NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ

           (Chuyên đề đã được rút gọn và thông qua Tổ tư vấn pháp luật Tòa án quân sự Quân khu 2) 

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam số 52/2024/QH15 (Luật sửa đổi năm 2024) được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 28/11/2024, có hiệu lực thi hành ngày 01/12/2024.

 Phần thứ nhất

SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT

1. Cơ sở chính trị

QĐND Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ và sự chỉ huy và quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Để xây dựng đội ngũ sĩ quan QĐND Việt Nam vững mạnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận có nội dung liên quan đến xây dựng đội ngũ sĩ quan QĐND cần được tiếp tục thể chế hóa, như: Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/4/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược quốc phòng Việt Nam; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị về tổ chức QĐND Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 44-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Kết luận số 86-KL/TW ngày 24/01/2014 của Bộ Chính trị về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ; Kết luận số 35-KL/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở...

Trong đó, Nghị quyết số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị giao: “Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo phối hợp với các cơ quan tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến công tác quốc phòng, quân sự; sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật có liên quan đến cơ cấu, chức vụ, trần quân hàm của sĩ quan cấp tướng”. Kết luận của Bộ Chính trị tại Văn bản số 10809-CV/VPTW ngày 06/8/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó Bộ Chính trị đồng ý chủ trương trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV theo quy trình một kỳ họp và theo trình tự, thủ tục rút gọn và một số cơ chế, chính sách đặc biệt đối với sĩ quan QĐND Việt Nam.

2. Cơ sở pháp lý

Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam được Quốc hội khóa X thông qua tại Kỳ họp thứ 6 ngày 21/12/1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2000; qua 02 lần tổng kết (năm 2007 và 2013), Bộ Quốc phòng (BQP) đã báo cáo Chính phủ, trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung 02 lần vào năm 2008 và năm 2014. Luật có 7 chương, 51 Điều, từ khi đi vào thực hiện đã tạo cơ sở pháp lý để xây dựng đội ngũ sĩ quan QĐND Việt Nam vững mạnh, làm nòng cốt xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách pháp luật mới như ban hành: Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng năm 2015, Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Nhà ở năm 2023, Luật Đất đai và Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024...,vì vậy cần phải sửa đổi, bổ sung Luật Sĩ quan để bảo đảm thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của Quân đội “là ngành lao động đặc biệt”.

3. Cơ sở thực tiễn

Thứ nhất, Luật Sĩ quan trước đây chỉ quy định 11 chức vụ cơ bản của sĩ quan là cấp trưởng, không quy định chức vụ cơ bản là cấp phó, nên chưa cụ thể hóa các chức danh, chức vụ theo Kết luận số 35-KL/TW của Bộ Chính trị; chưa quy định đầy đủ các chức danh, chức vụ có thẩm quyền chỉ huy, quản lý trong Quân đội nên chưa khẳng định được vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của chức vụ có thẩm quyền và phân định quyền hạn cấp trên, cấp dưới trong chỉ huy, ra mệnh lệnh, chấp hành điều lệnh, điều lệ, kỷ luật Quân đội. Mặt khác, cũng không quy định chức vụ, chức danh tương đương đối với cấp phó nên việc xác định chức vụ, chức danh tương đương đối với cấp phó và sĩ quan không giữ chức vụ chỉ huy, quản lý gặp khó khăn; chưa đồng bộ với cơ cấu tổ chức của BQP tại Nghị định số 01/2022/NĐ-CP ngày 30/11/2022 của Chính phủ.

Thứ hai, Điều 13 Luật Sĩ quan trước đây quy định hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của sĩ quan (cấp úy 46; Thiếu tá 48; Trung tá 51; Thượng tá 54; Đại tá nam 57, nữ 55 và cấp tướng nam 60, nữ 55) chưa tận dụng được nguồn nhân lực có bản lĩnh, năng lực, kinh nghiệm, sức khỏe; chưa bảo đảm chế độ, chính sách cho một bộ phận sĩ quan khi nghỉ hưu theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.

Thứ ba, khoản 1 Điều 15 Luật Sĩ quan trước đây quy định cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan, trong đó có sĩ quan cấp tướng; tuy nhiên, một số đơn vị đã có sự điều chỉnh, phát triển về quy mô tổ chức, biên chế, bổ sung chức năng, nhiệm vụ và được điều chỉnh chức danh, chức vụ nhưng chưa được quy định cụ thể trong Luật; do đó, cần phải rà soát, bổ sung, điều chỉnh, bảo đảm cân đối giữa các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, thể hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của Quân đội là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất.

Khoản 4 Điều 15 quy định cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng của đơn vị thành lập mới do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định; tuy nhiên, thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, điều chỉnh tổ chức Quân đội, một số đơn vị không thay đổi về tên gọi nhưng có sự điều chỉnh, phát triển về quy mô tổ chức, biên chế và bổ sung chức năng, nhiệm vụ đã gặp vướng mắc trong đề nghị cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh sĩ quan là cấp tướng, do chưa có sự thống nhất cách hiểu để các đơn vị này được xem là “đơn vị thành lập mới”, nên không thuộc thẩm quyền xem xét, quyết định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định tại khoản 4 nêu trên.

