GIỚI THIỆU
PHÁP LỆNH TRÌNH TỰ, THỦ TỤC
TOÀ ÁN NHÂN DÂN XEM XÉT, QUYẾT ĐỊNH VIỆC ĐƯA NGƯỜI NGHIỆN MA TUÝ TỪ ĐỦ 12 TUỔI ĐẾN DƯỚI 18 TUỔI VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC
Tệ nạn ma tuý đang là hiểm hoạ của các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh tội phạm, tệ nạn xã hội và lây nhiễm HIV/AIDS. Hậu quả, tác hại do tệ nạn ma tuý gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế – xã hội và an ninh trật tự của đất nước. Phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với tệ nạn ma tuý là trách nhiệm chung của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức.Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị xác định ma túy “là một nguy cơ an ninh phi truyền thống mang tính xuyên quốc gia. Ma túy thẩm lậu từ nước ngoài vào trong nước rất lớn, song chưa được ngăn chặn ngay từ khu vực biên giới.Nước ta có nguy cơ trở thành địa bàn trung chuyển ma túy quốc tế.”
Trong
đó, những năm gần đây, nguy cơ sử dụng ma túy tổng hợp đang lan rộng trong giới
trẻ. Người nghiện ma túy có xu hướng trẻ hóa, theo thống kê của Cục Cảnh sát Điều
tra tội phạm về ma túy, Bộ Công an, trong 6 tháng đầu năm 2022, toàn quốc đã
khám phá thành công gần 11 nghìn vụ, bắt hơn 16 nghìn đối tượng phạm tội và vi
phạm pháp luật về ma túy, thu giữ 397 kg heroin, 838 kg ma túy tổng hợp, 71 kg
cần sa cùng nhiều vật chứng liên quan. Cũng theo con số thống kê được Bộ Công
an đưa ra, trong số hơn 200 nghìn người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, đối tượng
dưới 16 tuổi chiếm 0,1%, từ 16 đến 30 tuổi chiếm gần 50%. Có khoảng 60% sử dụng
ma túy lần đầu trong độ tuổi từ 15 đến 25 - độ tuổi này ngày càng bị trẻ hóa.
Trước thực tiễn xu hướng sử dụng ma túy ngày càng lan
trọng trong giới trẻ tại phiên họp thứ 9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV đã thông qua Pháp lệnh Trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc đưa người nghiện
ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
góp phần khắc phục và hoàn thiện các quy định, thủ tục liên quan đến việc cai
nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi. Theo đó, Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 28/3/2022. Pháp lệnh có hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/3/2022.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH PHÁP LỆNH
Ngày 30/3/2021, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội đã thông
qua Luật Phòng, chống ma túy với nhiều nội dung mới đã khắc phục những hạn chế,
bất cập trong các quy định của Luật Phòng, chống ma túy năm 2000. Một trong những
nội dung mới của Luật Phòng, chống ma túy năm 2021 là quy định đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện
ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo quy định tại khoản
1 Điều 33 của Luật Phòng, chống ma tuý thì người
nghiện ma tuý từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi bị
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi
thuộc một trong các trường hợp: (a) Người
nghiện ma tuý không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma
tuý tự nguyện; (b) Người
nghiện ma tuý trong thời gian cai nghiện ma tuý tự nguyện bị phát hiện sử dụng
trái phép chất ma tuý; (c) Người
nghiện ma túy các chất dạng thuốc phiện không đăng ký, không thực hiện hoặc tự
ý chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế hoặc bị
chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc
phiện bằng thuốc thay thế do vi phạm quy định về điều trị nghiện.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 33 của Luật Phòng, chống
ma tuý, thẩm quyền quyết định đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18
tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết
định. Khoản 5 Điều 33 Luật Phòng, chống ma túy giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định đưa người nghiện
ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Với lý do trên, Pháp lệnh Trình tự, thủ tục Tòa án nhân
dân xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18
tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã được Ủy ban
Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, phiên họp
thứ 9 thông qua ngày 24/3/2022 và có hiệu lực kể từ ngày thông qua.
II. CƠ CẤU, BỐ CỤC CỦA PHÁP LỆNH
Pháp
lệnh gồm 5 chương, 48 điều, cụ thể như sau:
1. Chương I. Những quy định
chung (gồm có 7 điều, từ Điều 1 đến Điều 7)
Chương
này quy định về phạm vi điều chỉnh; nguyên tắc xem xét, quyết định đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc; thẩm quyền xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc; kiểm sát việc xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc xem xét, quyết định đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; trách nhiệm quản lý công tác xem xét, quyết định
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; và chi phí, lệ phí trong việc xem xét, quyết định đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc.
