
Chuyên đề 4: "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và triển khai thi hành Luật"
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT
Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam năm 1999 được Quốc hội
khóa X thông qua tại Kỳ họp thứ 6 ngày 21/12/1999, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/4/2000; qua 02 lần tổng kết (năm 2007 và 2013), Bộ Quốc phòng (BQP) đã báo
cáo Chính phủ, trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung 02 lần vào năm 2008 và năm 2014.
Quá trình thực hiện, Luật Sĩ quan đã tạo cơ sở pháp lý để xây dựng đội ngũ sĩ
quan QĐND Việt Nam vững mạnh, làm nòng cốt xây dựng Quân đội cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ đội quân
chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất. Tuy nhiên, trước tình hình thực
tiễn, Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam năm 1999, được sửa đổi, bổ sung một số điều
năm 2008 và năm 2014 (sau đây viết gọn là Luật trước đây) đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập;
đồng thời, những năm qua Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách
pháp luật về xây dựng QĐND Việt Nam, trong đó có xây dựng đội ngũ sĩ quan. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật Sĩ quan lần này là yêu cầu cấp thiết, nhằm hoàn
thiện hành lang pháp lý để xây dựng đội ngũ sĩ quan đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
1. Cơ sở chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Để xây dựng đội ngũ sĩ quan QĐND Việt Nam
vững mạnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, hiện đại, sẵn sàng
chiến đấu và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban
hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận có nội dung liên quan đến xây dựng đội
ngũ sĩ quan QĐND cần được tiếp tục thể chế hóa,
như: Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số
24-NQ/TW ngày 16/4/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược quốc phòng Việt Nam;
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là
cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Nghị
quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; Nghị quyết số
05-NQ/TW ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị về tổ chức QĐND Việt Nam giai đoạn
2021-2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 44-NQ/TW ngày 24/11/2023 của
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới; Kết luận số 86-KL/TW ngày 24/01/2014 của Bộ Chính trị
về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán
bộ khoa học trẻ; Kết luận số 35-KL/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về danh
mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung
ương đến cơ sở...
Trong đó, Nghị quyết số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị giao: “Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo phối hợp với các
cơ quan tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến công tác quốc
phòng, quân sự; sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật có liên quan đến cơ
cấu, chức vụ, trần quân hàm của sĩ quan cấp tướng”. Kết luận của Bộ Chính
trị tại Văn bản số 10809-CV/VPTW ngày 06/8/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng,
trong đó Bộ Chính trị đồng ý chủ trương trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV theo quy
trình một kỳ họp và theo trình tự, thủ tục rút gọn và một số cơ chế, chính sách
đặc biệt đối với sĩ quan QĐND Việt Nam.
2. Cơ sở pháp lý
Từ khi Luật Sĩ quan năm 1999 được sửa đổi, bổ sung một số
điều năm 2008 và năm 2014 có hiệu lực thi hành đến nay, nhiều văn bản quy phạm
pháp luật được ban hành, như: Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc
phòng năm 2015, Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Nhà ở năm 2023, Luật Đất đai và Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024..., nên cần phải sửa đổi, bổ sung Luật Sĩ quan để bảo đảm
thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, phù hợp với tính chất, nhiệm vụ
của Quân đội “là ngành lao động đặc biệt”.
3. Cơ sở thực tiễn
Thứ nhất, Luật Sĩ quan trước đây (Điều 11) chỉ quy định 11 chức vụ cơ bản của sĩ
quan là cấp trưởng, không quy định
chức vụ cơ bản là cấp phó, nên chưa cụ thể hóa các chức danh, chức vụ theo Kết luận
số 35-KL/TW của Bộ Chính trị; chưa quy định đầy đủ
các chức danh, chức vụ có thẩm quyền chỉ huy, quản lý trong Quân đội nên chưa
khẳng định được vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của chức vụ có thẩm quyền
và phân định quyền hạn cấp trên, cấp dưới trong chỉ huy, ra mệnh lệnh, chấp
hành điều lệnh, điều lệ, kỷ luật Quân đội. Mặt khác, cũng không quy định chức
vụ, chức danh tương đương đối với cấp phó nên việc xác định chức vụ, chức danh
tương đương đối với cấp phó và sĩ quan không giữ chức vụ chỉ huy, quản lý gặp khó
khăn; chưa đồng bộ với cơ cấu tổ chức của Bộ Quốc phòng tại
Nghị định số 01/2022/NĐ-CP ngày 30/11/2022 của
Chính phủ.
Thứ hai, Điều 13 Luật Sĩ quan trước đây quy định hạn tuổi phục
vụ tại ngũ cao nhất của sĩ quan (cấp úy 46; Thiếu tá 48; Trung tá 51; Thượng tá
54; Đại tá nam 57, nữ 55 và cấp tướng nam 60, nữ 55) chưa tận dụng được nguồn nhân lực có bản lĩnh, năng lực, kinh nghiệm,
sức khỏe; chưa bảo đảm chế độ, chính sách cho một bộ phận sĩ quan khi nghỉ
hưu theo quy định của Luật Bảo hiểm xã
hội.
Thứ ba, khoản 1 Điều 15 Luật Sĩ quan trước
đây quy định cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của
sĩ quan, trong đó có sĩ quan cấp tướng; tuy nhiên, một
số đơn vị đã có sự điều chỉnh, phát triển về quy mô tổ chức, biên chế, bổ sung
chức năng, nhiệm vụ và được điều chỉnh chức danh, chức vụ nhưng
chưa được quy định cụ thể trong Luật; do đó, cần phải rà soát, bổ sung, điều
chỉnh, bảo đảm cân đối giữa các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, thể hiện đầy
đủ chức năng, nhiệm vụ của Quân đội là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và
đội quân lao động sản xuất.
Khoản 4 Điều 15 quy định cấp bậc quân hàm cao nhất
đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng của đơn vị thành lập mới do
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định; tuy nhiên, thực hiện các Nghị
quyết, Kết luận của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, điều
chỉnh tổ chức Quân đội, một số đơn vị không thay đổi về tên gọi nhưng có sự
điều chỉnh, phát triển về quy mô tổ chức, biên chế và bổ sung chức năng, nhiệm
vụ đã gặp vướng mắc trong đề nghị cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ,
chức danh sĩ quan là cấp tướng, do chưa có sự thống nhất cách hiểu để các đơn
vị này được xem là “đơn vị thành lập mới”, nên không thuộc thẩm quyền
xem xét, quyết định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định tại khoản 4 nêu
trên.
Thứ tư, một số nội dung Luật
Sĩ quan trước đây chưa giao cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết
như tiêu chí, tiêu chuẩn được xét thăng quân hàm vượt bậc và thăng quân hàm,
nâng lương sĩ quan trước thời hạn, phong quân hàm sĩ quan dự bị; một số chế độ,
chính sách về bảo hiểm xã hội, nhà ở, đất ở, chăm sóc sức khỏe, trách nhiệm của
các bộ, ngành, địa phương... quy định chưa cụ thể nên hiệu quả triển khai thực
hiện Luật chưa cao.
II. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SỬA ĐỔI NĂM 2024
1. Bố cục
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan
QĐND Việt Nam (sau đây viết gọn là Luật sửa đổi năm 2024) được Quốc hội Khóa XV
thông qua ngày 28/11/2024 tại kỳ họp thứ 8, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/12/2024, bố cục gồm 03 điều:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ
quan QĐND Việt Nam; trong đó:
+ Sửa về nội dung 14 điều, gồm: Sửa đổi, bổ sung quy
định chức vụ cơ bản và chức vụ, chức danh tương đương của sĩ quan (Điều 11);
tuổi phục vụ của sĩ quan tại ngũ (Điều 13); cấp bậc quân hàm cao nhất đối với
chức vụ của sĩ quan là cấp tướng, cấp tá, cấp úy (Điều 15); sửa đổi, bổ sung
một số nội dung liên quan đến tuổi của sĩ quan tại ngũ xét thăng quân hàm từ
cấp bậc Đại tá lên Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân, thẩm quyền quy định tiêu chí, tiêu chuẩn
xét thăng quân hàm sĩ quan vượt bậc (Điều 17); thẩm quyền, tiêu chí, tiêu chuẩn
thăng quân hàm và nâng lương trước thời hạn (Điều 18); quyền lợi của sĩ quan
biệt phái (Điều 29); sĩ quan được thanh toán thêm một khoản tiền bằng tiền
lương cho những ngày không nghỉ (Điều 32); chăm sóc sức khỏe đối với sĩ quan và thân
nhân sĩ quan tại ngũ (Điều 33); điều kiện nghỉ hưu đối với đối tượng hết tuổi
phục vụ tại ngũ cao nhất (Điều 36); chế độ an điều dưỡng, chăm sóc khi mắc bệnh
hiểm nghèo, chế độ thông tin, hỗ trợ tang lễ khi từ trần đối với sĩ quan thôi
phục vụ tại ngũ (Điều 37); tuổi phục vụ của sĩ quan dự bị (Điều 38); phong quân
hàm sĩ quan dự bị (Điều 41); trách nhiệm của Chính phủ ban hành cơ chế, chính
sách thu hút, trọng dụng nhân tài và trách nhiệm của Bộ Quốc phòng, chính quyền
địa phương trong bố trí quỹ đất phát triển nhà ở xã hội cho Quân đội (Điều 46,
Điều 47)
+ Sửa về kỹ thuật 05 điều, gồm: Điều 12, 25, 31, 40 và Điều 43.
- Điều 2. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân số 37/2018/QH14 đã
được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 21/2023/QH15, Luật số
30/2023/QH15 và Luật số 38/2024/QH15 (không thuộc phạm vi nêu tại chuyên đề
này).
- Điều 3. Hiệu lực thi hành
2. Một số nội dung cơ bản
của Điều 1 Luật sửa đổi năm 2024
2.1. Khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi
năm 2024 (sửa đổi, bổ sung Điều 11
Luật Sĩ quan) về chức vụ cơ bản và chức vụ, chức danh tương đương của sĩ quan
Luật điều chỉnh tăng từ 11
lên 17 chức vụ cơ bản của sĩ quan; bổ sung cấp phó: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng,
Phó Tổng Tham mưu trưởng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và các chức vụ là
cấp phó của cấp trưởng đến Phó Đại đội trưởng, Chính trị viên phó Đại đội.
Việc điều chỉnh như trên để phù hợp Kết luận số 35-KL/TW và ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị (Công văn số
7512-CV/VPTW, ngày 07/8/2023 của Văn phòng Trung ương Đảng) về danh mục chức
danh, chức vụ lãnh đạo, chỉ huy trong Công an nhân dân và Quân đội nhân dân[1];
Quân ủy Trung ương xây dựng Đề án về Danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo, chỉ
huy, quản lý trong Quân đội nhân dân Việt Nam (Đề án số 573-ĐA/QUTW ngày
16/10/2023), trong đó quy định 17 nhóm chức vụ cơ bản, chia thành 27 bậc. Luật
Sĩ quan hiện hành quy định có 11 chức vụ cơ bản trong khi cơ cấu tổ chức, biên
chế trong Quân đội có nhiều thành phần, lực lượng (có 6.277 chức vụ, 12.310
chức danh) dẫn đến khi xây dựng các văn bản triển khai thực hiện không cụ thể
hóa các chức vụ chức danh cho phù hợp với thực tiễn Quân đội. Mặt khác, do Luật
không quy định cấp phó nên việc quy định phụ cấp chức vụ gặp nhiều khó khăn. Vì
vậy, việc bổ sung chức vụ cấp phó, điều chỉnh tăng từ 11 lên 17 chức vụ cơ bản
của sĩ quan để làm cơ sở quy định các chức vụ, chức danh tương đương, phân định
rõ cấp trên, cấp dưới và thực hiện chính sách cho sĩ quan là phù hợp, đáp ứng
yêu cầu xây dựng Quân đội trong giai đoạn mới.
2.2. Khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi năm 2024 (sửa đổi, bổ
sung Điều 13 Luật Sĩ quan) về tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan
Luật tăng hạn tuổi
cao nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ theo cấp bậc quân hàm, cụ thể: Cấp úy từ
46 lên 50 tuổi, Thiếu tá từ 48 lên 52 tuổi, Trung tá từ 51 lên 54 tuổi, Thượng
tá từ 54 lên 56 tuổi, Đại tá nam từ 57 lên 58 tuổi, nữ từ 55 lên 58 tuổi; cấp
tướng nam 60 giữ nguyên, nữ từ 55 lên 60 tuổi.
- Việc tăng hạn tuổi cao
nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ để giữ gìn đội
ngũ sĩ quan được đào tạo cơ bản, có bản lĩnh, trình độ, kinh nghiệm, sức khỏe
và có thời gian phục vụ Quân đội dài hơn, giảm áp lực đào tạo cán bộ; phù hợp
tính chất, nhiệm vụ của sĩ quan phải thường xuyên trực tiếp chỉ huy, quản lý,
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu trong điều kiện khó khăn, gian khổ,
đóng quân làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo... Đồng thời,
bảo đảm cho sĩ quan cấp Trung tá trở xuống khi nghỉ hưu có đủ số năm tham gia bảo
hiểm xã hội để được hưởng lương hưu mức tối đa 75%, thể hiện chính sách ưu
việt, làm cơ sở để thu hút, gìn giữ nguồn nhân lực phục vụ Quân đội. Mặt khác,
việc tăng hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của sĩ quan còn bảo đảm kịp thời
phục vụ công tác nhân sự cán bộ cho Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.