Thứ tư, một số nội dung Luật Sĩ quan trước đây chưa giao cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết như tiêu chí, tiêu chuẩn được xét thăng quân hàm vượt bậc và thăng quân hàm, nâng lương sĩ quan trước thời hạn, phong quân hàm sĩ quan dự bị; một số chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội, nhà ở, đất ở, chăm sóc sức khỏe, trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương... quy định chưa cụ thể nên hiệu quả triển khai thực hiện Luật chưa cao.

 Phần thứ hai

MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT SĨ QUAN QĐND VIỆT NAM

 I. Bố cục.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam (sau đây viết gọn là Luật sửa đổi năm 2024) được Quốc hội Khóa XV thông qua ngày 28/11/2024 tại kỳ họp thứ 8, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2024, bố cục gồm 03 điều:

- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam; trong đó: Sửa về nội dung 14 điều, gồm: Điều 11; Điều 13; Điều 15; Điều 17; Điều 18; Điều 29; Điều 32; Điều 33; Điều 36; Điều 37; Điều 41; Điều 46 và Điều 47. Sửa về kỹ thuật 05 điều, gồm: Điều 12, 25, 31, 40 và Điều 43.

- Điều 2. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân (không thuộc phạm vi nêu tại chuyên đề này).

- Điều 3. Hiệu lực thi hành.

II. Một số nội dung cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam.

2.1. Về chức vụ cơ bản và chức vụ, chức danh tương đương của sĩ quan.

Luật sửa đổi năm 2024 đã điều chỉnh tăng từ 11 lên 17 chức vụ cơ bản của sĩ quan; bổ sung cấp phó: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và các chức vụ là cấp phó của cấp trưởng đến Phó Đại đội trưởng, Chính trị viên phó Đại đội.

Quân ủy Trung ương xây dựng Đề án số 573 - ĐA/QUTW ngày 16/10/2023 về Danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý trong Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó quy định 17 nhóm chức vụ cơ bản, chia thành 27 bậc. Luật Sĩ quan trước đây chỉ quy định có 11 chức vụ cơ bản trong khi cơ cấu tổ chức, biên chế trong Quân đội có 6.277 chức vụ, 12.310 chức danh dẫn đến khi xây dựng các văn bản triển khai thực hiện không cụ thể hóa các chức vụ chức danh cho phù hợp với thực tiễn. Mặt khác, do không quy định cấp phó nên việc quy định phụ cấp chức vụ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc bổ sung chức vụ cấp phó, điều chỉnh tăng lên 17 chức vụ cơ bản của sĩ quan làm cơ sở quy định các chức vụ, chức danh tương đương, phân định rõ cấp trên, cấp dưới và thực hiện chính sách cho sĩ quan là phù hợp, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội trong giai đoạn mới. Quân đội có nhiều thành phần, nhiều lực lượng, việc quy định cụ thể tất cả các chức danh trong Luật là khó khăn, để đảm bảo tính linh hoạt trong tổ chức thực hiện cũng như bảo đảm tính bí mật quân sự quốc phòng nên chỉ quy định các chức danh cơ bản.

2.2. Về tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan.

Luật sửa đổi năm 2024 đã tăng hạn tuổi cao nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ theo cấp bậc quân hàm, cụ thể: Cấp úy từ 46 lên 50 tuổi, Thiếu tá từ 48 lên 52 tuổi, Trung tá từ 51 lên 54 tuổi, Thượng tá từ 54 lên 56 tuổi, Đại tá nam từ 57 lên 58 tuổi, nữ từ 55 lên 58 tuổi; cấp Tướng nam 60 giữ nguyên, nữ từ 55 lên 60 tuổi.

Khi quân đội có nhu cầu, sĩ quan có đủ phẩm chất về chính trị, đạo đức, năng lực, sức khỏe và tự nguyện thì có thể được kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ không quá 5 năm. Trường hợp đặc biệt có thể kéo dài hơn theo quy định của bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

 Việc tăng hạn tuổi cao nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ để giữ gìn đội ngũ sĩ quan được đào tạo cơ bản, có bản lĩnh, trình độ, kinh nghiệm, sức khỏe và có thời gian phục vụ Quân đội dài hơn, giảm áp lực đào tạo cán bộ; phù hợp tính chất, nhiệm vụ của sĩ quan phải thường xuyên trực tiếp chỉ huy, quản lý, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu trong điều kiện khó khăn, gian khổ, đóng quân làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo... Đồng thời, bảo đảm cho sĩ quan cấp Trung tá trở xuống khi nghỉ hưu có đủ số năm tham gia bảo hiểm xã hội để được hưởng lương hưu mức tối đa 75%, thể hiện chính sách ưu việt, làm cơ sở để thu hút, gìn giữ nguồn nhân lực phục vụ Quân đội. Mặt khác, việc tăng hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của sĩ quan còn bảo đảm kịp thời phục vụ công tác nhân sự cán bộ cho Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Sửa đổi quy định về tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan nêu trên vẫn thấp hơn tuổi của người lao động nhưng đã tiệm cận cao nhất từ trước đến nay so với quy định của Bộ luật Lao động. Nếu tăng tuổi bằng tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường của Bộ luật Lao động hoặc bằng tuổi nghỉ hưu của sĩ quan Công an nhân dân sẽ không bảo đảm cho sĩ quan, nhất là sĩ quan ở các đơn vị đủ quân, sẵn sàng chiến đấu có đủ sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ và gây ùn tắc, dôi dư trong đội ngũ sĩ quan.