2. Chương II. Trình tự, thủ tục xem xét, quyết
định việc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (gồm có 19 điều, từ Điều 8 đến Điều
26)
Chương
này quy định trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc bao gồm các thủ tục từ nhận, thụ lý hồ sơ đề nghị, mở phiên họp
đến ra quyết định đưa hoặc không đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, quyết định
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
3. Chương III. Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định
việc hoãn, miễn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; tạm
đình chỉ hoặc miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc (gồm có 8 điều, từ Điều 27 đến Điều 34)
Chương này bao gồm các quy định về
điều kiện hoãn, miễn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; điều
kiện tạm đình chỉ, miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc; người có quyền đề nghị; nhận, thụ lý đơn đề nghị; hủy
bỏ quyết định hoãn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; và
hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
4. Chương IV. Khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị;
giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị trong việc đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc (gồm có 13 điều, từ Điều 35 đến Điều 47)
Chương này quy định việc khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị; giải quyết khiếu
nại, kiến nghị, kháng nghị các quyết định của Toà án và khiếu nại, giải quyết
khiếu nại hành vi của người có thẩm quyền của Toà án trong việc đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
5. Chương V. Điều khoản thi hành (gồm có 1 điều:
Điều 48)
Chương này quy định về hiệu lực thi hành
của Pháp lệnh. Pháp lệnh này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày thông qua (ngày 28/3/2022).
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LỆNH
1. Về phạm vi điều chỉnh
Pháp lệnh này quy định trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết
định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc; trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc hoãn, miễn chấp
hành, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị và giải quyết
khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị trong việc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
2. Về nguyên tắc xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Pháp lệnh này áp dụng đối với đối tượng có tính chất đặc thù là người nghiện
ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi. Do vậy, một trong những nguyên tắc quan
trọng xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là việc xem xét,
quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải bảo
đảm lợi ích tốt nhất của người bị đề nghị; bảo đảm thủ tục thân thiện, phù
hợp với tâm lý, giới, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của
người bị đề nghị.
Đồng thời, trong quá trình xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy
từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc còn phải tuân thủ
các nguyên tắc sau đây:
- Bảo đảm quyền bí mật đời sống riêng tư của người bị đề
nghị.
- Bảo đảm quyền của người bị đề nghị được tham gia, trình
bày ý kiến trước Tòa án, tranh luận tại phiên họp theo quy định của Pháp lệnh
này.
- Người bị đề nghị, cha mẹ hoặc người giám hộ của người
bị đề nghị có quyền tự mình hoặc nhờ luật sư, người khác bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị đề nghị. Trường hợp người bị đề nghị không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp thì Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử
luật sư; Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư
thực hiện trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của
Luật Trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Tòa án bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị đề nghị.
- Việc xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc do một Thẩm phán thực hiện. Khi xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Bảo đảm sự vô tư
của những người tiến hành phiên họp xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc.
- Bảo đảm việc xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc được tiến hành nhanh chóng, kịp thời.
- Tiếng nói, chữ viết dùng trong việc xem xét, quyết định
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án là tiếng Việt. Người bị đề nghị, cha mẹ hoặc người giám hộ
hoặc người đại diện hợp pháp của người bị đề nghị có quyền dùng tiếng nói, chữ
viết của dân tộc mình và phải có người phiên dịch.
- Bảo đảm quyền được xem xét theo hai cấp trong việc xem
xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
3. Về thẩm quyền xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc
Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người bị đề nghị cư trú hoặc nơi có hành vi vi
phạm trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của người bị đề nghị. Tòa
án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét lại quyết định của Tòa án nhân dân cấp
huyện bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị.
4. Về sự tham gia của chuyên gia y tế, tâm
lý, giáo dục, xã hội học, đại diện của nhà trường nơi người bị đề nghị học tập,
đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận
nơi người bị đề nghị cư trú
Để đảm bảo tốt nhất quyền của người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18
tuổi bị đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Pháp lệnh có những quy định
cho Tòa án và Thẩm phán được tham vấn ý kiến hoặc yêu cầu chuyên gia y tế, tâm
lý, giáo dục, xã hội học, đại diện của nhà trường nơi người bị đề nghị học tập,
đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận
nơi người bị đề nghị cư trú và cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia các phiên họp trong trường hợp cần làm rõ
tình trạng sức khỏe, tâm lý, điều kiện sống, học tập của người bị đề nghị.
5. Về đảm bảo tính thân thiện của
phiên họp xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Phiên họp xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được tổ
chức trực tiếp hoặc trực tuyến. Đồng thời, theo quy định của Pháp lệnh thì
phiên họp phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
- Được tổ chức thân thiện, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
đề nghị;
- Phòng họp được bố trí thân thiện, an toàn;
- Thẩm phán được phân công tiến hành phiên họp phải là người đã được đào
tạo hoặc có kinh nghiệm giải quyết các vụ việc liên quan đến người dưới 18 tuổi
hoặc có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới
18 tuổi. Tại phiên họp Thẩm phán mặc trang phục hành chính của Tòa án nhân dân;
- Trong phiên họp, cha mẹ hoặc người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp
của người bị đề nghị hỗ trợ người bị đề nghị;
- Việc hỏi người bị đề nghị phải phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển,
trình độ văn hóa và hiểu biết của họ. Câu hỏi cần ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, không
hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.
