Quân đội và người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu là những người mang trong mình trách nhiệm bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an toàn, trật tự quốc gia. Vì vậy những hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu đều bị coi là phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Chương XXV Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự).

Trong đó, các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 392 Bộ luật hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Dấu hiệu pháp lý và các tội danh cụ thể của tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến và phục vụ chiến đấu, cụ thể như sau:

I. DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM NGHĨA VỤ, TRÁCH NHIỆM CỦA QUÂN NHÂN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI PHỐI THUỘC VỚI QUÂN ĐỘI TRONG CHIẾN ĐẤU, PHỤC VỤ CHIẾN ĐẤU

1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật Hình sự bảo vệ nhưng bị xâm hại bởi tội phạm.

Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định tại Điều 8 của BLHS. Ví dụ: Hành vi giật túi xách của người đi đường làm cho chủ sở hữu ngã dẫn đến thương tích. Ở đây có hai khách thể bị xâm hại là quyền sở hữu và sức khỏe. Tuy nhiên, quyền sở hữu mới đúng là khách thể trực tiếp của hành vi cướp giật tài sản, sức khỏe không là khách thể trực tiếp của hành vi này.

Theo đó, đối với các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thì khách thể loại là sức mạnh, trình độ sẵn sàng chiến đấu và chế độ phục vụ trong quân đội. Căn cứ vào khách thể loại đó mà các nhà xây dựng pháp luật quy định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thành một chương riêng.

Mỗi hành vi phạm tội không đồng thời xâm phạm tất cả các yếu tố hợp thành đó, không phải xâm phạm toàn bộ các quan hệ xã hội liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân mà chỉ xâm phạm quan hệ xã hội nhất định. Quan hệ xã hội cụ thể mà hành vi phạm tội xâm phạm trực tiếp là khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

2. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu được thể hiện bằng hành vi (hành động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội xâm phạm kỉ luật, sức mạnh chiến đấu, chế độ phục vụ, chế độ công tác trong quân đội.

Có nhưng tội phạm chỉ được thực hiện bằng hành động như Tội làm nhục đồng đội (Điều 397BLHS), Tội hành hung đồng đội (Điều 398 BLHS). Theo đó, chủ thể phạm tội bắt buộc phải có hành vi gây thương tổn đến nhân phẩm, danh dự, uy tín hoặc gây thương tích đến đồng đội của mình.  

Hoặc có những tội chỉ được thực hiện bằng không hành động như Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ tại trận địa hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh (Điều 417 BLHS). Cụ thể, chủ thể phạm tội mặc dù có trách nhiệm thực hiện không chăm sóc, cứu chữa thương binh, không mang thương binh, tử sĩ quay về.  Tuy nhiên, đa số các tội phạm trong nhóm đều được thực hiện cả bằng hành động và không hành động.

Do khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu mang yếu tố phi vật chất (sức mạnh chiến đấu, kỷ luật quân đội và chế độ công tác quân sự) nhiều hơn nên trong CTTP của đa số các tội phạm, dấu hiệu hậu quả vẫn mang tính định tính (như nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng).

3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân bao gồm quân nhân và những người không phải là quân nhân thực hiện. Cụ thể, Điều 329 BLHS quy định những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân bao gồm:

- Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng.

- Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện.

- Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

- Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.

Theo đó, quy định về từng đối tượng chủ thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu như sau:

Quân nhân tại ngũ là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phục vụ trực tiếp trong Quân đội. Quân nhân bao gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ và quân nhân chuyên nghiệp.

Trong đó, sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (sau đây gọi chung là sĩ quan) là cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động trong lĩnh vực quân sự, được Nhà nước phong quân hàm cấp Úy, cấp Tá, cấp Tướng.

Quân nhân chuyên nghiệp là công dân Việt Nam có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ phục vụ trong Quân đội nhân dân, được tuyển chọn, tuyển dụng theo chức danh và được phong quân hàm quân nhân chuyên nghiệp.

