I. CƠ SỞ CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG
1. Cơ sở pháp lý
Bồi thường thiệt
hại (BTTH) ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự do hành vi gây
ra thiệt hại phát sinh giữa các chủ thể, bên có hành vi trái pháp luật phải bồi thường
cho bên bị thiệt
hại. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải BTTH tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương
ứng.
Trong đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng được quy định tại Bộ luật dân sự 2015 (BLDS 2015) và Nghị
quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06 tháng 9 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao (Nghị quyết số 02/2022) như sau:
BLDS
2015 có 01 chương, 24 Điều quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng nội dung cơ bản như sau:
Mục
1 bao gồm 04 điều về các quy định chung, cụ thể: Điều 584 Căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại; Điều 585 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại; Điều
586 Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân; Điều 587 Bồi
thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra; Điều 588 Thời hiệu khởi kiện yêu cầu
bồi thường thiệt hại.
Mục
2 bao gồm 05 điều quy định về xác định thiệt hại, cụ thể: Điều 589 Thiệt hại do
tài sản bị xâm phạm; Điều 590 Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm; Điều 591 Thiệt
hại do tính mạng bị xâm phạm; Điều 592 Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín
bị xâm phạm; Điều 593 Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe
bị xâm phạm.
Mục
3 bao gồm 15 điều quy định về bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp cụ
thể, bao gồm: Điều 594 Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng; Điều 595 Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá
yêu cầu của tình thế cấp thiết; Điều 596 Bồi thường thiệt hại do người dùng chất
kích thích gây ra; Điều 597 Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra;
Điều 598 Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra; Điều 599 Bồi
thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý;
Điều 600 Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra; Điều
601 Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; Điều 602 Bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường; Điều 603 Bồi thường thiệt hại do súc vật
gây ra; Điều 604 Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra; Điều 605 Bồi thường
thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra; Điều 606 Bồi thường thiệt
hại do xâm phạm thi thể; Điều 607 Bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả; Điều
608 Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
Nghị
quyết số 02/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn một số quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật Dân sự 2015 nội dung cơ bản như sau: Điều
2 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 584 của
Bộ luật Dân sự; Điều 3 về nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 585
của Bộ luật Dân sự; Điều 4 về xác định tuổi của người gây thiệt hại theo quy định
tại Điều 586 của Bộ luật Dân sự; Điều 5 về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường
thiệt hại quy định tại Điều 588 của Bộ luật Dân sự; Điều 6 về xác định thiệt hại
do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều 589 của Bộ luật Dân sự; Điều 7 về thiệt
hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại Điều 590 của Bộ luật Dân sự; Điều 8 về
thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 591 của Bộ luật
Dân sự; Điều 9 về thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định
tại Điều 592 của Bộ luật Dân sự; Điều 10 về bồi thường thiệt hại do người thi
hành công vụ gây ra quy định tại Điều 598 của Bộ luật Dân sự; Điều 11 về bồi
thường thiệt hại do người chưa đủ mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân
sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản
lý quy định tại Điều 599 của Bộ luật Dân sự; Điều 12 về bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra quy định tại Điều 601 của Bộ luật Dân sự.
2. Tình hình công tác thi hành án dân sự trên địa
bàn Quân khu trong năm 2024
Năm 2024 tình hình an ninh
chính trị trên địa bàn ổn định tuy nhiên tình hình vi phạm, tội phạm, tranh chấp
kinh tế, dân sự diễn biến phức tạp, cụ thể kết quả công tác thi hành án năm
2024 trên địa bàn Quân khu 2 như sau:
Trong năm 2024 Phòng
Thi hành án Quân khu 2 nhận 26 bản án của Tòa án (HSST 23, HSPT 03), 01 quyết định
giám đốc thẩm, 08 yêu cầu thi hành án, 06 hồ sơ ủy thác đến. Ban hành: 249 quyết
định về THA, gồm: 99 quyết định THA, 150 quyết định khác (99 quyết định phân
công Chấp hành viên, 27 quyết định thu phí, 03 quyết định Thành lập hội đồng
tiêu hủy vật chứng, 03 quyết định thu hồi, 03 quyết định ủy thác, 06 quyết định
cưỡng chế, 01 quyết định tiếp tục, 02 quyết định đình chỉ thi hành án, 06 quyết
định chưa có điều kiện). Trong đó:
Tổng
giải quyết: 117 việc = 3.911.024.000 đồng, tăng 17 việc (17%) về việc; tăng
1.139.541.000 đồng (41,12%) về tiền so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, tổng phải
thi hành 117 việc = 3.911.024.000 đồng, tăng 17 việc (17%) về việc, tăng
1.151.541.000 đồng (41,73%) về tiền so với cùng kỳ năm 2023. Tổng thi hành xong
92 việc = 2.154.854.000 đồng, tăng 12 việc (15%) về việc; tăng 966.204.000 đồng
(81,28%) về tiền so với cùng kỳ năm 2023.
Như vậy,
có thể thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh do hành
vi gây ra thiệt hại phát sinh giữa các chủ thể, bên có hành vi trái pháp luật
phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật,
người phạm tội không chỉ chịu trách nhiệm hình sự mà còn có trách nhiệm bồi thường
đối với những thiệt hại đã gây ra.
II. CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Theo quy định tại Điều 584 BLDS 2015 quy định về căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quy định như sau:
“1. Người nào có hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ
luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn
do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài
sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát
sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.”
Theo đó, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh khi
có các điều kiện:
Thứ nhất, có hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của người khác.
Hành vi trái pháp luật trong trách nhiệm dân sự là những
xử sự cụ thể của chủ thể được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động
xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác,
bao gồm: Làm những việc mà pháp luật cấm, không làm những việc mà pháp luật buộc
phải làm, thực hiện vượt quá giới hạn pháp luật cho phép hoặc thực hiện không đầy
đủ nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Thứ hai, có thiệt hại xảy
ra.
Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại bởi mục đích của việc áp dụng trách nhiệm BTTH là khôi phục tình trạng
tài sản cho người bị thiệt hại, do đó không có thiệt hại thì không đặt ra vấn đề
bồi thường cho dù có đầy đủ các điều kiện khác. Thiệt hại là những tổn thất thực
tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy
tín, tài sản của cá nhân, tổ chức, chỉ cần có thiệt hại dù không nghiêm trọng
cũng phải bồi thường. Vì thiệt hại là điều kiện bắt buộc phải có trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, không có thiệt hại thì không phải bồi
thường vì vậy trước tiên cần xác định thế nào là thiệt hại. Theo quy định tại Điều
2 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP, quy định thiệt hại xảy ra bao gồm:
Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác
định được của chủ thể bị xâm phạm, bao gồm tổn thất về tài sản mà không khắc phục
được; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực
tế bị mất hoặc bị giảm sút do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp khác bị xâm phạm.
Thiệt hại về
tinh thần là tổn thất tinh thần do bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích nhân thân khác mà chủ thể bị xâm phạm hoặc
người thân thích của họ phải chịu và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù
đắp tổn thất đó.
Thứ ba, có mối liên hệ nhân quả
giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật:
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật
hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều
này được quy định tại khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015 dưới dạng: Người nào có
hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe,danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền,
lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Tuy nhiên, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn.
Do đó cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một
cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận
chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại.
2. Một số trường hợp cụ thể
2.1. Tài sản gây thiệt hại
Trong trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu,
người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường
hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của
người bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định
khác. Cụ thể như sau:
- Chủ sở hữu tài sản phải bồi thường thiệt hại do tài
sản gây ra, trừ trường hợp người chiếm hữu tài sản đó phải chịu trách nhiệm bồi
thường theo hướng dẫn tại điểm b khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP.
Theo đó, chủ sở hữu tài sản được xác định tại thời điểm tài sản gây thiệt hại
theo quy định của pháp luật. Trường hợp tài sản đang được giao dịch thì phải
xác định thời điểm chuyển giao quyền sở hữu để xác định chủ sở hữu tài sản gây
thiệt hại.
Ví dụ: A bán nhà cho B, hợp đồng mua bán nhà đã được công chứng,
B đã giao 80% tiền mua nhà cho A nhưng chưa nhận nhà thì nhà bị cháy, lan sang
cháy nhà C gây thiệt hại. Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật Nhà ở năm
2014 thì thời điểm chuyển giao quyền sở hữu là thời điểm bên mua đã thanh toán
đủ tiền và nhận nhà, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp này, B chưa
thanh toán đủ tiền và chưa nhận bàn giao nhà nên A chưa chuyển giao quyền sở hữu
nhà cho B. Vì vậy, A vẫn là chủ sở hữu hợp pháp đối với ngôi nhà và phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho C.
- Người chiếm hữu
mà không phải là chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại nếu đang nắm giữ, chi phối
trực tiếp hoặc gián tiếp tài sản như chủ thể có quyền đối với tài sản tại thời
điểm gây thiệt hại.
