NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
                  (Chuyên đề đã được rút gọn và thông qua Tổ tư vấn pháp luật Tòa án quân sự Quân khu 2) 

 Phần thứ nhất

I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG LUẬT

1. Cơ sở chính trị

a) Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh và động viên công nghiệp:

- Nghị quyết Đại hội VII của Đảng xác định xây dựng công nghiệp quốc phòng phù hợp với khả năng của nền kinh tế, làm nòng cốt cùng các ngành công nghiệp dân dụng bảo đảm nhiệm vụ sửa chữa, phục hồi và sản xuất một phần trang bị, đáp ứng yêu cầu động viên công nghiệp khi tình thế đòi hỏi; yêu cầu cần sớm có hệ thống văn bản pháp quy Nhà nước và cơ chế chuẩn bị động viên công nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường. Nghị quyết Đại hội XI, XII, nhất là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng định hướng “Xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội”; đồng thời, đề ra một trong các giải pháp cho phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh là bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp luật về quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.

- Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã khẳng định cần ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp cơ bản, tạo nền tảng cho công nghiệp quốc phòng, an ninh.

- Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, xác định: “Phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo hướng lưỡng dụng, hiện đại, tự lực, tự cường, liên kết chặt chẽ với công nghiệp dân sinh, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia”; “Thể chế hóa các cơ chế, chính sách đặc thù cho phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo hướng lưỡng dụng, hiện đại”; “Cơ cấu lại các cơ sở công nghiệp quốc phòng, hình thành các cơ sở công nghiệp an ninh bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, hiện đại theo hướng lưỡng dụng, hiện đại”.

- Kết luận số 25-TB/TW ngày 11/4/2017 của Bộ Chính trị về Đề án “Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” xác định phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh cần phải đặt trong tổng thể phát triển công nghiệp quốc gia.

b) Để phù hợp với đặc thù của công nghiệp quốc phòng, Bộ Chính trị đã ban hành các Nghị quyết chuyên đề như: Nghị quyết số 05/BCT ngày 20/7/1993, Nghị quyết số 27/BCT ngày 16/6/2003, Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 16/7/2011, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 26/01/2022 về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/4/2018 về Chiến lược Quốc phòng Việt Nam đã xác định:

Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng là nhiệm vụ cơ bản vừa có ý nghĩa cấp bách trước mắt, vừa là nhiệm vụ chiến lược lâu dài; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; là ngành đặc thù, phải được chăm lo xây dựng và phát triển theo một cơ chế đặc thù và được ưu tiên trong đầu tư phát triển, phải coi trọng phát triển nguồn nhân lực, nguồn lực khoa học công nghệ, huy động tối đa thành tựu của nền công nghiệp quốc gia phục vụ công nghiệp quốc phòng.

Sách lược động viên công nghiệp và huy động công nghiệp dân sinh trong phát triển công nghiệp quốc phòng là huy động sự tham gia tích cực, đầy đủ của công nghiệp quốc gia trong các khâu, các bước của công nghiệp quốc phòng, nhất là việc huy động đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ và các cơ sở công nghiệp dân sinh sản xuất các nguyên, vật liệu chính cho công nghiệp quốc phòng; chú trọng phát triển các ngành công nghiệp then chốt của quốc gia để tham gia sâu; thiết thực hơn vào hoạt động công nghiệp quốc phòng; thực hiện mở rộng phạm vi hoạt động của khoa học công nghệ dân sinh tham gia nghiên cứu phục vụ công nghiệp quốc phòng.

Bên cạnh đó, định hướng về xây dựng và phát triển công nghiệp an ninh còn được đề cập đến trong các văn bản chỉ đạo của Đảng như Kết luận số 142-TB/TW ngày 8/8/2013 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 25/7/2018 của Bộ Chính trị...

2. Cơ sở pháp lý

Cơ sở pháp lý chung điều chỉnh lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh và động viên công nghiệp là Hiến pháp năm 2013, Luật Quốc phòng năm 2018, Luật Công an nhân dân năm 2018 và các Luật chuyên ngành khác. Cơ sở pháp lý trực tiếp điều chỉnh là Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng năm 2008, Pháp lệnh Động viên công nghiệp năm 2003, Nghị định số 63/2020/NĐ-CP (về công nghiệp an ninh) và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

Bên cạnh đó, có nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành quy định liên quan đến công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh, động viên công nghiệp, nhưng chưa có tính bao quát, thống nhất, toàn diện để áp dụng chung, đặt ra yêu cầu cần xây dựng khung pháp lý đầy đủ, toàn diện cho các lĩnh vực này.

3. Cơ sở thực tiễn

a) Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực thi các Pháp lệnh về công nghiệp quốc phòng, động viên công nghiệp đã xuất hiện nhiều vướng mắc, bất cập như:

- Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp quốc phòng và động viên công nghiệp chưa phát huy tối đa hiệu lực, hiệu quả; công tác lập Quy hoạch, Kế hoạch phát triển công nghiệp quốc phòng có bước đổi mới, nhưng tính thực tiễn, hiệu quả còn chưa cao.

- Chưa xây dựng được cơ chế, chính sách đặc thù ưu tiên nguồn lực cho xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng; chưa có chính sách hiệu quả để thúc đẩy khoa học công nghệ trở thành động lực cho phát triển công nghiệp quốc phòng; các chính sách về đào tạo, gìn giữ, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, huy động và đầu tư nâng cao tiềm lực cho công nghiệp quốc phòng chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, hiệu quả chưa cao.

- Chưa có cơ chế phát huy vai trò chủ lực của các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt để kết hợp chặt chẽ với công nghiệp dân sinh trong động viên công nghiệp; chưa khai thác thế mạnh của từng vùng, từng địa phương để thực hiện động viên công nghiệp gắn với thế bố trí tác chiến chiến lược và khu vực phòng thủ. Cơ chế giao nhiệm vụ, đặt hàng, đấu thầu và quản lý sản xuất quốc phòng, thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp chưa đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành. Đối tượng doanh nghiệp và lĩnh vực công nghệ được động viên công nghiệp còn hẹp, chưa phù hợp với xu thế hội nhập thế giới; lĩnh vực còn bó hẹp. Sự thu hút, tạo động lực để huy động và tận dụng năng lực sẵn có của doanh nghiệp ngoài lực lượng vũ trang nhân dân, các thành phần kinh tế dân sinh tham gia sản xuất quốc phòng, thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp còn hạn chế.