- Việc sửa đổi quy định về tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan nêu trên
vẫn thấp hơn tuổi của người lao động nhưng đã tiệm cận cao nhất từ trước đến
nay so với quy định của Bộ luật Lao động. Nếu tăng tuổi bằng tuổi nghỉ hưu của
người lao động trong điều kiện lao động bình thường của Bộ luật Lao động hoặc
bằng tuổi nghỉ hưu của sĩ quan Công an nhân dân sẽ không bảo đảm cho sĩ quan,
nhất là sĩ quan ở các đơn vị đủ quân, sẵn sàng chiến đấu có đủ sức khỏe để hoàn
thành nhiệm vụ và gây ùn tắc, dôi dư trong đội ngũ sĩ quan. Mặt khác, việc quy
định về tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan như dự thảo Luật đã được Bộ Quốc phòng
tính toán kỹ lưỡng trên cơ sở các phương án tăng tuổi (tính toán ưu điểm, hạn
chế của nhiều phương án), vừa phù hợp với tính chất, nhiệm vụ, cơ cấu, tổ chức
của Quân đội, vừa thực hiện chính sách cán bộ.
- Luật quy định tuổi của nam sĩ quan, nữ sĩ quan bằng nhau
và không xác định lộ trình tăng tuổi. Hiện nay, số lượng nữ sĩ quan chiếm tỷ lệ
thấp (khoảng 3% so với tổng số sĩ quan); hằng năm nguồn bổ sung đầu vào sĩ quan
nữ từ tuyển sinh quân sự tại các học viện: Quân y, Hậu cần, Kỹ thuật quân sự,
Khoa học quân sự, một số ít được tuyển chọn phong quân hàm sĩ quan và bố trí,
sắp xếp ở những chuyên ngành Quân đội không đào tạo được hoặc đào tạo được
nhưng còn thiếu so với biên chế, phù hợp với sức khỏe, giới tính và được quan
tâm, tạo điều kiện để có thời gian chăm sóc gia đình. Theo quy định của Bộ luật
Lao động, lộ trình tuổi nghỉ hưu của lao động nữ năm 2024 là 56 tuổi 04 tháng,
sau đó mỗi năm tăng 04 tháng, đến năm 2029 là 58 tuổi, năm 2035 là 60 tuổi. Như
vậy, tại thời điểm hiện nay, hạn tuổi phục vụ tại ngũ của nữ sĩ quan cấp Thượng
tá trở xuống theo quy định tại dự thảo Luật vẫn thấp hơn tuổi nghỉ hưu của lao
động nữ nên không quy định lộ trình tăng tuổi của nữ sĩ quan là phù hợp.
Đối với nữ sĩ quan cấp tướng và Đại tá, hiện nay toàn quân
có 02 đồng chí sĩ quan cấp tướng và khoảng 2% nữ sĩ quan cấp Đại
tá so với tổng số sĩ quan cấp Đại tá, chủ yếu công tác ở cơ quan cấp chiến
lược, các học viện, nhà trường, trung tâm nghiên cứu khoa học, bệnh viện, đơn
vị văn hóa nghệ thuật… (không có nữ sĩ quan chỉ huy đơn vị chiến đấu) và có
trình độ cao (Phó Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Chuyên khoa II, nghệ sĩ nhân dân,
nghệ sĩ ưu tú), cơ bản thuộc đối tượng diện kéo dài 05 năm theo quy định của dự
thảo Luật. Độ tuổi cao nhất trong số nữ sĩ quan cấp Đại tá (đến thời điểm tháng
5/2024) có 13 đồng chí 53 tuổi nên đến năm 2029 là 58 tuổi, phù hợp với tuổi
nghỉ hưu theo quy định của Bộ luật Lao động.
Vì vậy, dự thảo Luật không phân biệt tuổi phục vụ tại ngũ
giữa nam với nữ và không quy định lộ trình tăng hạn tuổi phục vụ cao nhất đối
với nữ sĩ quan có quân hàm Đại tá là phù hợp với thực tiễn.
2.3. Khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi năm 2024
(sửa đổi, bổ sung Điều 15 Luật Sĩ quan) về cấp bậc quân hàm cao nhất đối với
chức vụ của sĩ quan
Luật quy định số lượng cấp tướng
ở từng cấp nhưng không quy định vị trí cụ thể từ cấp Trung tướng trở xuống; Chủ
nhiệm Ủy ban QP&AN có cấp bậc quân hàm cao nhất là Thượng tướng; giao Chính
phủ quy định cụ thể vị trí có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Phó Đô
đốc Hải quân, Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân.
Việc quy
định như trên để thực hiện kết luận của Bộ Chính trị: Luật sửa đổi, bổ sung không quy định những vấn đề cụ thể về tổ chức bộ
máy và quân hàm cấp Trung tướng trở xuống trong lực lượng vũ trang mà giao
Chính phủ và Bộ Quốc phòng quy định cụ thể theo thẩm quyền để linh hoạt, phù
hợp với tính chất, nhiệm vụ trong bố trí lực lượng (tại Văn bản số
10809-CV/VPTW ngày 06/8/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng) và phù hợp với quy
định tại Điều 52, Điều 96 Hiến pháp năm 2013, Điều 18 Luật Tổ chức Chính phủ và
Điều 7 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước[2].
Mặt khác, việc sửa đổi như dự thảo Luật cũng để linh hoạt, đáp ứng kịp thời yêu
cầu thực tiễn đặt ra đối với một số đơn vị không thay đổi về tên gọi nhưng có
sự điều chỉnh, phát triển về quy mô tổ chức, biên chế và bổ sung chức năng,
nhiệm vụ phù hợp với chủ trương của Đảng về tổ chức QĐND Việt Nam trong tình
hình mới và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng, bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống pháp luật[3],
tương thích với quy định của Luật
Công an nhân dân.
2.4. Khoản 4 Điều 1 Luật sửa đổi năm 2024 (sửa đổi, bổ sung
Điều 17 Luật Sĩ quan) về thăng quân hàm đối với sĩ quan tại ngũ
Quy định điều kiện về tuổi xét thăng quân hàm từ cấp bậc
Đại tá lên Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân phải còn ít nhất đủ 03 năm công
tác, trường
hợp không còn đủ 03 năm công tác khi có yêu cầu do Chủ tịch nước quyết định; đồng
thời, bổ sung nội dung vào khoản 4 để giao Chính
phủ quy định tiêu chí, tiêu chuẩn để xét thăng quân
hàm sĩ quan cấp tướng vượt bậc. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể tiêu
chí, tiêu chuẩn để xét thăng quân hàm sĩ quan cấp tá, cấp
úy vượt bậc.