Ví dụ: Vụ án P.D.H
Ngày 31/12/2020 Sau khi ăn uống cùng đồng nghiệp thì P.D.H
một mình đi bộ về công ty Apodio, vào phòng bảo vệ lấy chùm chìa khóa ô tô BKS:
19C-109.63. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, P.D.H một mình điều khiển xe ô tô BKS:
19C-109.63 trong người có nồng độ cồn (0,573 mg/l khí thở- BL461), đi trên Km
44+660, Km 44+850, Km 44+950, Km 45+850 Quốc lộ 2D thuộc phường Hùng Vương và
phường Thanh Vinh thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ đi theo hướng từ ngã tư 27/7 đi
Bệnh viện phổi tỉnh Phú Thọ, đã liên tiếp đâm vào phía sau 03 xe mô tô đang đi
phía trước cùng chiều, đâm vào 01 xe ô tô đang đỗ trên vỉa hè cùng chiều với
chiều đi của H. Cụ thể:
Khi đến Km 44+660 Quốc lộ 2D xe ô tô do P.D.H điều khiển
đâm vào phía sau xe mô tô SH BKS: 19M1-094.55 do anh L.N.S điều khiển đi phía
trước cùng chiều.
Khi đến Km44+850 đã đâm vào phía sau xe mô tô BKS:
29E2-303.45 do anh N.M.T điều khiển đi phía trước cùng chiều, chở phía sau là
quân nhân Đ.K.H (Sinh năm 1980, cấp bậc: Đại úy QNCN, chức vụ: Nhân viên quân
khí, đơn vị: Tiểu đoàn 22, Bộ tham mưu, Quân khu 2).
Đến Km44+950 đã đâm vào phía sau xe mô tô BKS:
19M1-196.18 do anh D.V.H điều khiển đi phía trước cùng chiều.
Đến Km45+850 đã đâm vào phía sau xe ô tô BKS:
19A-333.04 của chị Đ.T.V.A đang đỗ trên vỉa hè bên phải cùng chiều khiến đầu xe
ô tô này tông vào cổng tường nhà dân phía trước.
Hậu
quả: Quân nhân Đ.K.H, L.N.S tử vong, N.M.T, D.V. H bị thương, 02 xe ô tô hư
hỏng nặng, 03 mô tô hư hỏng nhẹ, cổng tường nhà bà L.T.H, ông H.Đ.K bị hư hỏng.
Trong vụ án này, tài sản gây ra thiệt
hại là chiếc xe ô tô BKS: 19C-109.63. P.D.H là người có lỗi trực tiếp gây
ra vụ tai nạn, do vậy bị cáo H phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Quá trình điều tra xác định
chủ sở hữu của xe ô tô BKS: 19C-109.63 là
công ty gốm sứ CTH, chiếc xe ô tô này công ty CTH đã cho công ty Apodio thuê và
đã có hợp đồng nêu rõ trách nhiệm trước pháp luật về việc quản lý, sử dụng xe
trong thời hạn hợp đồng. Khoản 2 Điều 601 BLDS và ý đ điểm 2 mục III Nghị quyết
03/2006 ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC quy định: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho
người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác”. Trong vụ án này công ty CTH là chủ sở hữu xe ô tô BKS:
19C-109.63 đã giao cho công ty Apodio chiếm hữu, sử dụng chiếc xe này, do vậy
công ty CTH không phải chịu trách nhiệm bồi thường, mà ngược lại, công ty này
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại chiếc xe ô tô BKS: 19C-109.63 đã bị hư hỏng
do tai nạn xảy ra.
Như vậy xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về P.D.H và Công ty TNHH Apodio. Đối với Công ty Apodio quá trình quản lý xe ô
tô không chặt chẽ. Cụ thể: Công ty có quyết định giao cho người quản lý xe
nhưng không quy định cụ thể việc quản lý xe như thế nào, chìa khóa giao cho ai
giữ, khi giao xe có tài liệu giấy tờ gì. Chìa khóa xe để tại phòng bảo vệ nhưng
nhân viên bảo vệ không có trách nhiệm quản lý; người quản lý xe không trực tiếp
giữ chìa khóa dẫn đến ai cũng có thể cầm chìa khóa điều khiển xe; chưa giao nhiệm
vụ rõ ràng cụ thể ai là người giữ chìa khóa xe, khi phân công giao xe thì không
trực tiếp giao chìa khóa xe cho người đó, không có giấy tờ tài liệu về việc
giao xe.
Từ việc quản lý xe không chặt chẽ
dẫn đến bị cáo P.D.H tự ý lấy xe ô tô điều khiển ra khỏi khu vực quản lý gây
tai nạn mà không ai biết và không ai ngăn cản. Căn cứ Khoản 4 Điều 601 Bộ luật
dân sự thì công ty Apodio phải có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại
cùng với bị cáo P.D.H trong vụ tai nạn giao thông trên.
Khoản 4 Điều 601 BLDS quy
định: “Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ
bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại. Khi chủ sở hữu, người
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm
cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt
hại.”
Từ vụ án trên cho thấy chủ sở hữu đã bàn
giao, cho thuê quyền sử dụng, chiếm hữu tài sản hợp pháp thì không phải bồi thường
thiệt hại nếu có người chiếm hữu, chi phối tài sản đó gây ra thiệt hại. Trường
hợp tài sản bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại nhưng nếu chủ sở
hữu, người chiếm hữu, sử dụng tài sản có lỗi trong việc để tài sản bị chiếm hữu,
sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
2.2. Thiệt hại do sự kiện bất khả
khảng hoặc do lỗi của người bị thiệt hại
- Người gây thiệt hại, chủ
sở hữu tài sản, người chiếm hữu tài sản không phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc
hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
luật có quy định khác.
+ Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách
khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp
dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Ví dụ 1: Nhà của A được xây dựng, đang sử dụng bình thường và
không có dấu hiệu hư hỏng. Một cơn lốc xoáy bất chợt, không được dự báo trước
đã cuốn mái nhà của A vào người đi đường gây thiệt hại. Trường hợp này là sự kiện
bất khả kháng nên A không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Ví dụ 2: Có thông tin bão, A đã tiến hành các biện pháp phòng
chống bão theo hướng dẫn của cơ quan chức năng địa phương. Tuy nhiên, cơn bão
quá mạnh đã làm tốc mái nhà của A và gây thiệt hại cho người đi đường. Trường hợp
này là sự kiện bất khả kháng nên A không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại.
+ Lỗi hoàn toàn do người bị thiệt hại là toàn bộ thiệt
hại xảy ra đều do lỗi của người bị thiệt hại, người gây thiệt hại không có lỗi.
Ví dụ: A lái xe ô tô (thuộc sở hữu của mình) theo đúng quy định
của Luật Giao thông đường bộ, C lao vào xe ô tô của A đang đi trên đường để tự
tử. Trường hợp này, A không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do lỗi
hoàn toàn của C.
III. NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một
loại trách nhiệm pháp lý và được áp dụng với tất cả các chủ thể và tùy trong từng
trường hợp cụ thể. Theo tinh thần đó Điều 586 BLDS năm 2015 quy định về năng lực
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân tùy thuộc vào độ tuổi và khả
năng nhận thức của cá nhân khi gây thiệt hại cho người khác ở ba mức độ khác
nhau. Cụ thể, Điều 586 BLDS, quy định như sau:
“1. Người từ đủ
mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa đủ mười lăm tuổi
gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu
tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại
có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp
quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ
phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà
có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ
để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để
bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người
giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy
tài sản của mình để bồi thường.”
Dựa vào quy định trên, có thể thấy năng lực chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng tùy thuộc vào độ tuổi và khả năng nhận thức
khác khác nhau, bao gồm những chủ thể sau: Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng
lực hành vi đầy đủ; Người dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại Người từ đủ mười lăm
tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại; Người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây
thiệt hại, cụ thể:
Thứ
nhất, đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi đầy đủ phải tự bồi
thường thiệt hại do họ gây ra.
Theo đó, cá nhân từ đủ 18 tuổi trở
lên khi gây thiệt hại cho người khác phải tự chịu trách nhiệm bồi thường bằng
tài sản của mình cho thiệt hại mà mình gây ra, điểm đặc biệt ở quy định này
pháp luật không hề đề cập tới khả năng tài chính của cá nhân từ 18 tuổi trở lên
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự này. Bởi lẽ theo quy định của Bộ luật lao động
Việt Nam thì những cá nhân từ 15 tuổi đã có khả năng bằng sức lực của mình tạo
nên những tài sản nhất định và họ có quyền tham gia vào các hợp đồng lao động.
Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định rõ ràng người thành niên là người từ đủ 18
tuổi trở lên, không bị bệnh tâm thần, không mắc các bệnh khác mà không thể nhận
thức không thể làm chủ được hành vi của mình có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng
dân sự trước Tòa án, yếu tố này quyết định đến việc họ có khả năng tự chịu
trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng do hành vi có lỗi của họ gây thiệt hại và
là cơ sở pháp lý để các nhà làm luật quy định về trách nhiệm bội thường thiệt hại
ngoài hợp đồng đối với những người đã thành niên gây thiệt hại ngoài hợp đồng.