Luật quy định tuổi của nam sĩ quan, nữ sĩ quan bằng nhau và không xác định lộ trình tăng tuổi vì lý do hiện nay, số lượng nữ sĩ quan chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 3% so với tổng số sĩ quan); hằng năm nguồn bổ sung đầu vào sĩ quan nữ từ tuyển sinh quân sự tại các học viện: Quân y, Hậu cần, Kỹ thuật quân sự, Khoa học quân sự, một số ít được tuyển chọn phong quân hàm sĩ quan và bố trí, sắp xếp ở những chuyên ngành Quân đội không đào tạo được hoặc đào tạo được nhưng còn thiếu so với biên chế, phù hợp với sức khỏe, giới tính và được quan tâm, tạo điều kiện để có thời gian chăm sóc gia đình. Theo quy định của Bộ luật Lao động, lộ trình tuổi nghỉ hưu của lao động nữ năm 2024 là 56 tuổi 04 tháng, sau đó mỗi năm tăng 04 tháng, đến năm 2029 là 58 tuổi, năm 2035 là 60 tuổi. Như vậy, tại thời điểm hiện nay, hạn tuổi phục vụ tại ngũ của nữ sĩ quan cấp Thượng tá trở xuống vẫn thấp hơn tuổi nghỉ hưu của lao động nữ nên không quy định lộ trình tăng tuổi của nữ sĩ quan là phù hợp.

Đối với nữ sĩ quan cấp tướng và Đại tá, hiện nay toàn quân có 01 đồng chí sĩ quan cấp tướng và khoảng 2% nữ sĩ quan cấp Đại tá so với tổng số sĩ quan cấp Đại tá, chủ yếu công tác ở cơ quan cấp chiến lược, các học viện, nhà trường, trung tâm nghiên cứu khoa học, bệnh viện, đơn vị văn hóa nghệ thuật… (không có nữ sĩ quan chỉ huy đơn vị chiến đấu) và có trình độ cao (Phó Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Chuyên khoa II, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú), cơ bản thuộc đối tượng diện kéo dài 05 năm theo quy định của Luật.

Vì vậy, việc không phân biệt tuổi phục vụ tại ngũ giữa nam với nữ và không quy định lộ trình tăng hạn tuổi phục vụ cao nhất đối với nữ sĩ quan có quân hàm Đại tá là phù hợp với thực tiễn.

2.3. Về cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan:

Luật quy định số lượng cấp tướng nhưng không quy định vị trí cụ thể từ cấp Trung tướng trở xuống; giao Chính phủ quy định cụ thể vị trí có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Phó Đô đốc Hải quân, Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân. Tổng các chức vụ, chức danh có quân hàm cao nhất cấp Tướng và tương đương không quá 415 người, cụ thể:

- Quân hàm Đại tướng (không quá 03 người) bao gồm: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Tổng Tham mưu trưởng; Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.

- Quân hàm Thượng tướng, Đô đốc Hải quân (không quá 14 người): Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (không quá 06); Phó Tổng Tham mưu trưởng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị (không quá 03); Ngoài ra còn có Giám đốc và Chính ủy Học viện Quốc phòng.

- Trung tướng, Phó Đô đốc Hải quân, Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân (số lượng không quá 398 người).

Đối với các chức vụ, chức danh có quân hàm cao nhất cấp Tá và cấp Úy được quy định cụ thể tại Thông tư số 11/2025/TT-BQP ngày 17/02/2025 của Bộ Quốc phòng quy định chức vụ, chức danh tương đương và chức vụ, chức danh có cấp bậc quân hàm cao nhất là cấp tá, cấp úy của sĩ quan QĐND Việt Nam.

Luật sửa đổi năm 2024 cũng bổ sung quy định sĩ quan QĐNDVN biệt phái được bầu giữ chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội có cấp bậc quân hàm cao nhất là Thượng tướng. Với sĩ quan biệt phái có chức vụ, chức danh cao hơn quy định nêu trên và trường hợp đặc biệt thì được phong, thăng quân hàm cấp tướng do cấp có thẩm quyền quyết định.

Việc quy định như trên để thực hiện quy định tại văn bản số 10809-CV/VPTW ngày 06/8/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng: “Luật sửa đổi, bổ sung không quy định những vấn đề cụ thể về tổ chức bộ máy và quân hàm cấp Trung tướng trở xuống trong lực lượng vũ trang mà giao Chính phủ và Bộ Quốc phòng quy định cụ thể theo thẩm quyền để linh hoạt, phù hợp với tính chất, nhiệm vụ trong bố trí lực lượng” và phù hợp với quy định tại Điều 7 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước quy định: “Phạm vi bí mật nhà nước là giới hạn thông tin quan trọng trong các lĩnh vực ....thông tin về quốc phòng, an ninh, cơ yếu...”

Ngoài ra, cũng để linh hoạt, đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với một số đơn vị không thay đổi về tên gọi nhưng có sự điều chỉnh, phát triển về quy mô tổ chức, biên chế và bổ sung chức năng, nhiệm vụ phù hợp với chủ trương của Đảng về tổ chức QĐND Việt Nam trong tình hình mới và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

2.4. Về thăng quân hàm đối với sĩ quan tại ngũ

Luật sửa đổi năm 2024 quy định: Sĩ quan tại ngũ không vi phạm các tiêu chuẩn sĩ quan, có cấp bậc quân hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc quân hàm cao nhất quy định đối với chức vụ, chức danh đảm nhiệm và đủ thời hạn xét thăng quân hàm sẽ được thăng quân hàm. 