Theo
quy định của khoản 3 Điều 17 Luật trước đây, tuổi của sĩ quan tại ngũ xét thăng
quân hàm từ cấp bậc Đại tá lên Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân không quá 57,
phù hợp với quy định về hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của cấp Đại tá là 57
và phù hợp khi bổ nhiệm lên chức vụ có trần quân hàm cấp tướng còn đủ 03 năm
theo quy định về bổ nhiệm cán bộ; tuy nhiên, Luật sửa đổi đã tăng hạn tuổi phục
vụ cao nhất của sĩ quan cấp Đại tá lên 58, nên sửa đổi, bổ sung quy định tại
khoản 3 Điều 17 như trên để bảo đảm chặt chẽ trong xem xét, đề nghị thăng quân
hàm và thống nhất với quy định tại khoản 4 Điều 22 Luật Công an nhân dân: “Sĩ
quan được xét thăng cấp bậc hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng phải còn ít nhất đủ
03 năm công tác; trường hợp không còn đủ 03 năm công tác khi có yêu cầu do Chủ
tịch nước quyết định.”.
Khoản 4 Điều 17 Luật trước đây quy
định: “Sĩ quan tại ngũ lập thành tích đặc
biệt xuất sắc thì được xét thăng quân hàm vượt bậc” nhưng không giao thẩm
quyền quy định chi tiết nội dung trên, dẫn đến khó khăn khi áp dụng thực hiện.
Việc sửa đổi, bổ sung như trên là quy định cụ thể nội dung Luật Sĩ quan đã quy
định để làm căn cứ đề nghị Chủ tịch nước xem xét, quyết định thăng quân hàm cấp
tướng vượt bậc và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định việc thăng quân hàm sĩ
quan cấp tá, cấp úy vượt bậc (đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 25[4] và tương thích với quy định tại khoản 4 Điều 23 Luật Công an nhân dân[5]); góp phần động viên kịp thời sĩ quan QĐND Việt Nam khi
lập thành tích đặc biệt xuất sắc.
2.5. Khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi năm 2024 (sửa đổi, bổ sung Điều 18 Luật Sĩ
quan) về xét thăng quân hàm và nâng lương trước thời hạn
Sửa
đổi, bổ sung Điều 18 quy định sĩ quan được xét nâng lương trước thời hạn và
giao Chính
phủ quy định cụ thể tiêu chí, tiêu chuẩn để xét thăng quân hàm sĩ quan cấp
Tướng trước thời hạn. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể tiêu chí, tiêu
chuẩn để xét thăng quân hàm sĩ quan cấp tá, cấp úy và nâng lương sĩ quan trước
thời hạn.
Luật
trước đây không quy định sĩ quan được nâng lương trước thời hạn, dẫn đến sĩ
quan đang giữ cấp bậc quân hàm cao nhất của chức vụ đảm nhiệm lập thành tích
xuất sắc lại chưa có cơ sở để xem xét nâng lương trước thời hạn nên gây bất
bình đẳng trong cùng đội ngũ sĩ quan[6], không tạo ra động lực phấn
đấu cho số sĩ quan này. Việc bổ sung quy định như dự thảo luật để bảo đảm phù
hợp, cân đối với pháp luật về cán bộ, công chức, Luật Quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân và viên chức quốc phòng[7] và tạo bình đẳng trong đội
ngũ sĩ quan, phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
Đồng
thời, thể chế hóa Quy định số 1757-QĐ/BCSĐCP ngày 05/01/2021 của Ban Cán sự
Đảng Chính phủ về việc thăng quân hàm cấp tướng trước thời hạn và bảo đảm tương
thích, tương đối với Luật Công an nhân dân. Mặt khác, Điều 18 Luật trước đây
quy định sĩ quan có thành tích “được xét
thăng quân hàm trước thời hạn” nhưng chưa giao thẩm quyền quy định cụ thể
tiêu chí, tiêu chuẩn nên khi áp dụng thực hiện chưa thống nhất. Việc bổ sung
quy định trên là bảo đảm cơ sở pháp lý để Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
quy định cụ thể theo thẩm quyền.
2.6. Khoản 7 Điều 1 Luật sửa đổi năm 2024 (sửa đổi, bổ sung Điều 32 Luật Sĩ
quan) về chế độ nghỉ của sĩ quan
Luật
bổ sung quy định sĩ quan do yêu cầu nhiệm vụ mà không được nghỉ hằng năm thì
được thanh toán tiền cho những ngày không nghỉ.
Việc quy định như trên là để thống nhất với quy định của pháp
luật về lao động về thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ đối với
người lao động[8]; tuy
nhiên, Luật trước đây chưa có quy định tương ứng. Mặt khác, khoản 2 Điều 40
Luật Công an nhân dân quy định: “Sĩ quan,
hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp và công nhân công an do yêu cầu
nhiệm vụ mà không được bố trí nghỉ hằng năm thì ngoài tiền lương còn được thanh
toán thêm một khoản tiền bằng tiền lương cho những ngày không nghỉ”. Vì
vậy, dự thảo Luật bổ sung nội dung trên là cần thiết để bảo đảm sĩ quan được
hưởng đầy đủ chế độ theo quy định của pháp luật về lao động, cân đối với quy
định của Luật Công an nhân dân.
2.7. Khoản 8 Điều 1 Luật sửa đổi năm 2024 (sửa đổi,
bổ sung Điều 33 Luật Sĩ quan) về chăm sóc sức khỏe đối với sĩ quan và thân nhân
sĩ quan tại ngũ
Luật sửa đổi, bổ sung một số nội dung, sửa về câu từ tại Điều 33, trong đó
bổ sung quy định con đẻ, con nuôi hợp pháp từ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục
đi học phổ thông của sĩ quan tại ngũ không có chế độ bảo hiểm y tế thì được cấp
thẻ bảo hiểm y tế
Việc sửa đổi, bổ sung như trên là để thống nhất với quy định của pháp luật
về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và cân đối với quy định của Luật Công an nhân
dân, cụ thể:
Điều 7c Luật Bảo hiểm y tế (được sửa đổi, bổ sung năm 2023) quy định Bộ Quốc phòng và Bộ Công an
có trách nhiệm: Chỉ đạo, quản lý,
hướng dẫn, tổ chức thực hiện việc xác định, quản lý, lập danh sách bảo hiểm y
tế đối với đối tượng; lập danh sách và cung cấp danh sách đề nghị cấp thẻ bảo
hiểm y tế đối với đối tượng quy định cho tổ chức bảo hiểm y tế; thanh tra, kiểm
tra việc thực hiện quy định của pháp luật về trách nhiệm tham gia bảo hiểm y tế
của các đối tượng do Bộ Quốc phòng và Bộ Công an quản lý. Phối hợp với Bộ Y tế,
các bộ, ngành liên quan hướng dẫn các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Bộ Quốc
phòng và Bộ Công an ký kết hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế với tổ
chức bảo hiểm y tế để khám bệnh, chữa bệnh cho các đối tượng tham gia bảo hiểm
y tế.
Khoản 3 Điều 12 Luật Bảo hiểm y tế quy định đối
tượng tham gia bảo hiểm y tế với nhóm do ngân sách nhà nước đóng, gồm: Sỹ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội đang tại ngũ; sỹ quan, hạ
sỹ quan nghiệp vụ và sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên môn, kỹ thuật đang công tác
trong lực lượng công an nhân dân, học viên công an nhân dân, hạ sỹ quan, chiến
sỹ phục vụ có thời hạn trong công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng
lương như đối với quân nhân; học viên cơ yếu được hưởng chế độ, chính sách theo
chế độ, chính sách đối với học viên ở các trường quân đội, công an và thân nhân
của các đối tượng nêu trên.