Ví dụ: Vụ án P.D.H:
Đối với vụ án P.D.H đã nêu ở
trên, P.D.H sinh ngày 05/11/1984 là người đủ 18 tuổi trở lên và có đầy đủ năng
lực nhận thức và điều khiển hành vi nên phải bồi thường thiệt hại do mình gây
ra.
Cụ thể, căn cứ bản án ngày
05/8/2021 của Tòa án quân sự khu vực Quân khu 2, P.D.H và công ty TNHH MTV
Apodio có trách nhiệm liên đới bồi thường. Cụ thể Hưng bồi thường 70%, công ty
Apodio bồi thường 30% thiệt hại. Trong đó, P.D.H phải bồi thường số tiền như
sau:
- Bồi thường cho chị Đ.T.V.A
140.000.000đ.
- Hoàn trả cho Bảo hiểm quân đội:
764.309đ.
- Bồi thường gia đình bị hại Đ.K.H
134.662.780đ đồng thời cấp dưỡng cho 02 con chưa thành niên 700.000đ/tháng/cháu
cho đến khi mỗi cháu đủ 18 tuổi, cấp dưỡng bố đẻ quân nhân Hòa là ông Đ.Đ.T
560.000đ/tháng cho đến khi ông T qua đời.
- Bồi thường cho gia đình L.N.S
206.738.225đ, đồng thời cấp dưỡng cho 02 con chưa thành niên
700.000đ/tháng/cháu cho đến khi mỗi cháu đủ 18 tuổi, cấp dưỡng mẹ đẻ anh Sơn là
Ma Thị Nghĩa 210.000đ/tháng cho đến khi bà Nghĩa qua đời.
Thứ hai,
đối với những người dưới 18 tuổi bao gồm 3 trường hợp:
- Trường hợp 1: Người dưới 15 tuổi
gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại,
theo đó, cha mẹ của người gây thiệt hại trong độ tuổi này có tư cách là bị đơn
dân sự trước tòa án. Nếu tài sản của cha mẹ không đủ mà con có tài sản riêng
thì lấy tài sản của con để bồi thường phần còn thiếu. Trách nhiệm của cha, mẹ
người dưới 15 tuổi phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra là
trách nhiệm pháp lí, không cần có điều kiện lỗi. Việc lấy tài sản của con để bồi
thường trong trường hợp này không được hiểu là nghĩa vụ bổ sung mà chỉ là khắc
phục phần còn thiếu về tài sản.
Ví dụ:
Bản án số: 22/2021/DS-PT, ngày:
30 - 9 – 2021 về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Tòa án nhân
dân tỉnh Hòa Bình
Nội dung bản án: Vào hồi 16 giờ ngày 23/3/2020, bà
Đinh Thị H3 (mẹ anh D), sinh năm 1958 trú tại Tổ X, phường T, thành phố HB, tỉnh
HB, đang dắt xe đạp lên dốc nghĩa trang xóm G, tổ Y, phường T, thành phố HB khi
dắt xe lên gần đỉnh dốc thì bị cháu Trần Đức H2 đi xe máy điện từ đằng sau đâm
vào đuôi xe đạp của bà H3, làm bà H3 ngã xuống đập đầu xuống mặt đường, gây chấn
thương sọ não, tổn hại 85% sức khỏe. Sau khi sự việc xảy ra, gia đình anh D đưa
bà H3 đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình từ ngày 23/3/2020 đến
27/4/2020 thì xuất viện, đến ngày 13/8/2020 lại nhập viện để mổ ghép hộp sọ, đến
ngày 04/9/2021 thì xuất viện về nhà. Nay gia đình anh yêu cầu cháu Trần Đức H2
cùng bố mẹ cháu H2 là ông Trần Đức T và bà Bùi Thị H1 phải có trách nhiệm bồi
thường cho bà Đinh Thị H3 262.599.248 đồng.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Hồ
sơ vụ án thể hiện cháu Trần Đức H2 sinh ngày 21/10/2005 (Thời điểm phạm tội H2
14 tuổi 6 tháng) là người trực tiếp gây tai nạn với bà H3, căn cứ khoản 2 Điều
586 BLDS 2015 quy định: “Người chưa đủ mười
lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt
hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây
thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ
trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này”.
Trong vụ án này, bố mẹ Trần Đức
H2 được xác định là bị đơn dân sự, là người chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ
bằng tài sản của cha, mẹ đối với thiệt hại do con mình gây ra. Bởi lẽ, người
chưa thành niên dưới 15 tuổi là những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất,
tâm sinh lý, chưa nhận biết được hết những hậu quả cho xã hội do hành vi của
mình gây ra và thực tế người chưa thành niên ở độ tuổi này phụ thuộc khá nhiều
vào việc chăm sóc, giáo dục, quản lý của cha mẹ; do đó, khi cha mẹ không thực
hiện đúng việc chăm sóc, giáo dục, quản lý để con gây ra thiệt hại cho người
khác thì cha mẹ phải có trách nhiệm bồi thường.
- Trường hợp 2: Người từ đủ 15 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình và
người này là chủ thể bồi thường thiệt hại. Pháp luật quy định người từ đủ 15 tuổi
gây thiệt hại có trách nhiệm bồi thường thiệt hại là căn cứ vào điều kiện xã hội
thực tế. Bộ luật lao động quy định những người từ đủ mười lăm tuổi được tham
gia giao kết hợp đồng lao động với những công việc phù hợp với nhận thức và sức
khỏe của người đó.
Theo đó, những người ở độ tuổi
này tham gia lao động và được hưởng các khoản tiền lương, tiền thưởng và các
khoản phúc lợi khác và là chủ sở hữu với các khoản thu nhập hợp pháp đó. Theo
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì những người trong độ tuổi này có quyền
tham gia tố tụng dân sự với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trước tòa
án. Người ở độ tuổi này đã nhận thức được hành vi của mình và phần nào cũng tự
định đoạt ý chí tham gia vào các quan hệ dân sự phổ biến trong cuộc sống. Pháp
luật đã dựa vào những cơ sở này để quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của người ở độ tuổi này. Vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trước
hết thuộc về người chưa thành niên đó, chỉ khi người chưa thành niên có tài sản
nhưng không đủ để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu, trong
trường hợp này người chưa thành niên tham gia tố tụng dân sự với tư cách là bị
đơn, còn cha mẹ, người giám hộ họ phải bồi thường phần còn thiếu, bên cạnh với
tư cách là người đại diện cho người chưa thành niên họ còn có tư cách là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Ví dụ: Bản án số 279/2018/HS-PT Ngày 23 - 5 – 2018,
Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh
Nội dung vụ án: Khoảng 22 giờ
ngày 24/9/2017, Hoàng Đức T đang uống rượu tại quán Dê NN thuộc khu phố Thanh
Xuân, Thị trấn X, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước thì bị Nguyễn Văn N chửi, đòi
đánh nên Hoàng Đức T nảy sinh ý định đánh trả thù, T đã về phòng trọ lấy 01 con
dao tự chế, quay lại quán Dê NN chém 01 nhát vào người Nguyễn Văn N nhưng anh N
tránh né được, T tiếp tục dùng dao đâm 01 nhát vào cổ anh N, hậu quả anh N bị tử
vong.
Nhận định Tòa án: Hoàng Đức T (sinh
ngày 10/4/2000, thời điểm phạm tội H 17 tuổi) là người chưa thành niên, không
có tài sản riêng, còn sống chung lệ thuộc với gia đình cha mẹ; do đó buộc Bà
Đinh Thị H phải có nghĩa vụ bồi thường thay cho bị cáo Hoàng Đức T là đúng pháp
luật. Do bị cáo Hoàng Đức T khi phạm tội là người chưa thành niên
- Trường hợp 3: Người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng
tài sản của người được giám hộ để bồi thường.
Ví dụ: Bản án số: 148/2017/DS-PT Ngày 19/7/2017 về việc tranh chấp bồi thướng
thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Nội dung vụ án: Vào lúc 8 giờ 30
phút ngày 26/3/2015, Lê Tuấn A (con ông C, bà L) bị bệnh câm điếc bẩm sinh đã
dùng dao đâm vào ngực và đùi Bùi Thanh T (con ông N, bà Ng) gây thương tích nặng
được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa C nhưng đ tử vong. Trong quá trình điều
tra Lê Tuấn A có biểu hiện tâm thần. Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần
số: 183/PYTT-PVPN ngày 21/5/2015 của Viện giám định pháp y tâm thần Trung ương
phân viện phía nam kết luận Lê Tuấn A chậm phát triển tâm thần, không có năng lực
nhận thức và điều khiển hành vi.
Cơ quan điều tra Công an tỉnh
Long An ra quyết định đình chỉ vụ án. Ngày 14/02/2017, Tòa án nhân dân huyện Cần
Đước có Quyết định số: 02/2017/QĐVDS tuyên bố Lê Tuấn A mất năng lực hành vi
dân sự. Cha mẹ Bùi Thanh T là Bùi Văn N, Trần Thị Ng khởi kiện yêu cầu cha mẹ
Lê Tuấn A là Bùi Văn C, Lê Thị L phải bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm
phạm.