- Hợp tác quốc tế về công nghiệp quốc phòng chủ yếu vẫn diễn ra một chiều, phần lớn là nhập khẩu vũ khí, trang bị; sản phẩm công nghiệp quốc phòng chưa thâm nhập sâu rộng vào thị trường xuất khẩu vũ khí. Hoạt động xuất khẩu vũ khí, trang bị quân sự và xúc tiến thương mại quân sự chưa được quy định trong Pháp lệnh.

b) Kết quả tổng kết quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp an ninh từ Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ ra nhiều vướng mắc, bất cập như:

- Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp an ninh chưa tập trung và còn phân tán ở nhiều đầu mối cơ quan trực thuộc; thẩm quyền, trách nhiệm, phân cấp, phân quyền trong xây dựng, phát triển công nghiệp an ninh chưa đồng bộ, kịp thời và hiệu quả.

- Kinh phí ngân sách nhà nước đầu tư còn hạn hẹp; việc huy động các nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ còn thấp.

- Công nghiệp an ninh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế được giao: Việc nghiên cứu, chế tạo, sản xuất phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đặt ra; trình độ kỹ thuật, công nghệ còn yếu; nguồn nhân lực thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng. Hoạt động xúc tiến thương mại, xuất nhập khẩu sản phẩm công nghiệp an ninh có nhiều hạn chế, bất cập tương đồng như công nghiệp quốc phòng.

c) Thực tiễn hiện nay cho thấy: Ngoài chiến tranh truyền thống còn xuất hiện chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh thông tin; tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Chi tiêu quốc phòng toàn cầu tăng cao nhất trong lịch sử, nhiều loại vũ khí mới ra đời, trong đó vũ khí công nghệ cao, tác chiến điện tử, tác chiến không gian mạng đang được đầu tư phát triển và đưa vào sử dụng. Tình hình an ninh, tội phạm sử dụng công nghệ cao ngày càng gia tăng... Trước tình hình đó, đòi hỏi phải xây dựng tiềm lực công nghiệp quốc phòng, an ninh tự lực, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng, quy hoạch sắp xếp các cơ sở công nghiệp quốc phòng, an ninh phù hợp với thế trận phòng thủ chiến lược, đáp ứng yêu cầu đảm bảo tại chỗ cho các lực lượng khi có tình huống xảy ra; thực hiện động viên công nghiệp rộng khắp để chủ động ngăn ngừa từ sớm, từ xa, đẩy lùi và sẵn sàng đối phó thắng lợi trong mọi tình huống, đủ nội lực đánh bại mọi hình thức chiến tranh xâm lược, bảo vệ an ninh quốc gia.

II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU CHÍNH SÁCH CỦA LUẬT

1. Thể chế hoá đầy đủ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, trong đó có giải pháp về cơ chế, chính sách đặc thù cho công nghiệp quốc phòng, an ninh. Tuân thủ mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu chiến lược trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân.

2. Xây dựng hành lang pháp lý vững chắc, hoàn thiện các cơ chế, chính sách đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp trước mắt và lâu dài, nhằm xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh phát triển, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, sẵn sàng đối phó thắng lợi trong mọi tình huống.

3. Đảm bảo phù hợp, thống nhất với Hiến pháp năm 2013, Luật Quốc phòng năm 2018, Luật Công an nhân dân năm 2018 và các luật liên quan.

4. Bảo đảm tính kế thừa, phát triển những quy định của pháp luật hiện hành về công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp đã được thực tiễn kiểm nghiệm còn phù hợp; đồng thời, bổ sung những vấn đề mới để giải quyết những nội dung về công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp đặt ra. Bảo đảm gắn kết chặt chẽ và tận dụng tối đa năng lực của công nghiệp quốc phòng và công nghiệp an ninh, tránh trùng lặp trong đầu tư xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh; đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh lưỡng dụng.

5. Nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc pháp luật và kinh nghiệm của một số nước phù hợp với điều kiện và thực tiễn Việt Nam; pháp luật và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT

1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng

- Luật quy định về vị trí, nhiệm vụ, nguyên tắc, tổ chức, hoạt động, nguồn lực, chế độ, chính sách; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân về công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp.

- Luật áp dụng cho tổ chức, cá nhân; kể cả tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.

2. Giải thích từ ngữ

Luật giải thích 23 khái niệm là các thuật ngữ cần thiết để xây dựng các chính sách đặc thù nhằm thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, trong đó một số khái niệm mới như:

- “Vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược”: Là vũ khí trang bị kỹ thuật có công nghệ cao, tiên tiến, hiện đại, có tính tích hợp hệ thống, uy lực mạnh đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.

- “Phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt”: Là phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ có tính năng hiện đại, công nghệ cao, có tính phòng ngừa, răn đe, đấu tranh trấn áp, tạo sự đột phá trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, thuộc Danh mục tài sản đặc biệt trong Công an nhân dân.

- “Công nghệ lưỡng dụng”: Là công nghệ phục vụ cho cả mục đích quốc phòng, an ninh và dân sinh.

3. Áp dụng Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp và pháp luật có liên quan

Luật đã quy định nhiều chính sách đặc thù, đột phá nhằm tạo ra những cơ chế vượt trội, khả thi để thúc đẩy phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh. Để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và thuận lợi, khả thi trong tổ chức thực hiện, tại Điều 3 đã quy định 06 nội dung ưu tiên áp dụng theo quy định của Luật này như: Việc chuyển nguồn ngân sách mua sắm, sản xuất sản phẩm vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược và phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt; giá vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ khi áp dụng phương pháp định giá chung có nội dung đặc thù; quy định về miễn trách nhiệm dân sự khi thực hiện hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh; về chế độ, chính sách đối với chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư; người lao động trong cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt…

Trường hợp luật khác ban hành sau ngày Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp có hiệu lực thi hành cần quy định đặc thù về công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp khác với quy định của Luật này thì phải xác định cụ thể nội dung thực hiện hoặc không thực hiện theo quy định của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó, trừ 06 nội dung ưu tiên áp dụng theo quy định của Luật.