Khoản 13 Điều 3 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm
y tế quy định: Thân nhân của sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh
sỹ quân đội đang tại ngũ, sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ và sỹ quan, hạ sỹ quan
chuyên môn, kỹ thuật đang công tác trong lực lượng công an nhân dân, học viên
công an nhân dân, hạ sỹ quan, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với
quân nhân, học viên cơ yếu được hưởng chế độ, chính sách theo chế độ, chính
sách đối với học viên ở các trường quân đội, công an, gồm: Cha đẻ, mẹ đẻ; cha
đẻ, mẹ đẻ của vợ hoặc chồng; người nuôi dưỡng hợp pháp của bản thân, của vợ
hoặc của chồng; vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi hợp pháp từ trên 6 tuổi đến
dưới 18 tuổi; con đẻ, con nuôi hợp pháp từ đủ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục
đi học phổ thông.
Điều 39 Luật Công an nhân dân quy định:
Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, sinh viên, học sinh và công nhân công an
được bảo đảm chăm sóc sức khỏe; khi bị thương, ốm đau, tai nạn, rủi ro nghề
nghiệp ở xa cơ sở đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu hoặc mắc những bệnh mà
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Công an nhân dân không có khả năng điều trị thì
được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác, được thanh
toán viện phí và thực hiện các chế độ khác theo quy định của pháp luật. Cha, mẹ
đẻ, người nuôi dưỡng hợp pháp; cha, mẹ đẻ, người nuôi dưỡng hợp pháp của vợ
hoặc chồng; vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi hợp pháp dưới 18 tuổi của sĩ quan,
hạ sĩ quan, chiến sĩ, sinh viên và học sinh Công an nhân dân không có chế độ
bảo hiểm y tế thì được Công an nhân dân mua bảo hiểm y tế, được khám bệnh, chữa
bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật.
2.8. Khoản 9 Điều 1 Luật sửa đổi năm 2024 (sửa đổi, bổ sung Điều 36 Luật Sĩ
quan) về điều kiện nghỉ hưu của sĩ quan
Luật bổ sung khoản 3 vào Điều 36 để quy định sĩ quan hết tuổi phục vụ tại
ngũ cao nhất theo quy định tại Điều 13 Luật này nếu đã đóng bảo hiểm xã hội đủ
20 năm trở lên thì được nghỉ hưu là để phù hợp với chính sách thu hút, trọng
dụng nhân tài của Đảng, Nhà nước và “tính
chất, nhiệm vụ của Quân đội là ngành lao động đặc biệt”, cụ thể: Ngày
31/7/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 899/QĐ-TTg phê duyệt
Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2050; trong đó, điểm a khoản 2 Mục I đã xác định mục tiêu đến năm 2025: “Xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật
và ban hành khung chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài trong các lĩnh vực:
lãnh đạo, quản lý; kinh tế; khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; y tế;
văn hóa, nghệ thuật; khoa học xã hội; thể dục, thể thao; quân sự, quốc phòng và
an ninh quốc gia…”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật trước đây, các sĩ quan có trình độ
chuyên môn chuyên sâu được tuyển dụng từ bên ngoài vào làm công tác nghiên cứu
khoa học, thiết kế, chế tạo vũ khí, khí tài quân sự, chuyên môn nghiệp vụ
khác…, trong đó nhiều đồng chí trước đó đã có thời gian đóng bảo hiểm xã hội,
làm việc ở các cơ quan, đơn vị ngoài Quân đội hoặc là lao động hợp đồng trong
các đơn vị, doanh nghiệp Quân đội, có tuổi đời đã cao; nhưng khi hết tuổi theo
cấp bậc quân hàm, phải chuyển ra sẽ không đủ 25 năm công tác trong Quân đội để
nghỉ hưu. Ví dụ: Những đồng chí là nam sĩ quan trước khi vào Quân đội đã có
thời gian đóng bảo hiểm xã hội khoảng 15 năm (tuổi đời là 34 tuổi), nếu công
tác trong Quân đội thêm 20 năm nữa thì sẽ có 35 năm đóng bảo hiểm xã hội (tương
đương sĩ quan có quân hàm cấp trung tá, tuổi đời là 54 tuổi), nhưng khi chuyển
ra sẽ không đủ điều kiện về tuổi đời để nghỉ hưu theo quy định tại khoản 1 Điều
36 Luật Sĩ quan (điều kiện nghỉ hưu theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội);
đồng thời, chưa đủ 25 năm công tác trong Quân đội để nghỉ hưu.
Việc đề xuất bổ sung khoản 3 Điều 36, bảo đảm quy định sĩ quan đủ điều kiện
nghỉ hưu phải đáp ứng đủ điều kiện về hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất theo
cấp bậc quân hàm (theo Luật sửa đổi thì tuổi phục vụ cao nhất: Cấp úy: 50 tuổi;
Thiếu tá: 52 tuổi; Trung tá: 54 tuổi; Thượng tá: 56 tuổi; Đại tá: 58 tuổi) và
phải có từ đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên (thông thường các trường hợp
này đã có từ đủ 20 năm đến 35 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên). Không phải chỉ
đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội là đủ điều kiện nghỉ hưu.
Vì vậy, việc bổ sung quy định như dự thảo Luật nhằm bảo đảm quyền lợi của
sĩ quan và thống nhất với quy định của Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội
và phù hợp với thực tiễn hiện nay.
2.9. Khoản 11 Điều 1 Luật sửa đổi năm 2024 (sửa đổi, bổ sung Điều 38 Luật
Sĩ quan) về tuổi phục vụ của sĩ quan dự bị
- Luật sửa đổi tăng hạn tuổi phục vụ của sĩ quan dự bị từ 01 đến 02 tuổi;
cụ thể: Cấp úy từ 51 lên 53 tuổi, Thiếu tá từ 53 lên 55 tuổi, Trung tá từ 56
lên 57 tuổi, Thượng tá từ 57 lên 59 tuổi, Đại tá từ 60 lên 61 tuổi và cấp tướng
giữ nguyên 63 để phù hợp với việc tăng hạn tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan tại
Điều 13; vừa giảm số lượng và ngân sách đào tạo sĩ quan dự bị hằng năm, vừa tận
dụng được đội ngũ sĩ quan khi nghỉ hưu tiếp tục phục vụ trong ngạch dự bị và số
sĩ quan dự bị có kinh nghiệm trong thực tiễn chỉ huy, quản lý, huấn luyện, sẵn
sàng chiến đấu và xây dựng đơn vị. Mặt khác, việc nâng hạn tuổi cao nhất của sĩ
quan dự bị còn để phù hợp với các chức vụ đảm nhiệm có quân hàm tương đương;
sẵn sàng động viên, tổng động viên vào phục vụ Quân đội khi đất nước có tình
huống xảy ra, đáp ứng nhu cầu sắp xếp, bổ nhiệm vào các đơn vị được khôi phục,
mở rộng lực lượng theo Quyết tâm Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mặt khác,
nhằm bảo đảm thống nhất với quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật Lực lượng dự bị
động viên năm 2019: “Độ tuổi sĩ quan dự
bị sắp xếp vào đơn vị dự bị động viên thực hiện theo quy định của Luật Sĩ quan
Quân đội nhân dân Việt Nam”.