Thời hạn xét thăng quân hàm được quy định như sau:

- Từ Thiếu úy lên Trung úy: 02 năm

- Từ Trung úy lên Thượng úy: 03 năm

- Từ Thượng úy lên Đại úy: 03 năm

- Từ Đại úy lên Thiếu tá: 04 năm

- Từ Thiếu tá lên Trung tá: 04 năm

- Từ Trung tá lên Thượng tá: 04 năm

- Từ Thượng tá lên Đại tá: 04 năm

- Đại tá lên Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân tối thiểu là 4 năm;

- Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân lên Trung tướng, Phó Đô đốc Hải quân tối thiểu là 4 năm;

- Trung tướng, Phó Đô đốc Hải quân lên Thượng tướng, Đô đốc Hải quân tối thiểu là 4 năm;

- Thượng tướng, Đô đốc Hải quân lên Đại tướng tối thiểu là 4 năm;

Thời gian sĩ quan học tập tại trường được tính vào thời hạn xét thăng quân hàm.

Đặc biệt, điều kiện về tuổi xét thăng quân hàm từ cấp bậc Đại tá lên Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân phải còn ít nhất đủ 03 năm công tác, trường hợp không còn đủ 03 năm công tác khi có yêu cầu do Chủ tịch nước quyết định; đồng thời, bổ sung nội dung vào khoản 4 Điều 17 Luật trước đây, giao Chính phủ quy định tiêu chí, tiêu chuẩn để xét thăng quân hàm sĩ quan cấp tướng vượt bậc, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể tiêu chí, tiêu chuẩn để xét thăng quân hàm sĩ quan cấp tá, cấp úy vượt bậc. Trước đây, Luật chỉ quy định:“Sĩ quan tại ngũ lập thành tích đặc biệt xuất sắc thì được xét thăng quân hàm vượt bậc” nhưng không giao thẩm quyền quy định chi tiết nội dung trên, dẫn đến khó khăn khi áp dụng thực hiện. Việc sửa đổi, bổ sung như trên đã cụ thể, đồng bộ các quy định của Luật, góp phần động viên kịp thời sĩ quan QĐND Việt Nam khi lập thành tích đặc biệt xuất sắc.

Theo quy định của khoản 3 Điều 17 Luật trước đây, tuổi của sĩ quan tại ngũ xét thăng quân hàm từ cấp bậc Đại tá lên Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân không quá 57, phù hợp với quy định về hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của cấp Đại tá là 57 và phù hợp khi bổ nhiệm lên chức vụ có trần quân hàm cấp tướng còn đủ 03 năm theo quy định về bổ nhiệm cán bộ; tuy nhiên, Luật sửa đổi đã tăng hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan cấp Đại tá lên 58, nên sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 17 như trên để bảo đảm chặt chẽ trong xem xét, đề nghị thăng quân hàm.

2.5. Về xét thăng quân hàm và nâng lương trước thời hạn

Sĩ quan tại ngũ được xét nâng lương trước thời hạn nếu trong chiến đấu lập chiến công xuất sắc hoặc trong công tác được khen thưởng và được xét thăng quân hàm trước niên hạn, nhưng không vượt quá cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh sĩ quan đang đảm nhiệm trong trường hợp:

- Trong chiến đấu lập chiến công xuất sắc hoặc trong công tác được khen thưởng;

- Hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ mà cấp bậc quân hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc quân hàm cao nhất quy định đối với chức vụ, chức danh mà sĩ quan đang đảm nhiệm từ hai bậc trở lên hoặc cấp bậc quân hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ chỉ huy, quản lý.

Trong thời hạn xét thăng quân hàm, sĩ quan bị kỷ luật cảnh cáo, giáng chức, cách chức hoặc trong năm cuối của thời hạn xét thăng quân hàm, sĩ quan bị kỷ luật khiển trách thì thời hạn xét thăng quân hàm phải kéo dài ít nhất một năm nếu có tiến bộ thì được xét thăng quân hàm.

Bổ sung quy định sĩ quan được xét nâng lương trước thời hạn và giao Chính phủ quy định cụ thể tiêu chí, tiêu chuẩn để xét thăng quân hàm sĩ quan cấp Tướng trước thời hạn, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể tiêu chí, tiêu chuẩn để xét thăng quân hàm sĩ quan cấp Tá, cấp Úy và nâng lương sĩ quan trước thời hạn.

Trước đây không quy định sĩ quan được nâng lương trước thời hạn, dẫn đến sĩ quan đang giữ cấp bậc quân hàm cao nhất của chức vụ đảm nhiệm lập thành tích xuất sắc lại chưa có cơ sở để xem xét nâng lương trước thời hạn nên gây bất bình đẳng trong cùng đội ngũ sĩ quan, không tạo ra động lực phấn đấu cho số sĩ quan này. Việc bổ sung quy định về nâng lương trước thời hạn đã bảo đảm phù hợp, cân đối với pháp luật về cán bộ, công chức, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng và tạo bình đẳng trong đội ngũ sĩ quan, phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.