Trong vụ án này, Lê Tuấn A là người
mất năng lực nhận thức và điều khiển hành vi do đó, được miễn trách nhiệm hình
sự, tuy nhiên vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của
mình gây ra. Vì vậy, buộc ông Bùi Văn C và bà Lê Thị L là bố mệ của Lê Tuấn A
liên đới bồi thường cho gia đinh bị hại số tiền 112.700.000 đồng (bao gồm chi
phí thuê xe cấp cứu, mai táng và tổn thất tinh thần).
Đồng thời, buộc ông Bùi Văn C và
bà Lê Thị L liên đới cấp dưỡng cho cháu Bùi Trần Kim N (con của Bùi Thanh T) mỗi
tháng 650.000 đồng đến khi cháu Kim N đủ 18 tuổi.
IV. NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ XÁC ĐỊNH
THIỆT HẠI
1. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Pháp luật khuyến khích các bên đương sự tự thỏa thuận
về mức bồi thường, hình thức bồi thường, phương thức bồi thường và việc thỏa
thuận đó nếu không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì được pháp luật công nhận.
Tuy nhiên, nếu các bên không thể thỏa thuận được thì việc xác định mức bồi thường
thiệt phải do Tòa án cấp có thẩm quyền xem xét dựa trên các nguyên tắc bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng để thực hiện việc bồi thường, làm sao đó đảm bảo tính
công bằng giữa bên gây thiệt hại với bên bị thiệt hại, việc bồi thường phải được
thực hiện một cách kịp thời và tương xứng toàn bộ thiệt hại mà người có hành vi
gây thiệt hại thực hiện, các nguyên tắc được quy định cụ thể như sau:
Theo quy định tại Điều 585 BLDS năm 2015 quy định về
nguyên tắc bồi thường thiệt hại, quy định như sau:
Thứ nhất, thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 3 Nghị quyết
02/2022/NQ-HĐTP quy định: “Thiệt hại thực
tế” là thiệt hại về vật chất, tinh thần do hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người
khác;. Thiệt hại thực tế được tính thành tiền tại thời điểm giải quyết bồi thường.
Thiệt hại phát sinh sau thời điểm giải quyết bồi thường lần đầu được xác định tại
thời điểm giải quyết bồi thường lần tiếp theo nếu có yêu cầu của người bị thiệt
hại.
Theo đó, thiệt hại thực tế bao gồm: Thiệt hại về vật
chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được của chủ thể bị xâm phạm, bao gồm
tổn thất về tài sản mà không khắc phục được; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn
chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút do tài sản,
sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp khác
bị xâm phạm và Thiệt hại về tinh thần là tổn thất tinh thần do bị xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích nhân thân khác mà
chủ thể bị xâm phạm hoặc người thân thích của họ phải chịu và cần phải được bồi
thường một khoản tiền bù đắp tổn thất đó. Các thiệt hại phát sinh sau thời điểm
giải quyết bồi thường lần đầu được xác định tại thời điểm giải quyết bồi thường
lần tiếp theo nếu có yêu cầu của người bị thiệt hại.
Như vậy, các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường,
hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc,
phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác. Cần phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức
bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo
đức xã hội. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì khi giải quyết
tranh chấp về BTTH ngoài hợp đồng cần chú ý một số điểm như sau:
Một là, thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ
Theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 3 Nghị quyết
02/2022/NQ-HĐTP quy định “Thiệt hại phải
được bồi thường toàn bộ” là tất cả các thiệt hại thực tế xảy ra đều phải được
bồi thường”. Từ quy định này, có thể hiểu thiệt hại có nghĩa là khi có yêu cầu
giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm,… phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS
2015 quy định trong trường hợp cụ thể đó, thiệt hại bao gồm những khoản nào và
thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt
hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó.
Ví dụ: A gây thương tích cho B mà B phải điều trị dài ngày.
Tại thời điểm Tòa án giải quyết bồi thường thì tổng thiệt hại thực tế là X đồng,
bao gồm: chi phí điều trị, mức thu nhập bị mất hoặc giảm sút; chi phí cho người
chăm sóc, tổn thất tinh thần. Sau đó, B vẫn phải tiếp tục điều trị thì các chi
phí phát sinh sau thời điểm Tòa án giải quyết sẽ được giải quyết trong vụ án
khác nếu có yêu cầu của người bị thiệt hại.
Hai là, thiệt hại phải được bồi thường kịp thời
Theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 3 Nghị quyết
02/2022/NQ-HĐTP quy định “Thiệt hại phải
được bồi thường kịp thời” là thiệt hại phải được bồi thường nhanh chóng nhằm
ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại. Theo đó, để thiệt hại được bồi thường
kịp thời thì quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có thể áp dụng một hoặc một số biện
pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự để giải quyết
yêu cầu cấp bách của người bị thiệt hại (như buộc thực hiện trước một phần
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm; buộc thực hiện
trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng...).
Bên cạnh đó, đối với các vụ án hình sự, vụ án hành
chính để đảm bảo việc bồi thường thiệt hại toàn bộ và kịp thời, việc giải quyết
vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự, vụ án hành chính phải được tiến hành
cùng với việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính. Trường hợp vụ án hình
sự, vụ án hành chính có nội dung giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại nhưng
chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình
sự, vụ án hành chính thì vấn đề bồi thường có thể tách ra để giải quyết theo thủ
tục tố tụng dân sự và người yêu cầu bồi thường thiệt hại phải nêu rõ từng khoản
thiệt hại thực tể đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và các tài liệu, chứng cứ
chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ.
Trường hợp người yêu cầu bồi thường thiệt hại không thể
tự mình thu thập được tài liệu, chứng cứ thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập
tài liệu, chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Thứ hai, người chịu trách nhiệm BTTH có
thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá
lớn so với khả năng kinh tế của mình.
Theo đó, thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của
người chịu trách nhiệm bồi thường là trường hợp có căn cứ chứng minh rằng nếu
Tòa án tuyên buộc bồi thường toàn bộ thiệt hại thì không có điều kiện thi hành
án.
Ví dụ: Một người vô ý làm cháy nhà người khác gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng.
Người gây thiệt hại có tổng tài sản là 100.000.000 đồng, thu nhập trung bình
hàng tháng là 2.000.000 đồng. Mức thiệt hại này là quá lớn so với khả năng kinh
tế của người gây thiệt hại.
Thứ ba, khi mức bồi thường không còn phù hợp với
thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với
thực tế, có nghĩa là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế - xã hội; sự biến động
về giá cả; sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị
thiệt hại; sự thay đổi về khả năng kinh tế của người có trách nhiệm bồi thường
mà mức bồi thường không còn phù hợp với sự thay đổi đó.
Thứ tư, khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc
gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. Theo đó, đối với nguyên tắc này sẽ xảy ra trong
hai trường hợp như sau:
- Một là, thiệt hại hoàn toàn do người bị thiệt hại
gây ra, như vậy, người bị thiệt hại sẽ không nhận được bồi thường.
- Hai là, thiệt hại một phần do người bị thiệt hại gây
ra, bên bị thiệt hại có phần lỗi đối với thiệt hại xảy ra thì không được bồi
thường thiệt hại tương ứng với phần lỗi đó.
Ví dụ: Bản án 09/2020/DSPT ngày 24/11/2020 về tranh chấp bồi
thường thiệt hại do cây cối gây ra.
Nội dung vụ án: Nhà bà và nhà ông Võ Thành Ch ở sát cạnh
nhau. Năm 2017, một cây bạch đàn của ông Ch bị gió ngã đổ sang vườn nhà bà làm
gãy một số cây cối của bà nhưng bà không yêu cầu ông Ch bồi thường mà để hai
bên thương lượng với nhau. Từ đó đến năm 2019, bà liên tục yêu cầu ông Ch chặt
số cây bạch đàn còn lại nằm sát ranh giới đất giữa hai nhà để tránh việc gió
làm ngã cây gây thiệt hại tài sản của gia đình bà nhưng ông Ch không chịu chặt.
Ngày 30/10/2019, 02 cây bạch đàn của ông Ch bị cơn bão số 5 làm ngã đổ sang vườn
nhà bà làm thiệt hại tài sản gồm: một số cây cảnh, trụ rào, ống khói. Tổng giá
trị thiệt hại theo kết luận của Hội đồng định giá là 13.700.000 đồng. Bà yêu cầu
ông Võ Thành Ch phải bồi thường thiệt hại tài sản cho bà số tiền 13.700.000 đồng.