- Luật bổ sung quy định hạn tuổi
phục vụ cao nhất của Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã thực hiện theo
quy định của Bộ luật Lao động tại khoản 2, vì: Điểm a khoản 1 Điều 20 Luật Dân quân tự vệ số 48/2019/QH14 quy định: “Chỉ huy trưởng là Ủy viên Ủy ban nhân dân
cấp xã, sĩ quan dự bị…”; khoản 2 Điều 5 Nghị định số 33/2023/NĐ-CP ngày
10/6/2023 của Chính phủ quy định Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự là công
chức cấp xã, có tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ luật Lao động. Điều 169 Bộ
luật Lao động quy định tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao
động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với
lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035. Tuy
nhiên, do quy định Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự cấp xã là sĩ quan dự bị,
chức vụ tương đương với Tiểu đoàn trưởng, có cấp bậc quân hàm sĩ quan dự bị cao
nhất là Trung tá, độ tuổi phục vụ của sĩ quan dự bị theo Luật hiện hành là 56
(dự thảo Luật quy định 57), hết tuổi phải giải ngạch và không còn là sĩ quan dự
bị, nên vướng mắc trong bố trí, sử dụng. Vì vậy, việc quy định như dự
thảo Luật là bảo đảm thống nhất với quy định của pháp luật về lao động và pháp
luật về cán bộ, công chức.
2.10. Khoản 12 Điều 1 Luật sửa đổi năm 2024 (sửa đổi, bổ sung Điều 41 Luật
Sĩ quan) về bổ nhiệm chức vụ, phong, thăng quân hàm sĩ quan dự bị
Luật sửa đổi quy định học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan
dự bị, học viên tốt nghiệp đào tạo Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã
ngành quân sự cơ sở thì căn cứ trình độ đã được đào tạo, kết quả học tập, rèn
luyện được phong quân hàm sĩ quan dự bị và bổ sung khoản 6 Điều 41 giao Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết.
Việc sửa đổi, bổ sung như trên để phù
hợp với ý kiến Kết luận của Bộ Chính trị về việc sửa đổi, bổ sung một số nội
dung liên quan đến Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam, trong đó: Đồng ý lực lượng vũ
trang (Quân đội nhân dân, Công an nhân dân) có cơ chế đặc biệt để thu hút,
trọng dụng nhân tài; giao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an xem
xét, quy định cụ thể (Văn bản số 10809-CV/VPTW ngày 06/8/2024 của Văn phòng
Trung ương Đảng). Kết luận số 86-KL/TW ngày 24/01/2014 của Bộ Chính trị và Nghị
định số 140/2017/NĐ-CP ngày 05/12/2017 của Chính phủ về chính sách thu hút, tạo
nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ quy định về
phong, thăng cấp bậc, quân hàm sĩ quan Quân đội, sĩ quan Công an đối với người
được thu hút vào lực lượng vũ trang như sau: “Sinh viên tốt nghiệp xuất sắc được phong quân hàm từ Trung úy và tương
đương trở lên, hưởng hệ số lương khởi điểm là 4,60; cán bộ khoa học trẻ có
trình độ thạc sĩ được phong quân hàm từ Thượng úy và tương đương trở lên…; cán
bộ khoa học trẻ có trình độ tiến sĩ được phong quân hàm từ Đại úy và tương
đương trở lên…; cán bộ khoa học trẻ có trình độ tiến sĩ khoa học được phong
quân hàm từ Thiếu tá và tương đương trở lên…”.
Thực tiễn, khoản
1 Điều 41 Luật trước đây quy định: “Học
viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan dự bị được phong quân hàm Thiếu úy sĩ quan dự
bị”, nhưng thực tế hiện nay đào tạo sĩ quan dự bị gồm nhiều đối tượng: Cán
bộ, công chức, viên chức, sinh viên tốt nghiệp đại học, sau đại học, hạ sĩ
quan, binh sĩ chuẩn bị xuất ngũ... Mặt khác, Điều 16 Luật trước đây quy định:
Học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan tại ngũ được phong quân hàm Thiếu úy; tốt
nghiệp loại giỏi, loại khá ở những ngành đào tạo có tính chất đặc thù hoặc có
thành tích xuất sắc trong công tác được phong quân hàm Trung úy, trường hợp đặc
biệt được phong quân hàm cao hơn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Hạ
sĩ quan, binh sĩ trong thời chiến; quân nhân chuyên nghiệp và công chức quốc phòng
tại ngũ; cán bộ, công chức ngoài quân đội và những người tốt nghiệp đại học trở
lên vào phục vụ tại ngũ được bổ nhiệm giữ chức vụ của sĩ quan thì được phong
cấp bậc quân hàm sĩ quan tương xứng. Do đó, việc quy định tốt nghiệp đào tạo sĩ
quan dự bị chỉ phong quân hàm Thiếu úy sĩ quan dự bị là chưa phù hợp với các
quy định hiện hành và chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt
nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ, nhất là đối tượng học viên tốt nghiệp đào
tạo sĩ quan dự bị gọi vào phục vụ tại ngũ trong Quân đội theo chủ trương của
Đảng; đồng thời, chưa phù hợp, thống nhất với quy định pháp luật hiện hành.
2.11. Khoản 13 Điều 1 Luật sửa đổi năm 2024 (sửa
đổi, bổ sung khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Luật Sĩ quan) về trách nhiệm của Chính
phủ, Bộ Quốc phòng
Khoản
1 Điều 46, Luật bổ sung trách nhiệm của
Chính phủ trong việc ban hành cơ chế, chính sách đặc biệt về
điều kiện, môi trường làm việc, lương, thưởng, chăm sóc sức
khỏe và các chính sách khác để thu hút, trọng dụng nhân tài đối
với Quân đội.
Khoản 2 Điều 46, Luật
bổ sung trách nhiệm
của Bộ Quốc phòng việc chủ trì, phối hợp với các bộ,
ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập kế hoạch phát triển nhà ở cho Quân đội.