Đồng thời, thể chế hóa Quy định số 1757-QĐ/BCSĐCP ngày 05/01/2021 của Ban Cán sự Đảng Chính phủ về việc thăng quân hàm cấp tướng trước thời hạn và bảo đảm tương thích, tương đối với các quy định khác của pháp luật. Mặt khác, Điều 18 Luật trước đây quy định sĩ quan có thành tích “được xét thăng quân hàm trước thời hạn” nhưng chưa giao thẩm quyền quy định cụ thể tiêu chí, tiêu chuẩn nên khi áp dụng thực hiện chưa thống nhất. Việc bổ sung quy định trên là bảo đảm cơ sở pháp lý để Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể theo thẩm quyền.

2.6. Về chế độ nghỉ của sĩ quan

Sĩ quan tại ngũ được nghỉ những ngày lễ theo quy đinh của Bộ luật Lao động và nghỉ theo quy định tại Thông tư số 153/2017/TT-BQP ngày 26/6/2017 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về chế độ nghỉ của sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam bao gồm: Nghỉ phép hằng năm; nghỉ phép đặc biệt; nghỉ ngày lễ, tết; nghỉ an điều dưỡng, nghỉ hằng tuần và nghỉ chuẩn bị hưu.

Khi có lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ và trong thời chiến, Bộ trưởng Bộ quốc phòng được ra lệnh đình chỉ chế độ nghỉ của sĩ quan, mọi sĩ quan đang nghỉ phải về ngay đơn vị.

Luật bổ sung quy định sĩ quan do yêu cầu nhiệm vụ mà không được bố trí nghỉ hằng năm thì ngoài tiền lương còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng tiền lương cho những ngày không nghỉ.

Việc quy định như trên là để thống nhất với quy định của pháp luật về lao động về thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ đối với người lao động. Khoản 3 Điều 113 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “Trường hợp do thôi việc, bị mất việc làm mà chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì được người sử dụng lao động thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ”; khoản 3 Điều 67 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động quy định: “Tiền lương làm căn cứ trả cho người lao động những ngày chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm theo khoản 3 Điều 113 của Bộ luật Lao động là tiền lương theo hợp đồng lao động của tháng trước liền kề tháng người lao động thôi việc, bị mất việc làm”. Vì vậy, bổ sung nội dung trên là cần thiết, bảo đảm sĩ quan được hưởng đầy đủ chế độ theo quy định của pháp luật về lao động, cân đối với các quy định khác của pháp luật.

2.7. Về chăm sóc sức khỏe đối với sĩ quan và thân nhân sĩ quan tại ngũ

Luật Sĩ quan trước đây quy định chế độ chăm sóc sức khỏe, sĩ quan được Quân đội thanh toán viện phí. Theo quy định hiện hành, sĩ quan có vấn đề về sức khỏe sẽ được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế và được hưởng các chế độ chăm sóc sức khỏe khác theo quy định của pháp luật.

Luật sửa đổi năm 2024 cũng bổ sung quy định con đẻ, con nuôi hợp pháp của sĩ quan tại ngũ từ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục đi học phổ thông không có chế độ bảo hiểm y tế thì được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Việc thanh toán các chi phí khám chữa bệnh của thân nhân sĩ quan được thực hiện theo quy định pháp luật về bảo hiểm y tế.

Việc sửa đổi, bổ sung như trên nhằm thống nhất với quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và cân đối với quy định khác của pháp luật, bảo đảm quyền lợi cho sĩ quan quân đội và thân nhân, cụ thể:

Điều 7c Luật Bảo hiểm y tế quy định Bộ Quốc phòng có trách nhiệm: Chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn, tổ chức thực hiện việc xác định, quản lý, lập danh sách bảo hiểm y tế đối với đối tượng; lập danh sách và cung cấp danh sách đề nghị cấp thẻ bảo hiểm y tế đối với đối tượng quy định cho tổ chức bảo hiểm y tế; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy định của pháp luật về trách nhiệm tham gia bảo hiểm y tế của các đối tượng do Bộ Quốc phòng và Bộ Công an quản lý. Phối hợp với Bộ Y tế, các bộ, ngành liên quan hướng dẫn các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an ký kết hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế với tổ chức bảo hiểm y tế để khám bệnh, chữa bệnh cho các đối tượng tham gia bảo hiểm y tế.

Khoản 3 Điều 12 Luật Bảo hiểm y tế quy định đối tượng tham gia bảo hiểm y tế với nhóm do ngân sách nhà nước đóng, gồm: Sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội đang tại ngũ; sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ và sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên môn, kỹ thuật đang công tác trong lực lượng công an nhân dân, học viên công an nhân dân, hạ sỹ quan, chiến sỹ phục vụ có thời hạn trong công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; học viên cơ yếu được hưởng chế độ, chính sách theo chế độ, chính sách đối với học viên ở các trường quân đội, công an và Thân nhân của các đối tượng nêu trên.

Khoản 13 Điều 3 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế quy định: Thân nhân của sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội đang tại ngũ, sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ và sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên môn, kỹ thuật đang công tác trong lực lượng công an nhân dân, học viên công an nhân dân, hạ sỹ quan, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân, học viên cơ yếu được hưởng chế độ, chính sách theo chế độ, chính sách đối với học viên ở các trường quân đội, công an, gồm: Cha đẻ, mẹ đẻ; cha đẻ, mẹ đẻ của vợ hoặc chồng; người nuôi dưỡng hợp pháp của bản thân, của vợ hoặc của chồng; vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi hợp pháp từ trên 6 tuổi đến dưới 18 tuổi; con đẻ, con nuôi hợp pháp từ đủ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục đi học phổ thông.