4. Vị trí, nhiệm vụ của công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh và động viên công nghiệp

- Công nghiệp quốc phòng có 07 nhóm nhiệm vụ: (1) Thực hiện sản xuất quốc phòng; (2) Bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang nhân dân, cơ yếu và các lực lượng thực thi pháp luật khác; (3) Cất trữ vật tư kỹ thuật cho Công nghiệp quốc phòng, động viên công nghiệp; (4) Đào tạo nhân lực phục vụ Công nghiệp quốc phòng; (5) Hợp tác quốc tế về Công nghiệp quốc phòng; (6) Tham gia phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; (7) Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

- Công nghiệp an ninh có 07 nhóm nhiệm vụ: (1) Thực hiện sản xuất an ninh; (2) Bảo đảm phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ cho lực lượng Công an nhân dân, cơ yếu và các lực lượng thực thi pháp luật khác; (3) Cất trữ vật tư kỹ thuật cho công nghiệp an ninh; (4) Đào tạo nhân lực phục vụ công nghiệp an ninh; (5) Hợp tác quốc tế về công nghiệp an ninh; (6) Tham gia phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; (7) Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

- Động viên công nghiệp bao gồm 08 nhóm hoạt động: (1) Khảo sát, lựa chọn, đăng ký, quản lý, theo dõi năng lực doanh nghiệp đủ điều kiện động viên công nghiệp; (2) Đánh giá khả năng bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật của cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt và bảo đảm từ các nguồn khác để xác định nhu cầu động viên công nghiệp; (3) Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp; (4) Giao nhiệm vụ, chỉ tiêu động viên công nghiệp; giao nhiệm vụ, đặt hàng, đấu thầu để sản xuất sản phẩm động viên công nghiệp; (5) Hoàn chỉnh, quản lý, duy trì năng lực dây chuyền động viên công nghiệp; (6) Sản xuất sản phẩm động viên công nghiệp; (7) Diễn tập động viên công nghiệp; (8) Thực hành động viên công nghiệp.

5. Nguyên tắc xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh và động viên công nghiệp

Luật quy định 07 nguyên tắc, cụ thể:

- Đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước.

- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

- Tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, chủ động hội nhập quốc tế, trong đó nội lực là yếu tố quyết định.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ cho lực lượng vũ trang nhân dân trong mọi tình huống.

- Cơ cấu tổ chức bảo đảm tinh, gọn, mạnh, hiệu quả, hoạt động đồng bộ, thống nhất, phù hợp với đặc thù lĩnh vực quốc phòng, an ninh.

- Gắn kết chặt chẽ và phát huy tối đa năng lực của công nghiệp quốc phòng và công nghiệp an ninh; bảo đảm thiết thực, hiệu quả, tránh trùng lặp trong đầu tư xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh.

- Động viên công nghiệp được chuẩn bị và thực hiện từ thời bình; bảo đảm chủ động, kịp thời, đầy đủ, đáp ứng nhu cầu khi có lệnh động viên cục bộ hoặc tổng động viên và trong tình trạng chiến tranh. Động viên công nghiệp được tiến hành trên cơ sở năng lực của doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn đóng vai trò chủ đạo. Xây dựng mạng lưới cơ sở công nghiệp động viên rộng khắp, đa dạng về sản phẩm, gắn kết chặt chẽ với hệ thống cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt.

6. Chính sách của Nhà nước về công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh và động viên công nghiệp

Luật quy định 07 chính sách của Nhà nước như sau: (1) Ưu tiên bảo đảm ngân sách, có chính sách, cơ chế đặc thù cho công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; (2) Xây dựng, phát triển cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt tinh, gọn, mạnh, hiệu quả, tiên tiến, hiện đại; gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, thiết kế, chế tạo với sản xuất, sửa chữa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh; (3) Ưu tiên nguồn lực cho phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, an ninh; (4) Huy động tối đa nguồn lực của công nghiệp quốc gia, xây dựng và phát triển công trình hạ tầng phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; thu hút, đào tạo, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh; (5) Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, gắn kết chặt chẽ, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; (6) Khuyến khích, tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia hoạt động công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; (7) Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh.

7. Các hành vi bị nghiêm cấm

Để bảo đảm các hoạt động công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp được thực hiện có kiểm soát và có trách nhiệm, Luật đã quy định 07 nhóm hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, cụ thể như sau:

- Làm lộ bí mật nhà nước về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp

- Huỷ hoại, cố ý làm hỏng, mua, bán, tặng cho, cho thuê, cầm cố, thế chấp, khai thác, sử dụng trái phép trang thiết bị và tài sản khác do Nhà nước giao cho cơ sở công nghiệp quốc phòng, cơ sở công nghiệp an ninh, cơ sở công nghiệp động viên.

- Mua, bán, tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, vật tư kỹ thuật và sản phẩm động viên công nghiệp.

- Chiếm đoạt, sử dụng, mua, bán và chuyển giao trái phép thông tin, tài liệu, sáng chế, quy trình và bí quyết công nghệ thuộc bí mật nhà nước về công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp.

- Cản trở, trốn tránh trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, trong chuẩn bị và thực hành động viên công nghiệp.

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật trong hoạt động công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp.

- Phân biệt đối xử về giới trong hoạt động công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp.