Việc bổ sung nội dung như trên để Chính phủ, Bộ Quốc
phòng có cơ sở pháp lý ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thực hiện
Kết luận của Bộ Chính trị tại Văn bản số 10809-CV/VPTW ngày 06/8/2024 của Văn
phòng Trung ương Đảng: ““Đồng ý lực lượng
vũ trang (Quân đội nhân dân, Công an nhân dân) có cơ chế đặc biệt để thu hút,
trọng dụng nhân tài” và Nghị quyết số 106/NQ-CP ngày 06/7/2024 của Chính
phủ về đề nghị xây dựng dự án Luật: “…nghiên
cứu các chính sách thu hút, giữ chân nhân tài phù hợp với đặc thù của QĐND Việt
Nam, đáp ứng nhu cầu phát triển quốc phòng, an ninh…”.
Đồng thời, Bộ Quốc phòng được chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương lập kế hoạch phát triển nhà ở xã hội cho Quân đội.
2.12. Khoản 14 Điều 1 Luật sửa đổi năm 2024 (bổ sung khoản 5 Điều 47 Luật
Sĩ quan) về trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp
Luật bổ sung quy định trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc
bố trí quỹ đất, thu hồi đất để bàn giao cho Bộ Quốc phòng làm cơ quan chủ quản,
triển khai thực hiện chính
sách phát triển nhà ở xã hội cho quân đội.
Việc bổ sung
quy định nêu trên để thực hiện Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 24/5/2024 của Ban Bí thư về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát triển nhà ở xã hội trong
tình hình mới, yêu cầu: “Nghiên cứu ban
hành cơ chế, chính sách đặc thù về nhà ở xã hội cho công nhân và lực lượng vũ
trang nhân dân”; đồng thời, ngày 06/8/2024 Bộ Chính trị xem xét đề nghị của
Quân ủy Trung ương về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND
Việt Nam, có ý kiến kết luận “Đồng ý lực
lượng vũ trang (Quân đội nhân dân, Công an nhân dân) có cơ chế đặc biệt để thu
hút, trọng dụng nhân tài” (Văn bản số 10809-CV/VPTW của Văn phòng Trung
ương Đảng); Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 01/9/2024 của Chính phủ quyết nghị:
Thống nhất định hướng phát triển nhà ở xã hội cho Quân đội; đặc biệt là lực
lượng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo phù hợp với đặc thù của Quân đội
và khả năng của địa phương.
Theo Điều 102 Luật Nhà ở năm 2023
quy định Bộ Quốc phòng cung cấp nhu cầu về nhà ở của đối tượng thuộc phạm vi
quản lý gửi UBDN cấp tỉnh để tổng hợp nên không chủ động được trong xây dựng kế
hoạch và triển khai thực hiện; việc điều chỉnh quy hoạch, chương trình, kế
hoạch theo quy định của Luật Nhà ở mất nhiều công đoạn trong khi nguồn lực có
hạn. Mặt khác, đất quốc phòng không còn nhu cầu sử dụng vào mục đích quốc phòng
chuyển giao cho địa phương (khoản 21 Điều 79 Luật Đất đai) để UBND cấp tỉnh đưa
vào kế hoạch phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang dẫn đến phụ thuộc vào kế
hoạch phát triển nhà ở của địa phương; trong khi nhu cầu của sĩ quan Quân đội
là rất lớn và trải dài trên khắp 63 tỉnh, thành phố nên việc triển khai thực
hiện chính sách về nhà ở cho sĩ quan gặp nhiều khó khăn. Trong khi Quân
đội có các doanh nghiệp xây dựng, có đủ nhân lực, nguồn lực để triển khai thực
hiện các dự án, việc giao cho Quân đội thực hiện góp phần làm giảm áp lực và
khó khăn cho các địa phương.
Luật Đất đai năm 2024, Luật Nhà ở
năm 2023 giao UBND cấp tỉnh lập kế hoạch phát triển nhà ở cho lực lượng vũ
trang theo đề nghị của Bộ Quốc phòng và có trách nhiệm phải bố trí quỹ đất phát
triển nhà ở xã hội; tuy nhiên, Luật chưa quy định việc bố trí quỹ đất và thu
hồi đất để giao cho Bộ Quốc phòng, dẫn đến khó bảo đảm tính khả thi. Theo quy
định của pháp luật, Bộ Quốc phòng có các cơ quan chuyên môn về đầu tư, xây
dựng, quản lý doanh nghiệp và các doanh nghiệp quốc phòng có chức năng, ngành
nghề xây dựng công trình, đủ năng lực để quản lý và triển khai thực hiện các dự
án nhà ở.
Vì vậy, Luật bổ sung quy định trách nhiệm của chính quyền
địa phương các cấp như trên là thể chế hóa chủ trương của Đảng và thống nhất
với quy định về trách nhiệm quản lý nhà ở của Bộ Quốc phòng tại khoản 3 Điều
190 Luật Nhà ở năm 2023; bảo đảm sự chủ động trong triển khai thực hiện chính
sách phát triển nhà ở xã hội cho Quân đội, làm giảm khó khăn, áp lực cho chính
quyền địa phương và đáp ứng nhu cầu cấp bách về nhà ở của đội ngũ sĩ quan, cho các đối tượng được thụ hưởng
trên thực tế.
III. TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT SĨ
QUAN SỬA ĐỔI
1. Xây dựng các văn bản quy định
chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật do Bộ
Quốc phòng là cơ quan chủ trì soạn thảo (dự kiến trình cơ quan có thẩm quyền ban hành trong tháng
01/2025)
- Nghị định của
Chính phủ quy định chức vụ, chức danh tương đương; chức vụ, chức danh có cấp
bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Phó Đô đốc Hải quân, Thiếu tướng, Chuẩn Đô
đốc Hải quân của sĩ quan QĐND Việt Nam.
- Nghị định của Chính phủ quy định về
tiêu chí, tiêu chuẩn để xét thăng quân hàm cấp tướng vượt bậc và trước thời
hạn.
- Nghị định của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
21/2009/NĐ-CP ngày 23/02/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sĩ
quan QĐNDVN về chế độ, chính sách đối với sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ; sĩ quan
hy sinh, từ trần; sĩ quan tại ngũ chuyển sang QNCN hoặc công chức quốc phòng.
- Thông tư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chức vụ, chức danh tương đương và chức vụ, chức danh có cấp bậc
quân hàm cao nhất là cấp tá, cấp úy của sĩ quan QĐND Việt Nam.
- Thông tư của Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng quy định phong quân hàm học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan tại ngũ; tiêu
chí, tiêu chuẩn để xét thăng quân hàm sĩ quan cấp tá, cấp úy vượt bậc, trước
thời hạn và nâng lương sĩ quan trước thời hạn.
- Thông tư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về hạn tuổi của sĩ quan giữ chức vụ chỉ
huy, quản lý; kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ của sĩ quan.
- Thông tư của Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng quy định tuyển chọn, tuyển dụng vào đội ngũ cán bộ trong
QĐND Việt Nam; phong, thăng quân hàm sĩ quan dự bị.
- Thông tư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về đối tượng, tiêu chuẩn đào tạo
cán bộ QĐND Việt Nam.
- Thông tư hướng dẫn thực hiện
một số điều của Nghị định số 21/2009/NĐ-CP và Nghị định số…./2024/NĐ-CP (thay thế Thông tư liên tịch số
36/2009/TTLT-BQP-BNV-BLĐTBXH-BTC).