2.8. Về điều kiện nghỉ hưu của sĩ quan và quyền lợi của sĩ quan khi nghỉ hưu

Theo quy định cũ, sĩ quan được nghỉ hưu khi:

- Đủ điều kiện theo quy định bảo hiểm xã hội của Nhà nước

- Trong trường hợp chưa đáp ứng điều kiện trên, quân đội không còn nhu cầu bố trí sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng hoặc không chuyển ngành được, nếu nam sĩ quan có đủ 25 năm và nữ sĩ quan có đủ 20 năm phục vụ trong quân đội trở lên thì được nghỉ hưu.

Nay bổ sung thêm  khoản 3 Điều 36 Luật Sĩ quan, sĩ quan hết tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất theo quy định tại Luật Sĩ quan nếu đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên thì được nghỉ hưu. Quy đinh này phù hợp với chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài của Đảng, Nhà nước và “tính chất, nhiệm vụ của Quân đội là ngành lao động đặc biệt”. Ngoài ra, Luật năm 2024 bổ sung thêm quyền lợi của sĩ quan khi nghỉ hưu được hưởng chế độ an điều dưỡng, chăm sóc khi mắc bệnh hiểm nghèo, chế độ thông tin, hỗ trợ tang lễ khi từ trần.

Trước đây, các sĩ quan có trình độ chuyên môn chuyên sâu được tuyển dụng từ bên ngoài vào làm công tác nghiên cứu khoa học, thiết kế, chế tạo vũ khí, khí tài quân sự, chuyên môn nghiệp vụ khác…, trong đó nhiều đồng chí trước đó đã có thời gian đóng bảo hiểm xã hội, làm việc ở các cơ quan, đơn vị ngoài Quân đội hoặc là lao động hợp đồng trong các đơn vị, doanh nghiệp Quân đội, có tuổi đời đã cao; nhưng khi hết tuổi theo cấp bậc quân hàm, phải chuyển ra sẽ không đủ 25 năm công tác trong Quân đội để nghỉ hưu. Ví dụ: Những đồng chí là nam sĩ quan trước khi vào Quân đội đã có thời gian đóng bảo hiểm xã hội khoảng 15 năm (tuổi đời khoảng 34 tuổi), nếu công tác trong Quân đội thêm 20 năm nữa thì sẽ có 35 năm đóng bảo hiểm xã hội (tương đương sĩ quan có quân hàm cấp trung tá, tuổi đời là 54 tuổi), nhưng khi chuyển ra sẽ không đủ điều kiện về tuổi đời để nghỉ hưu theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Luật Sĩ quan; đồng thời, chưa đủ 25 năm công tác trong Quân đội để nghỉ hưu.

Việc bổ sung khoản 3 Điều 36, bảo đảm quy định sĩ quan đủ điều kiện nghỉ hưu phải đáp ứng đủ điều kiện về hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất theo cấp bậc quân hàm và phải có từ đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên. Không phải chỉ đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội là đủ điều kiện nghỉ hưu. Quy định như vậy bảo đảm quyền lợi của sĩ quan và thống nhất với quy định của Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội và phù hợp với thực tiễn hiện nay.

2.9. Về tuổi phục vụ của sĩ quan dự bị

 Tăng hạn tuổi phục vụ của sĩ quan dự bị từ 01 đến 02 tuổi; cụ thể: Cấp úy từ 51 lên 53 tuổi, Thiếu tá từ 53 lên 55 tuổi, Trung tá từ 56 lên 57 tuổi, Thượng tá từ 57 lên 59 tuổi, Đại tá từ 60 lên 61 tuổi và cấp tướng giữ nguyên 63 để phù hợp với việc tăng hạn tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan; vừa giảm số lượng và ngân sách đào tạo sĩ quan dự bị hằng năm, vừa tận dụng được đội ngũ sĩ quan khi nghỉ hưu tiếp tục phục vụ trong ngạch dự bị và số sĩ quan dự bị có kinh nghiệm trong thực tiễn chỉ huy, quản lý, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và xây dựng đơn vị. Mặt khác, việc nâng hạn tuổi cao nhất của sĩ quan dự bị phù hợp với các chức vụ đảm nhiệm có quân hàm tương đương; sẵn sàng động viên, tổng động viên vào phục vụ Quân đội khi đất nước có tình huống xảy ra, đáp ứng nhu cầu sắp xếp, bổ nhiệm vào các đơn vị được khôi phục, mở rộng lực lượng theo Quyết tâm Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời bảo đảm thống nhất với quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật Lực lượng dự bị động viên năm 2019: “Độ tuổi sĩ quan dự bị sắp xếp vào đơn vị dự bị động viên thực hiện theo quy định của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam”.

 Bổ sung quy định hạn tuổi phục vụ cao nhất của Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao động tại khoản 2, vì: Điểm a khoản 1 Điều 20 Luật Dân quân tự vệ số 48/2019/QH14 quy định: “Chỉ huy trưởng là Ủy viên Ủy ban nhân dân cấp xã, sĩ quan dự bị…”; khoản 2 Điều 5 Nghị định số 33/2023/NĐ-CP ngày 10/6/2023 của Chính phủ quy định Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự là công chức cấp xã, có tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ luật Lao động. Điều 169 Bộ luật Lao động quy định tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035. Tuy nhiên, do quy định Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự cấp xã là sĩ quan dự bị, chức vụ tương đương với Tiểu đoàn trưởng, có cấp bậc quân hàm sĩ quan dự bị cao nhất là Trung tá, độ tuổi phục vụ của sĩ quan dự bị theo Luật trước đây là 56, hết tuổi phải giải ngạch và không còn là sĩ quan dự bị, nên vướng mắc trong bố trí, sử dụng.

