy định Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL;

[2]Dương Thị Hồng Nhung, “Khai thác nét đẹp văn hóa dân toọc thông qua các lễ hội truyền thống Việt Nam để phát triển du lịch”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, đăng ngày 22/11/2021. https://dangcongsan.vn/van-hoa-vung-sau-vung-xa-bien-gioi-hai-dao-vung-dan-toc-thieu-so/khat-vong-vuon-len/khai-thac-net-dep-van-hoa-dan-toc-thong-qua-cac-le-hoi-truyen-thong-viet-nam-de-phat-trien-du-lich-597524.html.

[3] Báo cáo viên nêu kho viên ờng bao gồm hai lĩnh vực: phổ biến quan tâm, cuan tâm, ên ờng .

[4]Một cốt chuyện tốt cần các yếu tố hỗ trợ để nó trở nên đáng tin, đó là các chi tiết như thời gian, địa điểm xảy ra câu chuyện, đặc điểm bên ngoài của những nhân vật trong chuyện, những quan sát về diễn biến nội tâm của nhân vật, những yếu tố ngoại cảnh tác động đến nhân vật trong câu chuyện, những vai phụ trong chuyện…

[5]Năm 2019, nước ta có 845 cơ quan báo chí, 67 đài phát thanh – truyền hình, 1.525 Trang tin điện tử tổng hợp, 420 mạng xã hội…

[6]Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đã được Quốc hội thông qua, chương trình xây dựng Nghị định của Chính phủ, Chương trình công tác của cơ quan, đơn vị…

[7] Truyền thông được chia làm ba loại: (i) Truyền thông cá nhân; (ii) Truyền thông tập thể và (iii) Truyền thông đại chúng.

[8] Khoản 3 Điều 11 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.

[9] Bài viết của đồng chí Trương Vĩnh Trọng, Bí thư Trung ương Đảng – Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo tinh thần của Chỉ thị số 32/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Xây dựng hệ thống pháp luật và nền tư pháp Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2005, trang 279.