8. Quy hoạch công nghiệp quốc phòng, quy hoạch công nghiệp an ninh

Xuất phát từ vị trí, vai trò của công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh là bộ phận quan trọng, ngành đặc thù của công nghiệp quốc gia, thành phần cơ bản của thực lực, tiềm lực quốc phòng, an ninh; để công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh bảo đảm phát triển ổn định, đúng định hướng của Đảng và chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Luật đã quy định nội dung quy hoạch công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh, gồm: (1) Xác định các nguyên tắc lập quy hoạch công nghiệp quốc phòng, quy hoạch công nghiệp an ninh trong đó khẳng định quy hoạch công nghiệp quốc phòng, quy hoạch công nghiệp an ninh là quy hoạch ngành quốc gia; (2) căn cứ lập quy hoạch, nội dung quy hoạch, quy trình lập, thẩm định, phê duyệt, công bố, điều chỉnh quy hoạch công nghiệp quốc phòng, quy hoạch công nghiệp an ninh.

Theo đó, quy hoạch công nghiệp quốc phòng, quy hoạch công nghiệp an ninh bảo đảm đồng bộ và có quy mô hợp lý, phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo hướng lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu quốc phòng, an ninh.

9. Quản lý hoạt động sản xuất quốc phòng, an ninh

Điều 57 Luật Đấu thầu năm 2023 và Nghị định số 32/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 đã có quy định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên. Tuy nhiên các văn bản này không áp dụng đối với lĩnh vực sản xuất quốc phòng, an ninh; đồng thời, để tạo sự minh bạch, chặt chẽ trong quá trình thực hiện, Luật đã tập trung quy định 03 vấn đề về hoạt động sản xuất quốc phòng, an ninh: (1) Quy định về yêu cầu quản lý hoạt động sản xuất quốc phòng, an ninh; (2) nội dung quản lý hoạt động sản xuất quốc phòng, an ninh, trong đó giao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn quy định chi tiết nội dung quản lý hoạt động sản xuất quốc phòng, an ninh; (3) quy định cụ thể các trường hợp thực hiện giao nhiệm vụ, đặt hàng, đấu thầu; trong đó hoạt động giao nhiệm vụ, đặt hàng kế thừa các quy định hiện hành, đối với hoạt động đấu thầu Luật dẫn chiếu sang pháp luật về đấu thầu với các hình thức đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu và lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt.

10. Nguồn lực tài chính cho công nghiệp quốc phòng, an ninh

Đây là yếu tố then chốt trong xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, nhất là các nhiệm vụ cấp bách, sản phẩm mới, vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt. Tuy nhiên, thời gian qua việc bảo đảm nguồn lực tài chính chưa đủ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất của công nghiệp quốc phòng, an ninh. Để bảo đảm đủ nguồn lực tài chính và huy động được các nguồn vốn hợp pháp ngoài ngân sách cho phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh nhằm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, Luật đã quy định:

- Các nguồn tài chính cho công nghiệp quốc phòng, an ninh, gồm: (1) Ngân sách nhà nước; (2) nguồn tài chính của doanh nghiệp gồm vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và các nguồn vốn huy động hợp pháp theo quy định của pháp luật; (3) nguồn từ Quỹ công nghiệp quốc phòng, an ninh và các quỹ hợp pháp khác chi cho công nghiệp quốc phòng, an ninh và (4) nguồn vốn hợp pháp khác.

- Các nội dung về quản lý nguồn lực tài chính cho công nghiệp quốc phòng, an ninh, gồm: (1) Ưu tiên phân bổ nguồn lực trong kế hoạch tài chính; (2) nhà nước bảo đảm cấp đủ vốn điều lệ ban đầu, đầu tư bổ sung và tăng vốn điều lệ từ nguồn ngân sách nhà nước; (3) trong trường hợp cấp bách, được sử dụng dự phòng ngân sách trung ương để thực hiện nhiệm vụ đầu tư, sản xuất sản phẩm công nghiệp quốc phòng, an ninh; (4) sử dụng lợi nhuận sau thuế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt để trích lập Quỹ công nghiệp quốc phòng, an ninh và hỗ trợ nghiên cứu, chế tạo, sản xuất sản phẩm mới, công nghệ cao và bù đắp chi phí cho doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu; (5) ngân sách mua sắm, sản xuất sản phẩm vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt nếu chưa sử dụng hết thì được phép chuyển nguồn đến khi nghiệm thu, thanh lý hợp đồng hoặc kết thúc nhiệm vụ. Các nội dung này Luật giao Chính phủ quy định chi tiết.

- Đối với quỹ công nghiệp quốc phòng, an ninh, Luật xác định đây là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, được thành lập ở Trung ương, do Chính phủ quản lý để hỗ trợ triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách, có tính mới, rủi ro cao hoặc nghiên cứu, chế tạo vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt. Đồng thời, Luật quy định rõ các nguồn hình thành, nguyên tắc hoạt động của Quỹ và giao Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập, quản lý, phân bổ và sử dụng Quỹ.

11. Hoạt động đầu tư trong công nghiệp quốc phòng, an ninh

Để đẩy nhanh tiến độ triển khai các chương trình, dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, an ninh nhằm bảo đảm hiệu quả, kịp thời, Luật đã quy định cần tập trung nguồn lực, bố trí đủ vốn và ưu tiên đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm; đồng thời, quy định các chính sách đặc thù trong hoạt động đầu tư, gồm: (1) Các chương trình, dự án đầu tư, mua sắm vật tư có nội dung được xác định bí mật nhà nước độ Tối mật trở lên để triển khai nhiệm vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh thì các gói thầu thuộc chương trình, dự án đầu tư, mua sắm đó được xác định là gói thầu cần thực hiện để bảo vệ bí mật nhà nước và được chỉ định thầu; (2) chương trình, dự án nghiên cứu, sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt được áp dụng trình tự, thủ tục đầu tư công khẩn cấp theo quy định của Luật Đầu tư công. Bên cạnh đó, để khắc phục những khó khăn trong việc lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư theo quy định hiện hành trong triển khai mua sắm sản phẩm mẫu, vật tư, bán thành phẩm đặc chủng phục vụ sản xuất quốc phòng, an ninh, đặc biệt đối với các sản phẩm mẫu, vật tư, bán thành phẩm đặc chủng từ nước ngoài, Luật quy định “Việc mua sắm sản phẩm mẫu, vật tư, bán thành phẩm đặc chủng phục vụ sản xuất quốc phòng, an ninh được thực hiện chỉ định nhà cung cấp và áp dụng hình thức đàm phán giá theo quy định của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an”; (3) đối với dự án đầu tư tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh trong bước phê duyệt chủ trương đầu tư cho phép đàm phán, ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài để có cơ sở lập thẩm định phê duyệt dự án đầu tư; (4) quy định các chương trình, dự án nhóm A trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, an ninh phải được Hội đồng thẩm định do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an làm Chủ tịch (thuộc phạm vi quản lý).

12. Hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Để thực hiện có hiệu quả hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh và làm cơ sở quy định các chính sách nhằm khuyến khích sự phát triển của hoạt động này, Luật đã quy định về yêu cầu và nội dung của hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó quy định sản phẩm nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được thực hiện theo cơ chế giao nhiệm vụ từ nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, thử nghiệm, đánh giá, sản xuất thử đến nghiệm thu sản phẩm xác định đủ điều kiện sản xuất.

13. Nhân lực phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh

Nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực phục vụ hoạt động công nghiệp quốc phòng, an ninh và làm cơ sở quy định các chính sách ưu tiên, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao tham gia hoạt động này, Luật đã quy định cụ thể các nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh và ưu tiên tuyển dụng nhà khoa học, chuyên gia, người lao động có tay nghề cao đã tham gia và hoàn thành chương trình, đề án, dự án, đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh vào làm việc tại cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt.

14. Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh lưỡng dụng

Để thể chế quan điểm của Nghị quyết số 08-NQ/TW “xây dựng nền công nghiệp quốc phòng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại”, Luật quy định các cơ chế nhằm đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh lưỡng dụng theo cả hai chiều (phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh). Trong đó, khuyến khích cơ sở công nghiệp quốc phòng, an ninh nòng cốt được chuyển giao công nghệ phục vụ công nghiệp dân sinh để tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tận dụng tối đa công suất dôi dư của các dây chuyền quốc phòng, an ninh đã được đầu tư để sản xuất sản phẩm phục vụ dân sinh. Ở chiều ngược lại, khuyến khích cơ sở công nghiệp dân sinh có công nghệ tiên tiến, hiện đại được chuyển giao công nghệ và tham gia hoạt động nghiên cứu, sản xuất, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; ưu tiên công nghệ có khả năng tạo ra các sản phẩm mới và phát triển các loại vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt.

15. Tổ hợp công nghiệp quốc phòng

Đây là nội dung mới quy định tại Mục 7 Chương II, nhằm thể chế hóa tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW “thành lập tổ hợp công nghiệp quốc phòng bảo đảm tinh gọn, hiệu quả, tiên tiến, hiện đại” và thúc đẩy việc hình thành chuỗi giá trị tạo ra sản phẩm quốc phòng theo nhóm, chuyên ngành sản phẩm vũ khí trang bị kỹ thuật, Luật quy định khái quát về: (1) Chức năng, nhiệm vụ, thành phần của tổ hợp công nghiệp quốc phòng; (2) hạt nhân tổ hợp công nghiệp quốc phòng; (3) thành phần khác của tổ hợp công nghiệp quốc phòng; (4) chính sách của Nhà nước đối với tổ hợp công nghiệp quốc phòng.

Theo đó, tổ hợp công nghiệp quốc phòng không hình thành pháp nhân, không phải là tập đoàn mà được xác định là hệ thống liên kết, hợp tác của cơ sở công nghiệp quốc phòng, tổ chức, doanh nghiệp đáp ứng điều kiện nhất định, lấy cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt đủ điều kiện làm hạt nhân để hình thành chuỗi giá trị tạo ra sản phẩm quốc phòng theo nhóm, chuyên ngành sản phẩm vũ khí trang bị kỹ thuật. Hạt nhân tổ hợp công nghiệp quốc phòng là cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt phải được Thủ tướng Chính phủ quyết định, có đủ nguồn lực, tiềm lực khoa học và công nghệ để chủ trì, dẫn dắt, định hướng tổ chức nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, thử nghiệm, sản xuất và hoàn chỉnh sản phẩm quốc phòng; có trách nhiệm tổ chức điều phối, chủ trì nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất, thử nghiệm và hoàn chỉnh sản phẩm quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ. Thành phần của tổ hợp công nghiệp quốc phòng do hạt nhân tổ hợp lập danh sách, trình Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phê duyệt.

16. Động viên công nghiệp

Động viên công nghiệp là một nhiệm vụ của động viên quốc phòng, đóng vai trò quan trọng trong việc huy động tiềm lực công nghiệp quốc gia để bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật, nhất là khi chiến tranh xảy ra. Để phù hợp với tình hình thực tiễn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới cần có phương thức tiếp cận mới trong động viên công nghiệp. Theo đó, động viên công nghiệp được chuẩn bị và thực hiện từ thời bình; bảo đảm chủ động, kịp thời, đầy đủ, đáp ứng nhu cầu khi có lệnh động viên cục bộ hoặc tổng động viên và trong tình trạng chiến tranh; gồm các nội dung:

Chuẩn bị động viên công nghiệp; thực hành động viên công nghiệp; ngân sách bảo đảm và dự trữ vật tư cho động viên công nghiệp với nhiều chính sách nổi bật như: (1) Mở rộng đối tượng tham gia động viên công nghiệp là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, được tiến hành trên cơ sở năng lực của doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn đóng vai trò chủ đạo; đồng thời, xây dựng mạng lưới cơ sở công nghiệp động viên rộng khắp, đa dạng về sản phẩm, gắn kết chặt chẽ với hệ thống cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt; (2) quy định xây dựng cơ sở dữ liệu về đăng ký, quản lý doanh nghiệp là quy định mới, thay đổi cách thức quản lý, theo dõi doanh nghiệp đủ điều kiện động viên công nghiệp; (3) giao thẩm quyền cho cơ quan cấp Quân khu thẩm định, Tư lệnh Quân khu phê duyệt kế hoạch động viên công nghiệp của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để đồng bộ với các quy định về xây dựng hệ thống kế hoạch động viên quốc phòng các cấp; (4) quy định rõ về ngân sách bảo đảm và nhiệm vụ chi cho động viên công nghiệp...