Nhận định của Tòa án: Theo ông
Ch, ông có thuê anh Trần Văn S làm nghề cưa cây xẻ gỗ đến chặt bạch đàn để
tránh việc cây đổ sang nhà bà Ng nhưng ông Trần Đình C là chồng bà Ng gây khó
khăn không cho cành lá rơi sang phía nhà bà Ng nên anh S không thể thực hiện được
(có xác nhận của UBND xã M). Như vậy, gia đình bà Ng cũng có một phần lỗi nên
phải chịu trách nhiệm do lỗi của mình gây ra, cụ thể phải chịu 1/3 thiệt hại là
4.566.000 đồng (13.700.000 đồng x 1/3), ông Võ Thành Ch phải bồi thường cho bà
Ng số tiền 9.134.000 đồng là phù hợp, đúng pháp luật.
Thứ năm, bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt
hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn
chế thiệt hại cho chính mình. Theo đó, bên
có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do
không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại
cho chính mình” là trường hợp bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm biết, nhìn thấy
trước việc nếu không áp dụng biện pháp ngăn chặn thì thiệt hại sẽ xảy ra và có
đủ điều kiện để áp dụng biện pháp ngăn chặn, hạn chế được thiệt hại xảy ra
nhưng đã để mặc thiệt hại xảy ra thì bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được
bồi thường thiệt hại.
2. Xác định thiệt hại
2.1. Thiệt hại do tài sản bị
xâm phạm
Theo Điều 589 BLDS 2015 thì thiệt hại do tài sản bị
xâm phạm được bồi thường bao gồm:
Thứ nhất, tài sản bị mất, bị hủy hoại. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 6 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP thì
tài sản bị mất, bị hủy hoại được chi làm ba dạng như sau:
Một là, đối với tài sản là vật: Trường hợp
tài sản là vật thì xác định thiệt hại đối với tài sản bị mất, bị hủy hoại căn cứ
vào giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản cùng tính năng, tiêu chuẩn
kỹ thuật, tác dụng và mức độ hao mòn của tài sản bị mất, bị hủy hoại tại thời điểm giải quyết bồi thường. Cụ thể như xe máy, nhà
cửa, cây cối…..bị mất, bị hủy thì căn cứ vào giá thị trưởng của tài sản cũng loại
hoặc tài sản cùng tính năng, tiêu chuẩn kĩ thuật, tác dụng và mức độ hao mòn để
yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Ngày 10/3/2024, L.V.T đang thực hiện hành vi trộm cắp
dây tiếp địa lõi đồng tại trạm phát sóng DBN0030 ở bản Hua Sa A, xã Tỏa Tình,
huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên thì bị Công an xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo, tỉnh
Điện Biên phát hiện và lập biên bản sự việc.
Hậu quả: Căn cứ Kết luận định giá xác định giá trị tài
sản bị hư hỏng là 2.583.900 đồng.
Trong vụ án, L.V.T có hành vi trộm cắp tài sản là các
dây tiếp địa. Hành vi của Thu cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều
173 BLHS, phải chịu hình phạt 06 tháng tù. Bên cạnh đó, L.V.T có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do tài sản bị mất, hủy hoại. Sau khi bị cắt các dây tiếp địa
hư hỏng và không còn giá trị sử dụng. Vì vậy, căn cứ kết luận về giá trị tài sản
của Hội đồng định giá Thu có trách nhiệm bồi thường giá trị các dây tiếp địa bị
hủy hoại là: 2.583.900 đồng.
Hai là, tài sản là tiền thì thiệt hại được xác định là số tiền
bị mất, bị hư hỏng.
Ba là, đối với giấy tờ có giá bị mất, bị hư hỏng mà không
thể khôi phục được thì thiệt hại được xác định là giá trị của các giấy tờ bị mất,
bị hư hỏng tại thời điểm giải quyết bồi thường. Trường hợp giấy tờ có giá bị mất,
bị hư hỏng mà có thể khôi phục được thì thiệt hại được xác định là các chi phí
cần thiết để khôi phục các giấy tờ đó, cụ thể như giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu đất và tài sản gắn liền với đất là giấy tờ có giá, trong trường
hợp có người làm mất hoặc hư hỏng thì Chủ sở hữu của thửa đất có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu đất và tài sản gắn liền với đất được yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
Như vậy, cần xác định giá trị thực tế của tài sản để
buộc người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ giá trị tài sản, nếu tài sản
là tiền thì thiệt được được xác định là số tiền bị mất, hư hỏng, còn nếu tài sản
Giá trị của tài sản không thống nhất ở thời điểm gây thiệt hại và thời điểm bồi
thường. Do đó, khi xác định giá trị của tài sản lưu ý xác định giá trị thực tế
của tài sản vào thời điểm tòa án xét xử sơ thẩm để buộc người gây thiệt hại phải
bồi thường cho người bị thiệt hại.
Thứ hai, tài sản bị hư hỏng: Theo quy định tại
điểm b, khoản 1 Điều 6 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP, quy định đối với tài sản bị
hư hỏng, thiệt hại là chi phí để sửa chữa, khôi phục lại tình trạng tài sản trước
khi bị hư hỏng theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường để xác định
thiệt hại; nếu tài sản bị hư hỏng không thể sửa chữa, khôi phục thì thiệt hại
được xác định thì được xác định giống như tài sản bị mất, hủy hoại nêu trên.
Như vậy, hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại
làm cho tài sản bị hư hỏng, không còn tình trạng nguyên vẹn như trước khi bị
thiệt hại và cần phải bỏ ra chi phí để sửa chữa tài sản. Do đó, trong trường hợp
tài sản bị hư hỏng thì chi phí sửa chữa, thay thế các bộ phận hư hỏng của tài sản
cũng được xác định là thiệt hại và người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi
thường những khoản này.
Thứ ba, lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản là hoa lợi,
lợi tức mà người bị thiệt hại đang hoặc sẽ thu được nếu tài sản không bị mất, bị
hư hỏng.
Lợi ích gắn liền với việc khai thác, sử dụng tài sản
có thể được hiểu là những lợi ích vật chất cụ thể mà người bị thiệt hại không
thu được kể từ khi tài sản bị xâm phạm.Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị
quyết 02/2022/NQ- HĐTP thì hoa lợi, lợi tức được tính theo giá thực tế đang
thu, nếu chưa thu thì theo giá thị trường cùng loại hoặc mức giá thuê trung
bình 01 tháng của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tiêu chuẩn kỹ thuật,
tính năng, tác dụng và chất lượng tại thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm xác định thiệt
hại; đối với những tài sản trên thị trường không có cho thuê, hoa lợi, lợi tức
được xác định trên cơ sở thu nhập trung bình của 03 tháng liền kề do tài sản bị
thiệt hại mang lại trong điều kiện bình thường trước thời điểm thiệt hại xảy
ra.
Thứ tư, chi phí hợp lí để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại: Người bị thiệt hại đã phải bỏ ra các chi phí để ngăn chặn, không cho
thiệt hại tiếp tục phát sinh hoặc phải bỏ ra các chi phí để ngăn chặn, không
cho thiệt hại tiếp tục phát sinh hoặc phải bỏ ra chi phí khác để khắc phục thiệt
hại.
Theo quy định tại khoản 3, Điều 6 Nghị quyết 02/2022/NQ
- HĐTP quy định chi phí hợp lý là những chi phí thực tế, cần thiết tại thời điểm
chi trong điều kiện bình thường cho việc áp dụng các biện pháp cần thiết làm
cho thiệt hại không phát sinh thêm; sửa chữa, khôi phục lại tình trạng ban đầu
của tài sản bị xâm phạm.
Như vậy, thiệt hại về tài sản bao
gồm thiệt hại trực tiếp nhằm phục hồi tình trạng tài sản ban đầu của người bị
thiệt hại và thiệt hại gián tiếp liên quan đến việc khai thác và sử dụng tài sản
trong thời gian từ khi xảy ra thiệt hại đến khi bồi thường.
2.2. Thiệt hại do sức
khỏe bị xâm phạm
Theo Điều 590 BLDS thì thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
được bồi thường bao gồm:
* Chi phí hợp lý cho việc cứu
chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị
thiệt hại
- Chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp
luật về khám bệnh, chữa bệnh cho người bị thiệt hại; thuê phương tiện đưa người
bị thiệt hại đến cơ sở khám chữa bệnh và trở về nơi ở;
- Chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho người bị thiệt hại được
xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho 01
ngày khám bệnh, chữa bệnh theo số ngày trong hồ sơ bệnh án;
- Chi phí phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm
sút là các chi phí cho việc phục hồi, hỗ trợ, thay thế một phần chức năng của
cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại.
* Công thức tính chi phí bồi dưỡng sức khỏe do bị xâm phạm: Mức bồi dưỡng
sức khỏe do bị xâm phạm = (Lương tối thiểu vùng : 26 ngày) x số ngày khám chữa
bệnh.
Ví dụ: Bản án về bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị
xâm phạm số 16/2023/DS-PT Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
Nội dung vụ án: Bà T và ông V có mâu thuẫn với nhau về
đất đai, nên ngày 20/10/2021 ông Nguyễn Ngọc V và con trai là anh Nguyễn Ngọc
V1 cùng bà Nguyễn Thị Ph (là vợ ông V) xông vào nhà bà T chửi bới, lăng mạ, ném
đá vào nhà bà T. Sau đó ông V và anh V1 xông vào đấm, đá túi bụi vào đầu, mặt
bà, làm bà ngã xuống đống cát, anh V1 tiếp tục xông vào đấm đá vào đầu và bụng
bà, ông V cầm gạch đập vào hông bên trái của bà làm bà bị thương không dậy được,
bà con hàng xóm đã đưa bà đến Bệnh viện đa khoa huyện Thường Xuân cứu chữa.