Công nhân và viên chức quốc phòng là công dân Việt Nam có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ, được tuyển chọn, tuyển dụng vào Quân đội nhân dân theo vị trí việc làm hoặc chức danh nghề nghiệp mà không thuộc diện được phong quân hàm sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và hạ sĩ quan, binh sĩ.

Quân nhân dự bị là công dân được đăng ký vào ngạch dự bị động viên, theo Khoản 2 Điều 2 Luật về lực lượng dự bị động viên, quân nhân dự bị bao gồm sĩ quan dự bị, quân nhân chuyên nghiệp dự bị và hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị được đăng ký theo quy định của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng, Luật Nghĩa vụ quân sự.

Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, được tổ chức ở địa phương gọi là dân quân, được tổ chức ở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) gọi là tự vệ. Trong đó, căn cứ khoản 2 Điều 8 Luật Dân quân tự vệ thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ tại chỗ, Dân quân tự vệ cơ động, Dân quân tự vệ biển, Dân quân tự vệ phòng không, pháo binh, trinh sát, thông tin, công binh, phòng hóa, y tế là 04 năm; dân quân thường trực là 02 năm.

4. Mặt chủ quan của tội phạm

Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu có thể được thực hiện do lỗi cố ý (Tội Hành hung đồng đội Điều 398) hoặc lỗi vô ý (Tội Vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự Điều 406).

Động cơ, mục đích phạm tội có thể rất khác nhau tùy thuộc vào từng tội danh và chủ thể phạm tội cụ thể.

II. CÁC TỘI DANH THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ

Chương XXV Bộ luật hình sự gồm 29 điều (từ Điều 392 đến Điều 420), trong đó có 28 điều quy định về các tội cụ thể. Trong đó, có thể chia thành 05 nhóm bao gồm:

- Nhóm các tội xâm phạm chế độ nghĩa vụ quân sự và chế độ phục vụ trong quân đội;

- Nhóm các tội xâm phạm quan hệ đoàn kết nội bộ quân đội;

- Nhóm các tội xâm phạm chế độ kỷ luật chiến trường, sức mạnh chiến đấu và uy tín của quân đội nhân dân Việt Nam;

- Nhóm tội xâm phạm chế độ quản lí, bảo vệ và giữ gìn bí mật công tác quân sự;

- Nhóm xâm phạm trật tự công tác, chế độ trực ban, trực chiến, trực chỉ huy và bảo vệ.

1. Nhóm các tội xâm phạm chế độ nghĩa vụ quân sự và chế độ phục vụ trong quân đội

1.1. TỘI ĐÀO NGŨ (ĐIỀU 402): Là hành vi rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh nghĩa vụ trong thời chiến hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng.

* Quy định của BLHS Điều 402 quy định về tội Đào ngũ, như sau:

1. Người nào rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh nghĩa vụ trong thời chiến hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;

b) Lôi kéo người khác phạm tội;

c) Mang theo, vứt bỏ vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hoặc tài liệu bí mật quân sự;

d) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Trong chiến đấu;

b) Trong khu vực có chiến sự;

c) Trong khi thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;

d) Trong tình trạng khẩn cấp;

đ) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.”

* Dấu hiệu pháp lý

- Khách thể: Tội đào ngũ trực tiếp xâm phạm chế độ nghĩa vụ quân sự của hạ sỹ quan, binh sỹ, chế độ của phục vụ của quân nhân tại ngũ là sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp trong Quân đội; làm giảm sức chiến đấu của Quân đội; ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị trong Quân đội.

- Mặt khách quan: Mặt khách quan của Tội đào ngũ được thể hiện ở hành vi rời bỏ đơn vị không có ý định trở lại nhằm trốn tránh nghĩa vụ. Đào ngũ có thể được thực hiện bằng việc quân nhân tự ý rời bỏ đơn vị một cách trái phép (hành động) hoặc không có mặt tại đơn vị một cách trái phép để nhận nhiệm vụ (không hành động). Tự ý rời bỏ đơn vị một cách trái phép là tự ý đi khỏi đơn vị, nơi công tác, hoặc nơi điều trị, điều dưỡng không được phép của người chỉ huy có thẩm quyền. Không có mặt tại đơn vị một cách trái phép là trường hợp không đến đơn vị, nơi công tác, nơi điều trị, nơi điều dưỡng… với mục đích thôi phục vụ trong quân đội. Hành vi rời bỏ đơn vị nhằm trốn tránh nghĩa vụ quân sự chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đào ngũ khi có một trong các yếu tố sau:

+ Rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh nghĩa vụ quân sự trong thời chiến. Phạm tội trong thời chiến là phạm tội trong khoảng thời gian đang có chiến tranh ở nước ta. Tình trạng chiến tranh do Chủ tịch nước công bố theo quyết định của Quốc hội hay Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

+ Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh nghĩa vụ quân sự mà còn vi phạm. Trường hợp bị coi là đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà con vi phạm, cụ thể như sau:

Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi đào ngũ theo quy định của Điều lệnh quản lý bộ đội về hành vi đào ngũ và chưa hết thời hạn để được coi là chưa xử lý. Người vi phạm bị xử lý kỷ luật, thì sau 12 tháng đối với các hình thức khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng cấp bậc quân hàm và sau 24 tháng đối với các hình thức giáng chức, cách chức kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực mà người vi phạm không có vi phạm mới đến mức phải xử lý kỷ luật thì đương nhiên được công nhận tiến bộ.

Hình thức xử lý kỷ luật hành vi đào ngũ của quân nhân được căn cứ vào Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; Luật nghĩa vụ quân sự.

Trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật đối với hành vi đào ngũ căn cứ Thông tư số 16/2020/TT-BQP ngày 21/02/2020 của Bộ Quốc phòng quy định việc áp dụng các hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục, thời hiệu, thời hạn và thẩm quyền xử lý kỷ luật trong Bộ Quốc phòng (sau đây viết gọn là Thông tư số 16/2020/TT-BQP).

Hành vi rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh nghĩa vụ quân sự gây hậu quả nghiêm trọng như: Hậu quả phải do hành vi phạm tội gây ra, tức là phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra. Hậu quả đó có thể là hậu quả vật chất (như thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, về tài sản, về vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự) hoặc phi vật chất như gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về an ninh quốc phòng; ảnh hưởng đến khả năng và tình trạng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội; ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị; ảnh hưởng đến quan hệ đoàn kết trong nội bộ Quân đội; mối quan hệ quân dân v.v.

Để xác định thế nào là phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng phải xem xét đánh giá một cách tổng hợp, toàn diện các loại hậu quả do hành vi phạm tội gây ra gồm thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, thiệt hại về vũ khí, trang bị và thiệt hại phi vật chất .Trường hợp quân nhân rời bỏ đơn vị nhằm trốn tránh nghĩa vụ quân sự và trong thời gian trốn tránh, rời bỏ đơn vị đó mà phạm tội khác thì không bị coi là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi đào ngũ gây ra và không bị truy cứu về đào ngũ mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm đã thực hiện.

Ngoài dấu hiệu hành vi rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh nghĩa vụ quân sự gây hậu quả nghiêm trọng ra, thì hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội phạm này. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm quân nhân rời bỏ đơn vị hoặc từ lúc phải có mặt ở đơn vị đúng hạn mà không có mặt nhằm trốn tránh nghĩa vụ quân sự và hành vi thuộc một trong các dấu hiệu khách quan nêu trên.

- Chủ thể: Chủ thể của tội phạm này là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự và là những chủ thể đặc biệt theo Điều 392 BLHS bao gồm: Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng; Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện;Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.

- Mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, tức là họ nhận thức rõ hành vi đào ngũ của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi do mình thực hiện nhưng mong muốn hậu quả xảy ra. Người cố ý đào ngũ rõ ràng thấy trước được hậu quả do hành vi của mình gây ra đó là Quân đội mất đi sự phục vụ của họ thông qua chức trách, nhiệm vụ được giao, nhưng vẫn mong muốn thực hiện. Đối với tội đào ngũ, mục đích trốn tránh nghĩa vụ phục vụ trong quân đội là yếu tố bắt buộc trong cấu thành của tội phạm đào ngũ.