17. Chế độ, chính sách trong công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp

a) Chính sách đối với cơ sở công nghiệp quốc phòng, cơ sở công nghiệp an ninh và cơ sở công nghiệp động viên

Để thúc đẩy cơ sở công nghiệp quốc phòng, cơ sở công nghiệp an ninh và cơ sở công nghiệp động viên thực hiện nghiên cứu, sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ phục vụ lực lượng vũ trang nhân dân, cơ yếu và các lực lượng thực thi pháp luật khác trong bảo đảm quốc phòng, an ninh. Luật quy định chính sách đối với các cơ sở này như sau:

- Chính sách cho cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt:

+ Đối với đối tượng là doanh nghiệp: (1) Được chủ động mua sắm vật tư và chuẩn bị các yếu tố bảo đảm, tổ chức nghiên cứu, sản xuất bảo đảm tiến độ, chất lượng sản phẩm; (2) được trích khấu hao, trích hao mòn theo chế độ đặc thù; (3) được xác định giá vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an trong trường hợp áp dụng phương pháp định giá chung có nội dung đặc thù; (4) được thuê và quyết định mức chi trả cho chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư theo thỏa thuận, tương xứng với nhiệm vụ được giao; (5) được Nhà nước hỗ trợ mức đóng chênh lệch bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong trường hợp kết quả sản xuất, kinh doanh không bảo đảm đủ mức lương và các khoản phụ cấp.

+ Đối với đối tượng không phải là doanh nghiệp: (1) Được ưu tiên xây dựng hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hệ thống công trình hạ tầng xã hội để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; (2) được giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ khi chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước; (3) được sử dụng kinh phí chi thường xuyên và nguồn thu hợp pháp khác để thuê chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư.

- Chính sách đối với cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt nghiên cứu, sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt nghiên cứu, sản xuất phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt: (1) Được bù đắp từ nguồn lợi nhuận sau thuế hằng năm của doanh nghiệp, cho các nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt không thành công; (2) được không áp dụng tiêu chí bảo toàn, phát triển vốn đối với phần vốn đầu tư cho các nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt; (3) được bảo lãnh thanh toán đặc biệt; (4) được đảm bảo nguồn tài chính theo kế hoạch sản xuất quốc phòng, an ninh.

b) Chế độ, chính sách đối với người lao động trong cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt, cơ sở công nghiệp động viên

Để ưu tiên khuyến khích, thu hút người lao động, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao tham gia xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, Luật đã quy định các chế độ, chính sách đối với người lao động trong cơ sở công nghiệp quốc phòng, cơ sở công nghiệp an ninh, cơ sở công nghiệp động viên như sau:

- Chính sách đối với người lao động trong cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt:

+ Đối với cơ sở là doanh nghiệp: (1) Được đảm bảo đủ lương theo chức vụ, chức danh, cấp hàm, ngạch, bậc và phụ cấp đặc thù trong trường hợp kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không bảo đảm; (2) được Nhà nước hỗ trợ chính sách chăm sóc sức khỏe, chính sách cho lao động nữ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi;

+ Đối với cơ sở không phải là doanh nghiệp: (1) Được hưởng lương, phụ cấp đặc thù từ ngân sách nhà nước và các khoản thu nhập khác từ nguồn kinh phí bảo đảm cho công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ, đào tạo nhân lực,… (2) được hưởng phụ cấp đặc thù theo quy định của pháp luật;

+ Ngoài chế độ, chính sách quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 65, người lao động trong cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt được hưởng chế độ, chính sách sau đây: (1) Được xem xét, giải quyết chính sách thương binh hoặc người hưởng chính sách như thương binh, nếu hy sinh được xem xét công nhận là liệt sỹ; (2) người lao động có trình độ đại học trở lên, công nhân kỹ thuật làm việc trong ngành, nghề đặc thù quốc phòng, an ninh, công nhân kỹ thuật bậc cao được hưởng chế độ, chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao, được ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề; (3) được hưởng quyền tác giả, bảo hộ quyền tác giả đối với sản phẩm từ hoạt động khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách Nhà nước; (4) được hỗ trợ về lương và phụ cấp đặc thù khi thực hiện nhiệm vụ ngoài nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh.

- Chế độ, chính sách đối với chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư tham gia hoạt động công nghiệp quốc phòng, an ninh tại cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt:

+ Đối với chuyên gia: (1) Được hưởng các chính sách như người được bổ nhiệm vào chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ theo quy định của pháp luật về khoa học và công nghệ; (2) Được đàm phán và hưởng lương, thưởng, lợi ích từ kết quả công việc theo thỏa thuận; (3) được Nhà nước bảo đảm nguồn lực, điều kiện cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ; (4) được ưu tiên bố trí nhà ở công vụ; hỗ trợ phương tiện đi lại trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; (5) trường hợp có nguyện vọng phục vụ lâu dài thì được xem xét tuyển dụng giữ chức vụ của sĩ quan và ưu tiên phong cấp bậc quân hàm sĩ quan; (6) được hưởng chính sách ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân; (7) trường hợp là người nước ngoài thì được xem xét rút ngắn quy trình thủ tục thẩm định cấp giấy phép lao động.

+ Đối với nhà khoa học đầu ngành, được hưởng các chính sách như chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành theo quy định của pháp luật về khoa học và công nghệ và các chính sách sau: (1) Được tạo điều kiện và hỗ trợ kinh phí tham quan, khảo sát, trao đổi khoa học với nhà khoa học quốc tế; (2) được giao triển khai chương trình, đề án khoa học và công nghệ về phát triển vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt; đề xuất cơ quan có thẩm quyền điều động nhân lực khoa học và công nghệ, huy động các tổ chức khoa học và công nghệ tham gia thực hiện nhiệm vụ; thuê hoặc mời chuyên gia trong nước và nước ngoài.