Trong vụ án này, thiệt hại về sức khỏe của bà T được
xác định bao gồm:
Chi phí điều trị
tại Bệnh viện Đa khoa huyện Thường Xuân từ ngày 20/10/221 đến ngày 01/11/2021 là
12 ngày, gồm các khoản sau: Tiền viện phí nộp ngày 21/10/2021 và ngày
01/11/2021: 3.336.773 đồng; Tiền thuốc ngày 20/10/2021: 1.200.000 đồng.
Chi phí điều trị
tại Bệnh viện Đa khoa khu vực Ngọc Lặc từ ngày 01/11/2021 đến ngày 05/11/2021:
Viện phí: 3.357.701 đồng; Khám và chụp Xquang: 97.200 đồng; Chụp Xquan và chụp
CT: 1.495.200 đồng.
Chi phí tái
khám tại Bệnh viện Đa khoa huyện Thường Xuân: Tiền phí, viện phí: 552.000 đồng;
Tiền thuốc ngày 07/12/2021: 340.000 đồng + 630.000 đồng = 970.000 đồng.
Tiền thuê xe đi
và về từ Thường Xuân đến Ngọc Lặc: 800.000 đồng.
Chi phí mua đồ
dùng cá nhân tại các Bệnh viện: 300.000 đồng.
Tiền bồi dưỡng
phục hồi sức khỏe một lần: 2.000.000 đồng.
Tổng số tiền ông V và anh V1 phải liên đới bồi thường
cho bà T là 12.489.674 đồng.
* Thu nhập thực tế bị mất hoặc
bị giảm sút của người bị thiệt hại
- Trường hợp người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ
tiền lương, tiền công thì được xác định theo mức tiền lương, tiền công của người
bị thiệt hại trong khoảng thời gian tiền lương, tiền công bị mất hoặc bị giảm
sút.
Ví dụ: Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
số 24/2023/DS-PT Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình.
Nội dung vụ án: Ông C là lái xe của Hợp tác xã vận tải
HK (nhà xe Lan C), đón khách tuyến Lạc Sơn – Hòa Bình đi Yên Nghĩa – Hà Nội.
Vào hồi 04 giờ 30 phút ngày 23/4/2023, anh B xuất bến ở bến xe Bình An – Hòa
Bình, 04 giờ 50 phút thì xe đến Bến xe trung tâm thành phố Hòa Bình. Trong lúc
chờ xếp khách, anh B ngồi uống nước tại quán nước của bà Cư. Lúc này ông C đi từ
cổng bến xe trung tâm đi vào, không hiểu vì lý do gì ông C đấm đá túi bụi vào đầu,
mặt, bụng khiến anh B ngã lăn ra đất. Sau đó ông C cầm điếu cày đánh vào mắt
bên trái anh B gây chảy máu. Sự việc có một số hành khách trên xe chứng kiến và
có camera tại bến xe ghi lại hình ảnh. Hậu quả mắt anh B gần như không nhìn thấy
gì, phải đi điều trị tại Bệnh viện mắt Trung ương. Qua giám định của Trung tâm
giám định pháp tỉnh Hòa Bình kết luận: Anh B bị tổn hại 21% sức khỏe.
Nhận định Tòa án: Trong vụ án này, đối với thiệt hại về
thu nhập của anh B được xác định bao gồm:
Từ ngày 23/4/2022 – 02/5/2023 anh B đến khám và điều
trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình trong thời hạn 10 ngày. Việc điều trị tại
Bệnh viện đa khoa tỉnh Hòa Bình, anh Vũ Văn B đã cung cấp toàn bộ hóa đơn có
xác nhận của bệnh viện cho Tòa án. Trong thời gian này, nguyên đơn không tự
mình chăm sóc bản thân được mà cần có người chăm sóc. Ngày 02/5/2023, theo yêu
cầu của người bệnh, Bệnh viện đa khoa tỉnh Hòa Bình có Giấy chuyển tuyến khám bệnh,
giới thiệu anh B chuyển đến khám và điều trị tại Bệnh viện mắt Trung ương.
Theo Bảng chấm công mà Hợp tác xã vận tải Sông Đà cung
cấp: Số ngày anh B nghỉ làm không được hưởng lương để đi điều trị thương tích từ
ngày 23/4/2022 đến 30/6/2022 (69 ngày). Số ngày anh B không làm lái xe mà chuyển
sang làm phụ xe do ảnh hưởng của thương tích từ 01/7/2022 đến 03/9/2022 là 65
ngày. Xét bảng chấm công của Hợp tác xã vận tải Sông Đà cung cấp là khách quan,
phù hợp với thương tích của anh B nên Hội đồng xét xử xác định số ngày anh B mất
thu nhập và giảm sút thu nhập do bị thương tích như sau:
Số ngày anh B mất thu nhập được xác định là số ngày
anh B nghỉ làm không được hưởng lương theo hợp đồng lao động là: 69 ngày x
300.000 đồng = 20.700.000 đồng.
Số ngày anh B chuyển sang làm phụ xe là 65 ngày, thu
nhập tiền lương của phụ xe là 200.000đ/ngày, mức chênh lệch tiền lương so với
lái xe bị giảm đi 100.000đ/ngày, như vậy thu nhập bị giảm sút là: 65 ngày x
100.000 đồng = 6.500.000 đồng.
Tổng số tiền thiệt hại về thu nhập
ông C phải bồi thường cho anh B là 27.200.000 đồng.
- Trường hợp người bị thiệt hại có thu nhập không ổn định
từ tiền lương, tiền công được xác định căn cứ vào mức tiền lương, tiền công
trung bình của 03 tháng liền kề trước thời điểm thiệt hại xảy ra.
Ví dụ: Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
số 12/2022/DS-PT Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng.
Nội dung vụ án: Buổi chiều ngày 01/5/2020 vợ chồng ông
H, bà A đang dọn nương tại khu vực Cốc Cheng gần nhà, bất ngờ anh N vác theo
cây gậy dài 1,5m – 2m màu trắng đến quát tháo rồi lao vào đánh ông H, bà A, bị
bất ngờ ông H không kịp phản kháng gì chỉ biết chống đỡ, Bà A ở phía trên thấy
N và ông H đánh nhau bà chạy xuống can thì bị N quay sang đánh bà A trúng vào
lưng, sườn và nách, khi đó ông H mới thoát được, lúc đó ông H choáng váng, đau ở
vùng mặt, ông vuốt mặt xem thì có máu, xong ông H mới đuổi đánh nhưng không đuổi
kịp. N đi được khoảng 2m rồi quay lại đánh ông H, bà A và dùng cây đập xuống đầu
ông H, ông H dùng tay đỡ, sự việc diễn ra khoảng 4- 5 lần. Hậu quả ông H và bà
A bị đau phải điều trị tại Trung tâm y tế huyện TA từ ngày 01/5/2020 đến ngày
06/5/2020 ra viện.
Xét thấy nghề nghiệp của ông H, bà A là trồng trọt,
thu nhập không ổn định chủ yếu phụ thuộc vào vụ mùa không xác định được mức thu
nhập cụ thể, nên cần áp dụng mức thu nhập bình quân của người lao động tại địa
phương để tính.
Vì vậy, tổng số tiền thiệt hại về thu nhập anh N phải
bồi thường cho ông H, bà A là 6 ngày x
220.000 đ/ ngày x 2 người = 2.640.000 đồng.
- Trường hợp không xác định được 03 tháng lương liền kề
trước thời điểm thiệt hại xảy ra thì căn cứ vào thu nhập trung bình của lao động
cùng loại tại địa phương trong khoảng thời gian thu nhập thực tế bị mất hoặc bị
giảm sút. Nếu không xác định được thu nhập trung bình của lao động cùng loại tại
địa phương thì thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút được bồi thường là 01
ngày lương tối thiểu vùng tại nơi người bị thiệt hại cư trú cho 01 ngày bị thiệt
hại. Trong đó, ngày lương tối thiểu vùng được xác định là 01 tháng lương tối
thiểu vùng do Nhà nước quy định chia cho 26 ngày.
Ví dụ: Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe
bị xâm phạm số 136/2023/DS-ST Tòa án nhân dân huyện Thới Lai, thành phố Cần
Thơ.