* Khung hình phạt

Điều 402 BLHS quy định ba khung hình phạt tại các khoản 1, 2 và 3, cụ thể như sau:

- Khoản 1: Quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Đây là chế tài tại khung cơ bản của điều luật, được áp dụng đối với người phạm tội không có tình tiết tăng nặng định khung.

- Khoản 2: Quy định hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, được áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp có một trong các tình tiết tăng nặng định khung như: Là sỹ quan hoặc chỉ huy; lôi kéo người khác phạm tội; mang theo, vứt bỏ vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hoặc tài liệu bí mật quân sự; gây hậu quả rất nghiêm trọng.

- Khoản 3: Quy định hình phạt tù từ 05 năm đến 12 năm, được áp dụng đối với người phạm tội có một trong các tình tiết tăng nặng định khung như: Trong chiến đấu; trong khu vực có chiến sự; trong khi thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; trong tình trạng khấn cấp; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Phạm tội trong chiến đấu là phạm tội trong thời gian người phạm tội đang trực tiếp chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; Phạm tội trong khu vực có chiến sự là phạm tội trong khu vực đang có các hoạt động tác chiến quân sự giữa ta và địch.

* Quy định về xử lý kỷ luật đối với hành vi đào ngũ

Căn cứ Điều 20 Thông tư 16/2020/TT-BQP quy định:

"Điều 20. Đào ngũ

1. Tự ý rời khỏi đơn vị lần đầu quá 03 (ba) ngày đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; quá 07 (bảy) ngày đối với hạ sĩ quan, binh sĩ nhưng không thuộc các trường hợp được quy định tại Bộ luật hình sự thì bị kỷ luật từ cảnh cáo đến hạ bậc lương, giáng cấp bậc quân hàm.

2. Nếu vi phạm một trong các trường hợp sau thì bị kỷ luật từ giáng chức, cách chức, tước quân hàm sĩ quan đến tước danh hiệu quân nhân, buộc thôi việc:

a) Gây hậu quả nhưng chưa đến mức độ nghiêm trọng;

b) Khi đang làm nhiệm vụ;

c) Đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm;

d) Lôi kéo người khác tham gia."

Theo đó, với hành vi lần đầu tự ý rời khỏi đơn vị quá 03 ngày đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; quá 07 (bảy) ngày đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đang thực hiện nghĩa vụ quân sự nhưng không thuộc các trường hợp được quy định tại Bộ luật hình sự thì bị kỷ luật từ cảnh cáo đến hạ bậc lương, giáng cấp bậc quân hàm.

Ngoài ra, Điều 19 Thông tư 16/2020/TT-BQP quy định về việc xử lý kỷ luật nếu vắng mặt trái phép như sau:

- Vắng mặt ở đơn vị dưới 24 (hai bốn) giờ từ 02 lần trở lên hoặc từ 24 (hai bốn) giờ trở lên đến 03 (ba) ngày đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; dưới 24 (hai bốn) giờ từ 02 lần trở lên hoặc từ 24 (hai bốn) giờ trở lên đến 07 (bảy) ngày đối với hạ sĩ quan, binh sĩ mà không được phép của người chỉ huy có thẩm quyền thì bị kỷ luật khiển trách hoặc cảnh cáo.

- Nếu vi phạm một trong các trường hợp sau thì bị kỷ luật từ cảnh cáo đến hạ bậc lương, giáng cấp bậc quân hàm: Đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm; Lôi kéo người khác tham gia; Gây ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.

          2. Nhóm các tội xâm phạm quan hệ chỉ huy, phục tùng

            Tội Ra mệnh lệnh trái pháp luật (Điều 393):  Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn ra mệnh lệnh trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng.

            Tội Chống mệnh lệnh (Điều 394): Hành vi từ chối chấp hành hoặc cố ý không thực hiện mệnh lệnh của người có thẩm quyền.

            Tội Chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh (Điều 395): Hành vi chấp hành mệnh lệnh của người có thẩm quyền một cách lơ là, chậm trễ, tùy tiện gây hậu quả nghiêm trọng.