+ Đối với tổng công trình sư được hưởng các chính sách như nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học được giao chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia đặc biệt quan trọng theo quy định của pháp luật về khoa học và công nghệ và được trực tiếp làm việc, trao đổi với tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để triển khai thực hiện nhiệm vụ.

- Các chế độ, chính sách đối với người lao động trực tiếp thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp như: (1) Trong thời gian trực tiếp thực hiện nhiệm vụ sản xuất sản phẩm động viên công nghiệp, người lao động được doanh nghiệp chi trả lương và phụ cấp đặc thù theo định mức như đối với người lao động tại cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt; Nhà nước có chính sách hỗ trợ chăm sóc sức khỏe cho lao động nữ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi; (2) chế độ, chính sách về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội đối người lao động bị ốm đau, bị tai nạn, bị thương, chết trong thời gian diễn tập và thực hành động viên công nghiệp; (3) người bị thương, chết khi thực hiện nhiệm vụ thì được xem xét hưởng chế độ, chính sách như thương binh hoặc được xem xét để công nhận là liệt sĩ và hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật;... Giao Chính phủ quy định chi tiết chính sách đối với người lao động bị ốm đau, bị tai nạn, bị thương, chết trong thời gian diễn tập và thực hành động viên công nghiệp trường hợp chưa tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; chính sách đối với người bị thương, chết khi thực hiện nhiệm vụ.

c) Chính sách đối với hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh

Hoạt động khoa học và công nghệ trước đây được thực hiện theo quy định của pháp luật về khoa học và công nghệ, sở hữu trí tuệ, công nghệ cao... Trong thực tiễn, để triển khai từ nghiên cứu đến sản xuất thử nghiệm sản phẩm phải trải qua nhiều bước rời rạc làm cho thời gian triển khai kéo dài, phải mất 08 đến 10 năm mới đưa sản phẩm nghiên cứu vào trang bị; kết quả đề tài áp dụng vào thực tế chưa nhiều; cơ chế mua sắm vật tư đặc chủng trong hoạt động khoa học và công nghệ theo Luật Đấu thầu khó thực hiện; thủ tục thanh toán đề tài phức tạp, mất nhiều thời gian, công sức; chưa có quy định giảm rủi ro khi thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ để các nhà khoa học có thể an tâm dám nghĩ, dám làm do những sản phẩm vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt phải thử nghiệm rất nhiều lần, thậm chí hàng trăm lần mới có thể thành công.... Do đó, Luật đã quy định các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm tạo hành lang pháp lý giải quyết những bất cập, tạo đột phá, đẩy nhanh quá trình từ nghiên cứu đến đưa sản phẩm vào trang bị.

- Chính sách đối với hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh: (1) Cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt được tự chủ tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ được giao như: Mua sáng chế, thiết kế, tài liệu kỹ thuật, bí quyết công nghệ, vật tư, bán thành phẩm phục vụ nhiệm vụ khoa học và công nghệ; sử dụng chuyên gia, nhà khoa học, nhân lực chất lượng cao trong nước và nước ngoài; lựa chọn hình thức, đối tác hợp tác; được lựa chọn áp dụng khoán chi đến sản phẩm cuối cùng; (2) tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh được phân chia một phần lợi nhuận từ sản xuất sản phẩm có ứng dụng kết quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ để tái đầu tư nghiên cứu, chế tạo, phát triển các sản phẩm mới; (3) tổ chức, cá nhân được miễn trách nhiệm dân sự, khi thực hiện nhiệm vụ được giao do nguyên nhân khách quan, mặc dù đã thực hiện đầy đủ quy trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt; (4) cá nhân được trả thù lao theo hình thức khoán công việc được giao;...

- Chính sách phát triển vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt: (1) Được bảo đảm toàn bộ kinh phí từ ngân sách nhà nước các nguồn lực hợp pháp khác; (2) được phê duyệt nhiệm vụ khoa học và công nghệ xuyên suốt từ nghiên cứu, chế thử đến sản xuất thử nghiệm; (3) được ứng trước kinh phí hoặc huy động kinh phí từ nguồn hợp pháp để nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và sản xuất thử nghiệm sản phẩm theo yêu cầu tính năng chiến thuật, kỹ thuật được cấp thẩm quyền phê duyệt; (4) được áp dụng cơ chế đặc biệt để triển khai thực hiện mua tài liệu thiết kế, bí quyết công nghệ, sản phẩm mẫu, vật tư đặc chủng, thuê chuyên gia nước ngoài; (5) được dự toán kinh phí dự phòng đối với các nhiệm vụ khoa học và công nghệ có nội dung nghiên cứu, chế tạo; (6) được hỗ trợ tìm kiếm và giải mã công nghệ mới, công nghệ cao...

18. Hợp tác quốc tế và thương mại quốc tế về công nghiệp quốc phòng, an ninh

Trong những năm qua, hợp tác và thương mại quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, an ninh luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm; được đẩy mạnh theo hướng phát triển sâu rộng cả về phạm vi và mức độ hợp tác, góp phần từng bước đưa công nghiệp quốc phòng Việt Nam hội nhập thế giới, trong đó có những nội dung mang tính đột phá, đóng góp hiệu quả vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, góp phần giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, nâng cao tiềm lực quốc phòng và sức mạnh của quân đội. Tuy nhiên các văn bản quy phạm pháp luật quy định nội dung này mới chỉ ở các nghị định và thông tư, nhằm thể chế hoá Nghị quyết 08-NQ/TW, Luật đã quy định về hợp tác quốc tế và thương mại quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, an ninh với các chính sách nổi bật như sau:

- Cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt được liên doanh, liên kết với tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp nước ngoài;

- Chuyên gia, nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài, chuyên gia nước ngoài được khuyến khích tham gia hoạt động công nghiệp quốc phòng, an ninh trong lĩnh vực công nghệ cao;

- Miễn thuế nhập khẩu, miễn thuế giá trị gia tăng, ưu tiên thông quan theo quy định của pháp luật đối với sản phẩm, dịch vụ nhập khẩu phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh;…

- Miễn thuế xuất khẩu, ưu tiên thông quan theo quy định của pháp luật đối với sản phẩm, dịch vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh xuất khẩu và quy định thẩm quyền quyết định việc xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh;…;

- Nội dung hợp tác quốc tế về chuyển giao công nghệ, chính sách ưu đãi về thuế, miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đối với cơ sở công nghiệp quốc phòng, cơ sở công nghiệp an ninh khi tiếp nhận chuyển giao công nghệ;

- Quy định về tham gia trưng bày sản phẩm quốc phòng, an ninh tại triển lãm quốc phòng, an ninh quốc tế; tiếp xúc, trao đổi, giới thiệu sản phẩm quốc phòng, an ninh.