Nội dung vụ án: Vào khoảng 15 giờ
ngày 06/7/2019, ông Tô Văn C điều khiển xe mô tô biển số 65H1 – X chở theo bà
Trần Thị H lưu thông trên tỉnh lộ 922, đoạn thuộc ấp Thới Phong A, thị trấn T,
huyện T theo hướng từ huyện Cờ Đỏ về thị trấn T, huyện T, bất ngờ bị ông Liêu H
điều khiển xe mô tô biển số X.QB đi một mình lưu thông hướng ngược chiều đổ lại,
va chạm vào xe ông C gây tai nạn. Tai nạn xảy ra là ông C, bà H bị thương rất nặng,
phải chuyển đến Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ và nhiều bệnh viện khác điều
trị thương tích. Hậu quả gây thương tích cho ông Tô Văn C tỉ lệ 46%, gây thương
tích cho bà Trần Thị H tỉ lệ 11%.
Trong vụ án này thiệt hại về thu nhập của ông C và bà
H được xác định cụ thể như sau:
Đối với thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút của ông
Tô Văn C: Do không có chứng cứ chứng minh cho thu nhập ổn định ông C. Vì vậy, Hội
đồng xét xử áp dụng lương tối thiểu vùng III năm 2019 là 3.250.000 đồng/tháng,
tức 125.000 đồng/ ngày. + Thu nhập
thực tế bị mất của ông C trong thời gian điều trị nội trú 133 ngày là: 133 ngày
x 125.000 đồng = 16.625.000 đồng.
+ Thu nhập bị giảm sút của ông C trong thời gian
thương tích chưa phục hồi là: 3.250.000 đồng/tháng x 13 tháng = 42.250.000 đồng.
- Đối với thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút của bà
Trần Thị H: Do không có chứng cứ chứng minh cho thu nhập ổn định của nguyên
đơn. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng lương tối thiểu vùng II năm 2019 là
3.710.000 đồng/tháng, tức 142.692 đồng. Cụ thể:
+ Thu nhập thực tế bị mất của bà H trong thời gian điều
trị nội trú 20 ngày là: 20 ngày x 142.692 đồng/ngày = 2.853.840 đồng.
+ Thu nhập bị giảm sút của bà H trong thời gian thương
tích chưa phục hồi là: 3.710.000 đồng/tháng x 10 tháng = 37.100.000 đồng.
Như vậy, tổng số
tiền thiệt hại về thu nhập buộc ông H phải bồi thường cho ông C là 53.875.000đ và cho bà H là 39.953.840đ.
* Chi phí hợp lý và phần thu
nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại: Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 590 của Bộ luật Dân sự được xác định
như sau:
- Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại
trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo
giá trung bình ở địa phương nơi người bị thiệt hại điều trị (nếu có);
- Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị
thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều
này;
- Trường hợp người bị thiệt hại mất khả năng lao động
và phải có người thường xuyên chăm sóc thì chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người
bị thiệt hại được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại nơi người bị thiệt
hại cư trú cho 01 ngày chăm sóc người bị thiệt hại.
Ví dụ: Vụ án P.D.H.
Trong vụ án P.D.H lái xe gây tai nạn đã nêu ở trên, chi
phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc bị hại L.N.S được
xác định như sau:
Thu nhập bị mất của người chăm sóc L.N.S
những ngày nằm viện từ 31/12/2020 đến 08/01/2021 là 09 ngày. Theo tài liệu thu
thập được thì có 04 người trực tiếp chăm sóc L.N.S trong những ngày nằm viện gồm:
bà Hoàng Thị Hà (mẹ vợ anh Sơn), anh Lê Ngọc Dũng (anh trai anh Sơn), Trần Thanh
(em vợ anh Sơn), Trần Thị Hoàng Anh (vợ anh Sơn). Ngoài ra còn có anh Lê Mạnh
Hùng (anh trai anh Sơn), Lê Văn Thao (anh trai anh Sơn) cũng chi phí phục vụ
trong 09 ngày anh Sơn nằm viện. Về chi phí trong thời gian chăm sóc anh Sơn, chấp
nhận các chi phí sau:
Chi phí: Thuê xe tính 02 lượt (01 lượt
đi, 01 lượt về) 2.400.000đ; mua thiết bị y tế, toa thuốc của bác sĩ và mua thuốc
ngoài 30.246.000đ; thuê trọ 250.000x9 ngày= 2.250.000đ; Dao cạo râu 500.000đ; bỉm
hôm mổ 31/12, tấm lót 530.000đ; dầu tắm gội khô 370.000đ; đá, túi chườm đá, thuốc
mua ngoài viện 3.140.000đ. Tổng cộng 39.436.000đ
Luật quy định chỉ xem xét bồi thường
thu nhập bị mất cho 01 người chăm sóc bị hại trong những ngày nằm viện. Tài liệu
thu thập được là 04 người trực tiếp chăm sóc anh Sơn. Do vậy, sẽ tính trung
bình thu nhập bị mất của 04 người.
Cụ thể như sau: Bà Hoàng Thị Hà (mẹ vợ
anh Sơn) không có thu nhập, con cái cấp dưỡng do vậy không bị mất thu nhập; chị
Trần Thị Hoàng Anh là giáo viên trong biên chế do vậy không mất thu nhập. Chỉ
xác định thu nhập bị mất của Lê Ngọc Dũng (anh trai anh Sơn) và Trần Thanh (em
vợ anh Sơn) đều là lao động tự do. Xác minh thu nhập bình quân tại địa phương
anh Lê Ngọc Dũng cư trú (Hàng Bông, Hoàn Kiếm, HN) là 7.000.000đ/người/tháng và
thu nhập bình quân tại địa phương anh Trần Thanh (em vợ anh Sơn) cư trú (phường
Hùng Vương, TX. Phú Thọ) là 4.500.000đ/người/tháng. Bình quân thu nhập bị mất của
02 người này trong thời gian chăm sóc anh Sơn là 7.000.000 +4.500.000 =
11.500.000 : 2 = 5.750.000đ. Ta có 5.750.000đ : 30 ngày x 09 ngày = 1.725.000đ.
Như vậy, thu nhập bị mất của người chăm sóc anh Sơn trong 09 ngày nằm viện cần
được bồi thường là 1.725.000đ.
Như vậy, tổng chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc bị hại
L.N.S buộc
P.D.H phải bồi thường là 41.161.000đ.
* Bồi thường tổn thất về
tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 590 BLDS quy định như
sau: “Người chịu trách nhiệm bồi thường
trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại
theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về
tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do
các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức
khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
Theo đó, người gây thiệt hại về sức khỏe cho người
khác, ngoài việc phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe thì còn phải bồi thường
một khoản tiền khác để bù đắp về tinh thần mà người đó gánh chịu.Công thức tính
mức bồi thường tổn thất về tinh thần khi sức khỏe bị xâm phạm như sau = Mức
lương cơ sở x không quá 50 lần.
Như vậy, tùy từng vụ án, vụ việc mức bồi thường tổn thất
về tinh thần sẽ được xác định hợp lý, tuy nhiên không quá 50 lần mức lương cơ sở.
2.3. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
Theo Điều 591 BLDS thì thiệt hại
do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
Thứ nhất, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật
này. Theo đó, khi người gây ra thiệt hại về tính mạng cho người khác, trước
tiên phải tiến hành bồi thường thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm, thiệt hại do
sức khỏe bị xâm phạm được tính từ thời điểm người bị thiệt hại bị xâm phạm sức
khỏe cho đến thời điểm người đó chết, bao gồm:
- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa,
bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt
hại;
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị
giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại
không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của
lao động cùng loại;
- Chi phí hợp lý và phần thu nhập
thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị;
nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên
chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt
hại.
- Thiệt hại khác do luật quy định.
Thứ hai, chi phí hợp lý cho việc mai táng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị
quyết số 02/2022/NQ-HĐTP thì chi phí hợp lý cho việc mai táng đối với các khoản
tiền: mua quan tài; chi phí hỏa táng, chôn cất; các vật dụng cần thiết cho việc
khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục
vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo phong tục, tập quán địa
phương. Không bao gồm các khoản chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ.
Thứ ba, tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP quy định tiền
cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc nuôi
dưỡng trước khi chết được xác định như sau:
- Mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập,
khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người
được cấp dưỡng, nhưng không thấp hơn 01 tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người
được cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng.
- Thời điểm cấp dưỡng được tính từ
thời điểm người bị thiệt hại bị xâm phạm về sức khỏe.
- Đối tượng được bồi thường tiền
cấp dưỡng là những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định
của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Thứ tư, bồi thường thiệt hại về tinh thần do tính mạng bị xâm
phạm.
Theo quy định tại khoản 2 Điều
591 BLDS quy định: “Người chịu trách nhiệm
bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường
thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn
thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại
đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được
hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa
thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị
xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.
Do đó, mức bồi thường tổn thất tinh thần do tính mạng
bị xâm phạm bằng: Mức lương cơ sở x không quá 100 lần
Như vậy, khi một người gây thiệt hại về tính mạng cho
người khác, ngoài việc phải bồi thường thiệt hại về tính thì còn phải một khoản
tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng
thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người
mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng
người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về
tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một
người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước
quy định.
Ví dụ: Vụ án P.D.H.