6. Về trình tự, thủ tục xem xét,
quyết định việc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Theo quy
định của Pháp lệnh, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án
thụ lý hồ sơ đề nghị của Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội,
Tòa án phải ra một trong các quyết định (đưa hoặc không
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ việc
xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc); đối với vụ việc phức tạp, thời hạn này
có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
Về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc bao gồm các bước:
- Nhận, thụ lý hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc: Khi nhận được hồ
sơ đề nghị của Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội chuyển đến,
Tòa án phải vào sổ giao nhận; trường hợp hồ sơ không đủ tài liệu theo quy định
thì Tòa án trả lại hồ sơ và nêu rõ lý do. Trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể
từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, Tòa án phải thụ lý và phân công Thẩm phán
xem xét, giải quyết.
- Thông báo về việc thụ lý hồ sơ: Trong thời hạn
02 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý, Tòa án phải thông báo bằng văn bản về việc
thụ lý hồ sơ cho Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, người bị
đề nghị, cha mẹ hoặc người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp của người bị đề
nghị và Viện kiểm sát cùng cấp.
- Quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc: Trong thời hạn 07 ngày làm việc,
kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Tòa án phải mở phiên họp xem xét, quyết
định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chậm nhất là 03 ngày làm việc trước khi
mở phiên họp, quyết định mở phiên họp phải được gửi cho những người theo đúng
quy định và Viện kiểm sát cùng cấp.
- Quyết
định mở phiên họp xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ
ngày ra quyết định mở phiên họp, Tòa án phải mở phiên họp xem xét, quyết định
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chậm nhất là 03 ngày làm việc trước khi mở
phiên họp, quyết định mở phiên họp phải được gửi cho những người theo đúng quy
định và Viện kiểm sát cùng cấp.
- Phiên họp xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được tổ chức
trực tiếp hoặc trực tuyến. Phiên họp xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc được tổ chức thân thiện, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị đề nghị. Phòng họp được bố trí thân thiện, an toàn. Thẩm phán được phân công
tiến hành phiên họp phải bảo đảm quy định của Pháp lệnh, mặc trang phục hành
chính của Tòa án nhân dân.
Trong
phiên họp, cha mẹ hoặc người giám hộ, người đại diện hợp pháp của người bị đề
nghị hỗ trợ người bị đề nghị. Việc hỏi người bị đề nghị phải phù hợp với lứa
tuổi, mức độ phát triển, trình độ văn hóa và hiểu biết của họ. Câu hỏi cần ngắn
gọn, đơn giản, dễ hiểu, không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.
7. Về điều kiện hoãn, miễn chấp hành
quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành
thời gian còn lại trong quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Tuân thủ quy định của
Hiến pháp và thứ bậc có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời đảm
bảo việc áp dụng pháp luật kịp thời, thống nhất trong thực tiễn, Pháp lệnh quy
định các điều kiện hoãn, miễn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Theo đó, với mục đích đảm bảo quyền được học tập cho
người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi, Pháp lệnh quy định người
phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng chưa đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc được hoãn chấp hành quyết định trong trường hợp họ đủ điều kiện và
đã đăng ký tham dự hoặc đang tham dự kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ
thông hoặc phải
tham gia thi tốt nghiệp trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và được cơ
sở giáo dục nơi họ học tập xác nhận.
Ngoài ra, người phải chấp hành nhưng chưa đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc được miễn chấp hành quyết định trong trường hợp: Mắc
bệnh hiểm nghèo, có chứng nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ tuyến huyện
trở lên; trong thời gian hoãn chấp hành quyết định
theo quy định mà người đó tự nguyện cai nghiện, được cơ quan
có thẩm quyền xác nhận không nghiện ma túy; trong
thời gian hoãn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bị Tòa án
xử phạt tù nhưng không được hưởng án treo, áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục
tại trường giáo dưỡng, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Pháp lệnh đã quy định người đang chấp
hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (sau đây gọi là người đang
chấp hành) được tạm đình chỉ chấp hành quyết định trong trường hợp: Bị ốm
nặng phải điều trị nội trú hơn 10 ngày tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ tuyến
huyện trở lên; bị ốm nặng mà cơ sở cai nghiện bắt buộc
không đủ điều kiện điều trị và phải điều trị ngoại trú hơn 10 ngày theo chỉ
định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ tuyến huyện trở lên.
Đồng thời, người đang chấp hành được miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong trường hợp: Mắc bệnh hiểm nghèo, có chứng nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ tuyến huyện trở lên; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đang cai nghiện ma túy bắt buộc mà bị phát hiện thực hiện hành vi phạm tội trước hoặc trong thời gian chấp hành quyết định cai nghiện ma túy bắt buộc và bị Tòa án phạt tù nhưng không được hưởng án treo theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Trên đây là nội dung cơ bản của pháp
lệnh trình tự, thủ tục Toà án nhân dân xem xét, quyết định việc đưa người nghiện
ma tuý từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc . Hiện nay,
ma túy là hiểm họa của nhân loại, là vấn đề toàn cầu, do đó,công tác phòng chống
ma túy có vai trò quan trọng là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi cá nhân. Đặc biệt
là thế hệ trẻ những “chủ nhân tương lai của
đất nước” cần nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm, tính chủ động của
mình trong công tác phòng chống, bài trừ cái vi phạm, tội phạm, tệ nạn nói
chung và ma túy nói riêng.
0 Nhận xét