2. Tổ chức triển khai thi hành
2.1. Các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao triển khai thực hiện
a) Cấp ủy, chỉ huy và cơ quan các cấp tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện Luật Sĩ quan
sửa đổi năm 2024. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền bằng nhiều hình thức; phát huy vai trò của các cơ quan báo
chí, truyền thông trong và ngoài Quân đội, tuyên truyền sâu rộng đến các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân và
đội ngũ sĩ quan nhằm nâng cao
nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận, thống nhất trong thực hiện Luật Sĩ
quan.
b) Các cơ quan,
đơn vị được phân công soạn thảo văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật chủ động phối hợp với
các cơ quan, đơn vị có liên quan hoàn thiện các nghị định, thông tư, trình Chính
phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành theo thẩm quyền được giao trong Luật, bảo
đảm chất lượng, tiến độ. Đồng thời, các
cơ quan, đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ tiếp tục rà soát, nghiên cứu, đề xuất
sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản phù hợp với nội dung quy định của Luật Sĩ quan
sửa đổi năm 2024.
c) Các nhà
trường Quân đội tổ chức nghiên cứu, cập nhật những nội dung mới của Luật Sĩ
quan, bổ sung vào chương trình giảng dạy, phổ biến pháp luật cho các đối tượng
đào tạo.
2.2. Trách nhiệm của cán bộ, sĩ quan trong
thực hiện Luật Sĩ quan
Cán bộ, sĩ quan toàn quân nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự học tập,
nghiên cứu, nắm chắc các quy định của Luật Sĩ quan và các văn bản quy
định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật, vận động đồng đội chấp hành đúng các quy
định của luật và thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; tuyên truyền
nhân dân, động
viên học sinh, sinh viên tự nguyện vào phục vụ Quân đội, phát triển thành sĩ
quan QĐND Việt Nam./.
[1] Khoản 3 Kết luận số
35-KL/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh
đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, quy định: “Quân ủy
Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương xây dựng Đề án danh mục chức danh, chức
vụ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân bảo
đảm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội, Công an; đồng bộ, thống nhất với
các chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương trong hệ thống chính trị; Ban Tổ
chức Trung ương phối hợp với các cơ quan liên quan thẩm định, trình Bộ Chính
trị xem xét, quyết định.”; tại Công văn số 7512-CV/VPTW
ngày 07/8/2023 của Văn phòng Trung ương Đảng về danh mục chức danh, chức vụ
lãnh đạo, chỉ huy trong Công an nhân dân và Quân đội nhân dân, Bộ Chính trị chỉ
đạo: “Giao Đảng ủy Công an Trung ương,
Quân ủy Trung ương phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương rà soát, hoàn thiện hệ
thống chức danh, chức vụ lãnh đạo, chỉ huy trong từng lực lượng và phê duyệt
theo thẩm quyền để triển khai thực hiện, bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất,
phù hợp với pháp luật, các qui định, kết luận của Bộ Chính trị về chức danh,
chức vụ trong hệ thống chính trị.”;
[2] Điều 52 Hiến pháp năm
2013 quy định:
“Nhà nước xây dựng và
hoàn thiện thể chế ... thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý
nhà nước; ...” và khoản 5 Điều 96 quy định về thẩm
quyền của Chính phủ:
“Thực hiện quản lý về
cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước”; Khoản 1 Điều 18 Luật Tổ chức Chính phủ quy định nhiệm vụ và quyền
hạn của Chính phủ là “Thống nhất quản lý
nhà nước về quốc phòng”; Điểm b khoản 2 Điều 7 Luật Bảo vệ
bí mật nhà nước quy định: Thông tin về “tổ chức và hoạt động của lực lượng vũ
trang nhân dân” thuộc phạm vi bí mật nhà nước.
[3] Hiện tại, Bộ Quốc
phòng đã xây dựng dự thảo Nghị định (thay thế Nghị định số 107/2015/NĐ-CP ngày
24/10/2015) của Chính phủ, trong đó quy định cụ thể tích hợp chức vụ, chức danh
tương đương với chức vụ quy định tại các điểm đ, điểm e, điểm g khoản 1 Điều 11
và chức vụ, chức danh có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Phó Đô đốc
Hải quân, Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân quy định tại điểm c khoản 1 Điều
15; đồng thời, xây dựng Thông tư (thay thế Thông tư số 160/2017/TT-BQP ngày
04/7/2017) của Bộ trưởng BQP về chức vụ, chức danh tương đương và chức vụ, chức
danh có cấp bậc quân hàm cao nhất là cấp tá, cấp úy được quy định từ điểm h đến
điểm r khoản 1 Điều 11.
[4] Điểm a khoản 1 Điều 25
quy định: “Chủ tịch nước … phong, thăng,
giáng, tước quân hàm cấp tướng, Chuẩn Đô đốc, Phó Đô đốc, Đô đốc Hải quân”;
điểm c khoản 1 Điều 25 quy định: “Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức vụ và phong,
thăng, giáng, tước các cấp bậc quân hàm còn lại và nâng lương sĩ quan”.
[5] Khoản 4 Điều 23 Luật
Công an nhân dân: “Chính phủ quy định cụ
thể tiêu chí, tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này để xét thăng cấp bậc hàm
cấp tướng trước thời hạn. Bộ trưởng Bộ Công an quy định cụ thể tiêu chí, tiêu
chuẩn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này để xét thăng cấp bậc hàm trước
thời hạn và thăng cấp bậc hàm vượt bậc từ Đại tá trở xuống”.
[6] Khoản 2 Điều 18 Luật trước
đây quy định
sĩ quan Quân đội giữ cấp bậc quân hàm thấp hơn cấp bậc quân hàm cao nhất của
chức vụ đảm nhiệm thì được thăng quân hàm trước thời hạn nhưng không
quy định được nâng lương trước thời hạn.
[7] Điều 37 Luật Quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng năm 2015, quy định quân nhân chuyên nghiệp
“lập thành tích đặc biệt xuất sắc trong
chiến đấu, phục vụ chiến đấu, học tập và trong thực hiện nhiệm vụ thì được nâng
lương trước thời hạn hoặc vượt bậc”.
[8]
Khoản
3 Điều 113 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “Trường hợp do thôi việc, bị mất việc làm mà chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa
nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì được người sử dụng lao động thanh toán tiền
lương cho những ngày chưa nghỉ”; khoản
3 Điều 67 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện
lao động và quan hệ lao động quy định: “3.
Tiền lương làm căn cứ trả cho người lao động những ngày chưa nghỉ hằng năm hoặc
chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm theo khoản 3 Điều 113 của Bộ luật Lao động
là tiền lương theo hợp đồng lao động của tháng trước liền kề tháng người lao
động thôi việc, bị mất việc làm”.
0 Nhận xét