Đối với vụ án P.D.H đã nêu ở trên: P.D.H
một mình điều khiển xe ô tô BKS: 19C-109.63 trong người có nồng độ cồn (0,573
mg/l khí thở) đã liên tiếp đâm vào phía sau 03 xe mô tô đang đi phía trước cùng
chiều và đâm vào 01 xe ô tô đang đỗ trên vỉa hè cùng chiều. Gây hậu quả: 02 người
tử vong là quân nhân Đ.K.H, L.N.S, 02 người bị thương là Nguyễn Minh Tuấn,
Dương Văn Huỳnh bị thương, 02 xe ô tô hư hỏng nặng, 03 mô tô hư hỏng.
Thiệt hại về tính mạng trong vụ án này
được xác định như sau:
*
Đối với bị hại Đ.K.H:
Chi phí tại Bệnh viện đa khoa thị xã Phú Thọ
1.397.272đ, trong đó BHYT đã thanh toán 1.091.872đ, gia đình chi trả 305.400đ.
Chấp nhận bồi thường số tiền 305.400đ gia đình đã chi phí.
Xe đưa bệnh nhân về nhà 1.000.000đ
(BL579)
Mai táng phí: Gia đình bị hại Đ.K.H kê
các chi phí mai táng phí quân nhân Hòa là 131.818.000đ không có hóa đơn chứng từ.
Do vậy chỉ chấp nhận một phần tiền mai táng phí của gia đình bị hại Đ.K.H. Chấp
nhận các khoản chi phí hợp lý cho việc mai táng theo điểm b Khoản 1 Điều 591 Bộ
luật dân sự, ý 2.2 mục I Nghị quyết 03/2006 ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC quy định: Chi phí hợp lý cho
việc mai táng bao gồm: Các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho
việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi phí
khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo thông lệ chung.
Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc
mộ... Tổng cộng số tiền chấp nhận kê mai táng phí đối với Đ.K.H là
46.520.000đ.
Nuôi dưỡng 02 con nhỏ: Cháu lớn Đỗ Quốc
Hùng sinh 30/6/2008, cháu nhỏ Đỗ Hà Hồng Hạnh sinh 03/11/2011, cả hai cháu dưới
18 tuổi do vậy cần được nuôi dưỡng đến khi hai cháu đủ 18 tuổi. Đ.K.H và vợ có
trách nhiệm nuôi 02 con nhỏ, vận dụng mục 2 phần III Công văn 24/1999/KHXX ngày
17/3/1999 của TANDTC về việc giải đáp một số vấn đề về áp dụng pháp luật thì mỗi
cháu cần được bồi thường ½ mức lương tối thiểu do nhà nước quy đinh:
745.000đ/tháng đến khi mỗi cháu đủ 18 tuổi.
Cấp dưỡng cho bố đẻ là Đ.Đ.T, tính đến
năm 2020 ông Trọng được 66 tuổi, đã hết tuổi lao động, không có lương, bố mẹ
quân nhân Hòa sinh được 02 người con, do vậy trách nhiệm nuôi dưỡng ông Trọng
được chia đều cho 02 người con. Vậy trách nhiệm nuôi dưỡng ông Trọng: 1.490.000
: 2 = 745.000đ/tháng cho đến khi ông Trọng qua đời. Do đó bị can Hưng và công
ty Apodio phải có trách nhiệm cấp dưỡng phần của bị hại Hòa đối với ông Trọng với
số tiền 745.000đ/tháng cho đến khi ông Trọng qua đời.
* Đối
với bị hại L.N.S:
Chi phí tại Bệnh viện đa khoa TX. Phú
Thọ: 2.631.426đ (BL435,436,616)
Chi phí tại Bệnh viện Việt Đức:
61.469.395đ (BL421-427)
Thuê xe đưa bệnh nhân đi cấp cứu: Thuê
xe cứu thương từ TX.Phú Thọ đi BV Việt Đức 2.500.000đ, từ BV Việt Đức về Phú Thọ
3.300.000đ.
Thu nhập bị mất của L.N.S trong 09 ngày nằm viện:
Anh Sơn là lao động tự do, do vậy tính mức thu nhập bình quân ở địa phương (phường
Phong Châu, TX.Phú Thọ) để làm cơ sở. Thu nhập bình quân đầu người ở Phường
Phong Châu là 52.000.000đ/người/năm (BL490), vậy anh Sơn nằm viện 09 ngày, ta
có: 52.000.000đ : 365 ngày x 09 ngày nằm viện = 1.282.191đ.
Thu nhập bị mất của người chăm sóc L.N.S
những ngày nằm viện từ 31/12/2020 đến 08/01/2021 là 09 ngày, bao gồm: Chi phí: 39.436.000đ
và thu nhập bị mất của người chăm sóc anh Sơn trong 09 ngày nằm viện cần được bồi
thường là 1.725.000đ.
Mai táng phí: Gia đình bị hại L.N.S kê
các chi phí mai táng phí anh Sơn là 120.588.000đ không có hóa đơn chứng từ. Kiểm
sát viên xác định việc kê khai này của gia đình là không phù hợp. Do vậy chỉ chấp
nhận một phần tiền mai táng phí của gia đình bị hại L.N.S theo quy định tại điểm
b Khoản 1 Điều 591 Bộ luật dân sự, ý 2.2 mục I Nghị quyết 03/2006 ngày
08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Tổng cộng số tiền chấp nhận kê mai
táng phí đối với L.N.S là 37.960.000đ.
Nuôi dưỡng 02 con nhỏ: Cháu lớn Lê Trung Đức
sinh 29/9/2007, cháu nhỏ Lê Đức Trung sinh 05/12/2010, cả hai cháu dưới 18 tuổi
do vậy cần được nuôi dưỡng đến khi hai cháu đủ 18 tuổi. L.N.S và vợ có trách
nhiệm nuôi 02 con nhỏ, vận dụng mục 2 phần III Công văn 24/1999/KHXX ngày
17/3/1999 của TANDTC về việc giải đáp một số vấn đề về áp dụng pháp luật thì mỗi
cháu cần được bồi thường ½ mức lương tối thiểu do nhà nước quy đinh:
745.000đ/tháng/cháu đến khi mỗi cháu đủ 18 tuổi.
*
Vấn đề bồi thường tổn thất tinh thần: Xem xét hoàn cảnh gia đình của các bị
hại, mỗi bị hại đều có 02 người con, có ít nhất 01 người con trai nối dõi, căn
cứ vào hành vi của bị cáo với lỗi vô ý, Căn cứ khoản 2 Điều 591 BLDS đề nghị mức
bồi thường tổn thất tinh thần cho gia đình bị hại Đ.K.H và L.N.S mỗi gia đình
75 tháng lương cơ sở, tức là 75 x 1.490.000đ = 111.750.000đ bồi thường cho mỗi
gia đình.
Như vậy tính tổng số tiền gia đình bị
hại L.N.S được bồi thường là 265.154.012đ làm tròn là 265.154.000đ và mỗi tháng
02 con chưa thành niên của anh Sơn được bồi thường 745.000đ/tháng/cháu cho đến
khi mỗi cháu đủ 18 tuổi.
Như vậy gia đình bị hại Đ.K.H được bồi
thường là 159.575.400đ làm tròn là 159.575.000đ và mỗi tháng 02 con chưa thành
niên của quân nhân Hòa được bồi thường 745.000đ/tháng/cháu cho đến khi mỗi cháu
đủ 18 tuổi, đồng thời cấp dưỡng cho bố đẻ quân nhân Hòa là Đ.Đ.T 745.000đ/tháng
đến khi ông Trọng qua đời.
2.4. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín
bị xâm phạm
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
quy định tại Điều 592 của Bộ luật Dân sự được xác định như sau:
Thứ nhất, Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại bao gồm:
- Chi phí cần thiết cho việc thu hồi, xóa bỏ vật phẩm,
ấn phẩm, dữ liệu có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị
thiệt hại.
Chi phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng
minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá
trung bình ở địa phương nơi người bị thiệt hại chi trả để yêu cầu cơ quan chức
năng xác minh sự việc, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng
Chi phí tổ chức
xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt
hại và các chi phí thực tế, cần thiết khác để hạn chế, khắc phục thiệt hại (nếu
có)
Thứ hai, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị quyết
02/2022/NQ- HĐTP thì thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút do danh dự, nhân
phẩm, ủy tín bị xâm phậm được xác định như sau:
Trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người
bị xâm phạm có thu nhập thực tế nhưng do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
mà người bị xâm phạm phải thực hiện những công việc để hạn chế, khắc phục thiệt
hại nên khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi
thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.
Việc xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút
của người bị xâm phạm được thực hiện tương tự như việc xác định thu nhập thực tế
bị mất hoặc bị giảm sút khi sức khỏe bị xâm phạm.
Thứ ba, bồi thường thiệt hại về tinh thần do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 592 BLDS quy định: “Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường
hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt
hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất
về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần
do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người
có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do
Nhà nước quy định.”
Mức bồi thường tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm được xác định bằng mức lương sơ sở x không quá 10 lần.
Theo đó, người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của
người khác ngoài việc bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín thì
còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người
đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận,
nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
0 Nhận xét