2.10. Về bổ nhiệm chức vụ, phong, thăng quân hàm sĩ quan dự bị

Luật sửa đổi quy định học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan dự bị, học viên tốt nghiệp đào tạo Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã ngành quân sự cơ sở thì căn cứ trình độ đã được đào tạo, kết quả học tập, rèn luyện được phong quân hàm sĩ quan dự bị và bổ sung khoản 6 Điều 41 giao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết.

Việc sửa đổi, bổ sung như trên phù hợp với ý kiến Kết luận của Bộ Chính trị về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam, trong đó: Đồng ý lực lượng vũ trang có cơ chế đặc biệt để thu hút, trọng dụng nhân tài; giao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an xem xét, quy định cụ thể (Văn bản số 10809-CV/VPTW ngày 06/8/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng). Kết luận số 86-KL/TW ngày 24/01/2014 của Bộ Chính trị và Nghị định số 140/2017/NĐ-CP ngày 05/12/2017 của Chính phủ về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ quy định về phong, thăng cấp bậc, quân hàm sĩ quan Quân đội, sĩ quan Công an đối với người được thu hút vào lực lượng vũ trang như sau: “Sinh viên tốt nghiệp xuất sắc được phong quân hàm từ Trung úy và tương đương trở lên, hưởng hệ số lương khởi điểm là 4,60; cán bộ khoa học trẻ có trình độ thạc sĩ được phong quân hàm từ Thượng úy và tương đương trở lên…; cán bộ khoa học trẻ có trình độ tiến sĩ được phong quân hàm từ Đại úy và tương đương trở lên…; cán bộ khoa học trẻ có trình độ tiến sĩ khoa học được phong quân hàm từ Thiếu tá và tương đương trở lên…”.

Khoản 1 Điều 41 Luật trước đây quy định: “Học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan dự bị được phong quân hàm Thiếu úy sĩ quan dự bị”, nhưng thực tế hiện nay đào tạo sĩ quan dự bị gồm nhiều đối tượng: Cán bộ, công chức, viên chức, sinh viên tốt nghiệp đại học, sau đại học, hạ sĩ quan, binh sĩ chuẩn bị xuất ngũ... Mặt khác, Điều 16 Luật trước đây quy định: “Học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan tại ngũ được phong quân hàm Thiếu úy; tốt nghiệp loại giỏi, loại khá ở những ngành đào tạo có tính chất đặc thù hoặc có thành tích xuất sắc trong công tác được phong quân hàm Trung úy, trường hợp đặc biệt được phong quân hàm cao hơn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Hạ sĩ quan, binh sĩ trong thời chiến; quân nhân chuyên nghiệp và công chức quốc phòng tại ngũ; cán bộ, công chức ngoài quân đội và những người tốt nghiệp đại học trở lên vào phục vụ tại ngũ được bổ nhiệm giữ chức vụ của sĩ quan thì được phong cấp bậc quân hàm sĩ quan tương xứng”. Do đó, việc quy định tốt nghiệp đào tạo sĩ quan dự bị chỉ phong quân hàm Thiếu úy sĩ quan dự bị là chưa phù hợp với các quy định hiện hành và chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ, nhất là đối tượng học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan dự bị gọi vào phục vụ tại ngũ trong Quân đội theo chủ trương của Đảng.

2.11. Về trách nhiệm của Chính phủ, Bộ Quốc phòng

Luật sửa đổi bổ sung năm 2024 bổ sung trách nhiệm của Chính phủ trong quản lý nhà nước về sĩ quan; ban hành chế độ, chính sách đối với sĩ quan tại ngũ chuyển sang quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng; sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ và sĩ quan tại ngũ hy sinh, từ trần; ban hành cơ chế, chính sách đặc biệt về điều kiện, môi trường làm việc, lương, thưởng, chăm sóc sức khỏe và các chính sách khác để thu hút, trọng dụng nhân tài đối với Quân đội; quy định chế độ, chính sách ưu đãi đặc thù đối với cán bộ Tình báo và người cộng tác với lực lượng Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng.

Khoản 2 Điều 46, bổ sung trách nhiệm của Bộ Quốc phòng việc chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập kế hoạch phát triển nhà ở cho Quân đội.

Việc bổ sung nội dung như trên để Chính phủ, Bộ Quốc phòng có cơ sở pháp lý ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị tại Văn bản số 10809 - CV/VPTW ngày 06/8/2024 của Văn phòng Trung ương Đảngvà Nghị quyết số 106/NQ-CP ngày 06/7/2024 của Chính phủ về đề nghị xây dựng dự án Luật: “…nghiên cứu các chính sách thu hút, giữ chân nhân tài phù hợp với đặc thù của QĐND Việt Nam, đáp ứng nhu cầu phát triển quốc phòng, an ninh…”.

Đồng thời, Bộ Quốc phòng được chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương lập kế hoạch phát triển nhà ở xã hội cho Quân đội.

2.12. Về trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp

Luật bổ sung quy định trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc bố trí quỹ đất, thu hồi đất để bàn giao cho Bộ Quốc phòng làm cơ quan chủ quản, triển khai thực hiện chính sách phát triển nhà ở xã hội cho quân đội.