            Tội Báo cáo sai (Điều 408): Hành vi cố ý báo cáo sai trong hoạt động quân sự gây hậu quả nghiêm trọng.

            Tội Lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ (Điều 416): Hành vi thực hiện nhiệm vụ mà vượt quá phạm vi cần thiết của nhu cầu quân sự gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng của Nhà nước, của tổ chức, cá nhân.

          3. Nhóm các tội xâm phạm quan hệ đoàn kết nội bộ quân đội;

            Tội Cản trở đồng đội thực hiện nhiệm vụ (Điều 396): Hành vi cản trở đồng đội thực hiện nhiệm vụ dẫn đến người đó không thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ nhiệm vụ được giao.

            Tội Làm nhục đồng đội (Điều 397): Trong quan hệ công tác mà xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự đồng đội.

            TỘI HÀNH HUNG ĐỒNG ĐỘI (ĐIỀU 398): Trong quan hệ công tác mà cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của đồng đội mà không thuộc trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

          * Quy định của BLHS

          Điều 398 BLHS quy định về tội Hành hung đồng đội, cụ thể như sau: 1. Người nào trong quan hệ công tác mà cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của đồng đội mà không thuộc trường hợp quy định tại Điều 134 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

          2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

          a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;

          b) Đối với chỉ huy hoặc cấp trên;

          c) Vì lý do công vụ của nạn nhân;

          d) Trong khu vực có chiến sự;

          đ) Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.  

          Như vậy, hành vi của tội hành hung đồng đội là trong quan hệ công tác mà cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của đồng đội mà không thuộc trường hợp phạm tội tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

          *  Dấu hiệu pháp lý

          - Khách thể của tội phạm: Tội hành hung đồng đội đã trực tiếp xâm phạm đến quan hệ đồng chí, đồng đội, sự đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau giữa các quân nhân với nhau. Bên cạnh đó, tội hành hung đồng đội còn đang xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể, nhân phẩm của quân nhân.

          - Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm này là những hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của đồng đội trong quan hệ công tác.

          Quan hệ công tác là quan hệ giữa các quân nhân cùng được biên chế trong một cơ quan đơn vị nhất định và giữa họ có người là chỉ huy hoặc cấp trên, có người là cấp dưới. Trường hợp họ không cùng được biên chế trong một cơ quan đơn vị nhất định thì họ phải là những người cùng thực hiện nhiệm vụ trong một thời gian nhất định.

- Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự và là những chủ thể đặc biệt theo Điều 392 BLHS bao gồm: Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng; Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện;Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội. Đồng thời, chủ thể tội phạm phải đang trong mối quan hệ công tác với bị hại.

- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội hành hung đồng đội được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là xâm phạm nghiêm trọng sức khỏe, thân thể của đồng đội và mong muốn thực hiện hành vi đó.

          * Khung hình phạt

          Điều luật quy định 02 khung hình phạt chính.

          Khung hình phạt cơ bản được quy định là hình phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù tù 03 tháng đến 02 năm.

          Khung hình phạt tăng nặng được quy định là hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, được áp dụng đối với các trường hợp: “Là chỉ huy hoặc sĩ quan”;  “Đối với chỉ huy hoặc cấp trên”; “Vì lý do công vụ của nạn nhân”; “Trong khu vực có chiến sự”;  “Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”.  

          * Quy định về xử lý kỷ luật đối với hành vi hành hung đồng đội

          Căn cứ Điều 18 Thông tư 16/2020/TT-BQP  thì hình thức xử lý kỷ luật đối với cá nhân thực hiện hành hung đồng động được áp dụng như sau:

          - Dùng lời nói hoặc có hành động xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự, thân thể đồng đội mà giữa họ không có quan hệ chỉ huy và phục tùng thì bị kỷ luật khiển trách hoặc cảnh cáo.

          - Nếu vi phạm một trong các trường hợp sau thì bị kỷ luật từ hạ bậc lương, giáng cấp bậc quân hàm, giáng chức, cách chức, tước quân hàm sĩ quan đến tước danh hiệu quân nhân, buộc thôi việc:

          + Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

          + Lôi kéo người khác tham gia;

          + Đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm;

          + Gây ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.

          Ngoài ra, tùy vào tính chất, mức độ của người thực hiện hành vi làm nhục, hành hung đồng đội, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

          4. Nhóm các tội xâm phạm chế độ kỷ luật chiến trường, sức mạnh chiến đấu và uy tín của quân đội nhân dân Việt Nam.

            Tội Đầu hàng địch (Điều 399): Hành vi đầu hàng địch,

            Tội Khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh  (Điều 400): Khi bị địch bắt làm tù binh mà khai báo bí mật công tác quân sự hoặc tự nguyện làm việc cho địch.

          Tội Bỏ vị trí chiến đấu hoặc không làm nhiệm vụ trong chiến đấu (Điều 401): Hành vi tự ý rời bỏ vị trí chiến đấu hoặc không làm nhiệm vụ trong chiến đấu.

          Tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh (Điều 417): Người nào có trách nhiệm mà cố ý bỏ thương binh, tử sĩ tại trận địa hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh dẫn đến không tìm thấy thương binh, tử sĩ hoặc thương binh bị chết.

          Tội Chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ (Điều 418): Hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ.

          Tội Chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm (Điều 419): Người nào trong chiến đấu hoặc khi thu dọn chiến trường mà chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm.

          Tội Ngược đãi tù binh, hàng binh (Điều 420): Hành vi ngược đãi tù binh, hàng binh.

          5. Nhóm tội xâm phạm chế độ quản lí, bảo vệ và giữ gìn bí mật công tác quân sự.

          Tội Cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự (Điều 404): Hành vi cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự nếu không thuộc một trong các trường hợp Tội gián điệp, Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước, Tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác.

          Tội Chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác quân sự (Điều 405): Hành vi chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác quân sự, nếu không thuộc một trong các trường hợp Tội gián điệp, Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước, Tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác.

          Tội Vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự (Điều 406): Hành vi vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự, nếu không thuộc một trong các trường hợp Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước, Tội vô ý làm lộ bí mật công tác; tội làm mất tài liệu bí mật công tác.

          Tội Làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự (Điều 407): Hành vi làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự nếu không thuộc một trong các trường hợp Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước, Tội vô ý làm lộ bí mật công tác; tội làm mất tài liệu bí mật công tác.

          Tội Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự (Điều 413): Hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự, nếu không thuộc một trong các trường hợp Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia.

          Tội làm mất hoặc vô ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 414): Người nào được giao quản lý, được trang bị vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mà làm mất hoặc vô ý làm hư hỏng gây hậu quả nghiêm trọng.

          6. Nhóm xâm phạm trật tự công tác, chế độ trực ban, trực chiến, trực chỉ huy và bảo vệ

          Tội Vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy (Điều 409): Hành vi không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ trực ban, trực chiến, trực chỉ huy gây hậu quả nghiêm trọng.

          Tội Vi phạm quy định về bảo vệ (Điều 410): Hành vi không chấp hành quy định về tuần tra, canh gác, áp tải, hộ tống thuộc một trong các trường hợp: Làm người được bảo vệ, hộ tống bị tổn thương cơ thể; Làm hư hỏng phương tiện kỹ thuật, thiết bị quân sự; Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.

          Tội Vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện (Điều 411): Hành vi không chấp hành nghiêm chỉnh những quy định bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện gây hậu quả nghiêm trọng.

          Tội Vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự (Điều 412): Hành vi vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự gây hậu quả nghiêm trọng.

          Tội Quấy nhiễu nhân dân (Điều 415): Hành vi quấy nhiễu nhân dân đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng.

          III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC CHẤP HÀNH QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT

          Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, người chỉ huy các cấp đối với việc chấp hành kỷ luật, pháp luật của mọi cán bộ, chiến sĩ. 