Thực hiện Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 24/5/2024 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát triển nhà ở xã hội trong tình hình mới, yêu cầu: “Nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách đặc thù về nhà ở xã hội cho công nhân và lực lượng vũ trang nhân dân”; Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 01/9/2024 của Chính phủ quyết nghị: Thống nhất định hướng phát triển nhà ở xã hội cho Quân đội; đặc biệt là lực lượng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo phù hợp với đặc thù của Quân đội và khả năng của địa phương.

Theo Điều 102 Luật Nhà ở năm 2023 quy định Bộ Quốc phòng cung cấp nhu cầu về nhà ở của đối tượng thuộc phạm vi quản lý gửi UBDN cấp tỉnh để tổng hợp nên không chủ động được trong xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện; việc điều chỉnh quy hoạch, chương trình, kế hoạch theo quy định của Luật Nhà ở mất nhiều công đoạn trong khi nguồn lực có hạn. Đất quốc phòng không còn nhu cầu sử dụng vào mục đích quốc phòng chuyển giao cho địa phương để UBND cấp tỉnh đưa vào kế hoạch phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang dẫn đến phụ thuộc vào kế hoạch phát triển nhà ở của địa phương; trong khi nhu cầu của sĩ quan Quân đội là rất lớn và trải dài trên khắp cả nước nên việc triển khai thực hiện chính sách về nhà ở cho sĩ quan gặp nhiều khó khăn. Trong khi Quân đội có các doanh nghiệp xây dựng, có đủ nhân lực, nguồn lực để triển khai thực hiện các dự án, việc giao cho Quân đội thực hiện góp phần làm giảm áp lực và khó khăn cho các địa phương.

Luật Đất đai năm 2024, Luật Nhà ở năm 2023 giao UBND cấp tỉnh lập kế hoạch phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang theo đề nghị của Bộ Quốc phòng và có trách nhiệm phải bố trí quỹ đất phát triển nhà ở xã hội; tuy nhiên, Luật chưa quy định việc bố trí quỹ đất và thu hồi đất để giao cho Bộ Quốc phòng, dẫn đến khó bảo đảm tính khả thi. Theo quy định của pháp luật, Bộ Quốc phòng có các cơ quan chuyên môn về đầu tư, xây dựng, quản lý doanh nghiệp và các doanh nghiệp quốc phòng có chức năng, ngành nghề xây dựng công trình, đủ năng lực để quản lý và triển khai thực hiện các dự án nhà ở.

Vì vậy, Luật bổ sung quy định trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp như trên là thể chế hóa chủ trương của Đảng và thống nhất với quy định về trách nhiệm quản lý nhà ở của Bộ Quốc phòng tại khoản 3 Điều 190 Luật Nhà ở năm 2023; bảo đảm sự chủ động trong triển khai thực hiện chính sách phát triển nhà ở xã hội cho Quân đội, làm giảm khó khăn, áp lực cho chính quyền địa phương và đáp ứng nhu cầu cấp bách về nhà ở của đội ngũ sĩ quan, cho các đối tượng được thụ hưởng trên thực tế.

 

Phần thứ ba

CÁC VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THI HÀNH VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA LLVT QUÂN KHU 2 TRONG VIỆC QUÁN TRIỆT, TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT

 

1.     Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật

Để triển khai thực hiện các quy định của Luật có hiệu quả, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2025/NĐ-CP ngày 03/3/2025 quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn để xét thăng quân hàm cấp tướng vượt bậc, trước thời hạn đối với sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam; Bộ Quốc phòng ban hành Thông tư số 11/2025/TT-BQP ngày 17/02/2025 quy định chức vụ, chức danh tương đương và chức vụ, chức danh có cấp bậc quân hàm cao nhất là cấp tá, cấp úy của sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam.

2. Trách nhiệm của LLVT Quân khu 2 trong quán triệt triển khai thi hành Luật

- Cấp ủy, chỉ huy các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện Luật Sĩ quan sửa đổi năm 2024 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức; phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, truyền thông, tuyên truyền sâu rộng đến các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân và đội ngũ sĩ quan nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận, thống nhất trong tổ chức thực hiện Luật Sĩ quan.

- Các cơ quan, đơn vị thường xuyên tổ chức học tập, giáo dục, phổ biến các quy định của Đảng và Nhà nước nói chung và quy định về Luật Sĩ quan cùng các văn bản liên quan nói riêng cho quân nhân trong cơ quan, đơn vị. Qua đó nâng cao ý thức trách nhiệm, sự hiểu biết pháp luật, hiểu được vị trí, vai trò, quyền lợi, nghĩa vụ của sĩ quan trong Quân đội. Định kỳ, triển khai thực hiện sơ, tổng kết, đánh giá kết quả, bất cập.

- Các đơn vị có chức năng tổ chức biên soạn tài liệu phục vụ công tác phổ biến, giáo dục Luật Sĩ quan và các văn bản liên quan.

- Cán bộ, sĩ quan toàn quân nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự giác học tập, nghiên cứu, nắm chắc các quy định của Luật Sĩ quan và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật, quán triệt và thực hiện nghiêm các quy định của Luật, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; tuyên truyền nhân dân, động viên học sinh, sinh viên tự nguyện vào phục vụ Quân đội, phát triển thành sĩ quan QĐND Việt Nam./.