          Đây là nội dung quan trọng trong nghị quyết lãnh đạo của từng cấp ủy, tổ chức đảng, với chủ trương, biện pháp đồng bộ, sát với từng cơ quan, đơn vị. Trong đó, bảo đảm an toàn đơn vị là một khâu đột phá, nội dung trọng tâm, cần phải thường xuyên rà soát, bổ sung chủ trương, biện pháp lãnh đạo kịp thời. Đồng thời, triển khai cho cấp ủy đảng các cấp, cụ thể hóa nghị quyết của Đảng ủy bằng nghị quyết và kế hoạch công tác của người chỉ huy các cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở đó, cán bộ chủ trì các cấp, bám sát yêu cầu nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị mình để tổ chức thực hiện theo nghị quyết và kế hoạch đã đề ra.

          Hai là, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội cho mọi cán bộ, chiến sĩ.

          Đây là giải pháp rất quan trọng nhằm biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục và chuyển thành  tự giác chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội của cán bộ, chiến sĩ. Vì vậy, hoạt động giáo dục cần phải tiếp tục đổi mới toàn diện theo hướng đồng bộ, thiết thực, hiệu quả, với nhiều biện pháp phù hợp từng cơ quan, khoa giảng viên, đơn vị.

          Trong đó tập trung vào giáo dục, xây dựng đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh cho mọi quân nhân có ý nghĩa rất quan trọng. Lấy việc xây dựng lối sống “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để đấu tranh có hiệu quả lối sống thực dụng, vi phạm nhân cách đạo đức, vi phạm kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước. Đồng thời, cần chủ động giải quyết những vấn đề nảy sinh trong đơn vị như: Mối quan hệ cấp trên với cấp dưới, quan hệ đồng chí, đồng đội, quan hệ với nhân dân. Gắn kết với thực hiện các cuộc vận động, phong trào Thi đua Quyết thắng, nhất là Cuộc vận động Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Nâng cao chất lượng hiệu quả thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở;  xây dựng đơn vị có môi trường văn hóa lành mạnh; kịp thời giải quyết những vướng mắc và có biện pháp ngăn chặn các hiện tượng vi phạm, tiêu cực có thể xảy ra, tránh các biểu hiện giản đơn trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội.

          Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của chỉ huy các cấp trong công tác kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội của cán bộ, chiến sĩ.

           Kỷ luật là sức mạnh của Quân đội”, kỷ luật Quân đội ta là sự thống nhất chặt chẽ giữa tự giác và nghiêm minh. Do vậy, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật, kỷ luật cho mọi quân nhân đòi hỏi chỉ huy các cấp phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc nhắc nhở và kết hợp chặt chẽ giữa quản lý, giáo dục, rèn luyện ý thức tự giác chấp hành kỷ luật với xử lý nghiêm, kịp thời mọi hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, tiến hành xử lý, thi hành kỷ luật nghiêm túc, kịp thời và nghiêm minh.

          Khi đơn vị xảy ra vi phạm kỷ luật, pháp luật, một mặt, lãnh đạo, chỉ huy báo cáo kịp thời, trung thực; mặt khác, cần tập trung tìm biện pháp giải quyết dứt điểm vụ việc, xác định rõ nguyên nhân, trách nhiệm của từng cấp, từng người; chủ động làm tốt công tác tư tưởng, ổn định tình hình đơn vị. Việc xem xét, xử lý kỷ luật phải bám sát các văn bản hiện hành, tránh xử lý theo cảm tính, thiếu khách quan, gây bất bình trong đơn vị. Đồng thời, thực hiện tốt việc phân công quản lý, giúp đỡ để quân nhân vi phạm có điều kiện thuận lợi rèn luyện phấn đấu, sửa chữa khuyết điểm.

          Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội trong đơn vị luôn chịu sự tác động, chi phối của nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan, đòi hỏi, cấp ủy đảng, người chỉ huy các cấp phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả, sát với tình hình thực tiễn của từng cơ quan, đơn vị các giải pháp nêu trên để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội cho đơn vị mình, góp phần xây dựng đơn vị ngày càng chính quy, tiên tiến, mẫu mực, vững mạnh về mọi mặt, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.