Phần thứ hai

XỬ LÝ VI PHẠM VÀTRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT

1. Xử lý vi phạm

a) Xử phạt vi phạm hành chính

Vấn đề xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động công nghiệp quốc phòng và động viên công nghiệp được quy định tại Nghị định số 120/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 37/2022/NĐ-CP) và Thông tư số 95/2014/TT-BQP hướng dẫn thi hành Nghị định số 120/2013/NĐ-CP.

Mục 4 Nghị định số 120/2013/NĐ-CP quy định 03 nhóm hành vi vi phạm về hoạt động công nghiệp quốc phòng bao gồm: (1) Vi phạm quy định về hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện tham gia hoạt động công nghiệp quốc phòng; (2) Vi phạm quy định về sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện tham gia hoạt động công nghiệp quốc phòng; (3) Vi phạm các quy định về thực hiện hoạt động công nghiệp quốc phòng với mức phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng; bị tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện tham gia hoạt động công nghiệp quốc phòng. Tuy nhiên, Nghị định số 37/2022/NĐ-CP đã bãi bỏ việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm về hoạt động công nghiệp quốc phòng.

Hành vi vi phạm về động viên công nghiệp được quy định tại mục 3 Nghị định số 120/2013/NĐ-CP bao gồm: cung cấp thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác về năng lực sản xuất, sửa chữa cho cơ quan khảo sát; trốn tránh không thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp được giao; không chấp hành quyết định huy động tham gia diễn tập động viên công nghiệp; Hủy hoại, làm mất tài liệu công nghệ do Nhà nước giao để phục vụ cho động viên công nghiệp; Không bàn giao đầy đủ tài liệu công nghệ đã được chuyển giao và trang thiết bị do Nhà nước giao khi có quyết định thu hồi; giao sản phẩm động viên công nghiệp không bảo đảm về số lượng, chất lượng theo chỉ tiêu động viên công nghiệp; sử dụng sản phẩm động viên công nghiệp vào mục đích kinh doanh, tặng, cho, cho thuê, cầm cố, nhượng bán… với mức xử phạt từ 2.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng; buộc cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về năng lực sản xuất, sửa chữa; buộc thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp; buộc thu hồi trang thiết bị, tài liệu công nghệ do Nhà nước giao; buộc thu hồi sản phẩm không bảo đảm chất lượng; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp ...

Tuy nhiên, các văn bản trên là căn cứ pháp lệnh động viên công nghiệp và pháp lệnh công nghiệp quốc phòng. Các pháp lệnh này hiện đã hết hiệu lực, tuy nhiên chưa có Nghị định mới thay thế Nghị định số 120/2013/NĐ-CP và Nghị định số 37/2022/NĐ-CP.

b) Xử lý kỷ luật

Người có hành vi vi phạm Luật còn có thể bị xử lý kỷ luật theo Thông tư 143/2023/TT-BQP về các hành vi: Cản trở đồng đội thực hiện nhiệm vụ; Trốn tránh nhiệm vụ; Vô ý làm lộ bí mật hoặc làm mất vật, tài liệu bí mật quân sự, bí mật Nhà nước; Vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật.

Tùy hành vi và mức độ vi phạm, người vi phạm sẽ bị áp dụng hình thức kỷ luật từ khiển trách đến giáng cấp bậc quân hàm, tước danh hiệu quân nhân hoặc buộc thôi việc.

c) Về xử lý hình sự

Hành vi vi phạm có thể bị xử lý hình sự về “Tội cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự”; “Tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác quân sự”; “Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự”… theo quy định của Bộ luật Hình sự.

d) Xử lý kỷ luật đảng

Điều lệ Đảng quy định tùy mức độ, tính chất sai lầm của đảng viên, áp dụng các hình thức kỷ luật sau đây: “Khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ”.

Ban Chấp hành Trung ương quy định về “nguyên tắc xử lý kỷ luật” như sau: Đảng viên vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không “xử lý nội bộ”; bị tòa án tuyên phạt từ hình phạt cải tạo không giam giữ trở lên thì phải khai trừ; nếu bị xử phạt bằng hình phạt thấp hơn cải tạo không giam giữ hoặc được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, bị xử phạt hành chính thì tùy nội dung, mức độ, tính chất, tác hại, nguyên nhân vi phạm và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ mà xem xét, thi hành kỷ luật đảng một cách thích hợp.

Đồng thời “kỷ luật Đảng không thay thế kỷ luật hành chính, đoàn thể hay các hình thức xử lý của pháp luật”. Do đó, nếu Đảng viên vi phạm đến mức bị phạt hành chính hoặc xử lý kỷ luật thì còn căn cứ vào mức độ để xem xét một trong các hình thức kỷ luật Đảng nêu trên.

Riêng trường hợp vi phạm đến mức bị tuyên phạt từ cải tạo không giam giữ trở lên thì sẽ bị khai trừ khỏi Đảng. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án của Tòa án tuyên hình phạt từ cải tạo không giam giữ trở lên có hiệu lực thì Tòa án sẽ sao và gửi bản án đến cấp ủy quản lý Đảng viên để cấp ủy khai trừ Đảng viên này. 

Từ những nội dung đã nêu trên, mặc dù không có quy định trực tiếp về hình thức kỷ luật Đảng viên khi vi phạm trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng và động viên công nghiệp nhưng sẽ căn cứ vào mức độ, tính chất, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng… để áp dụng một hình thức kỷ luật Đảng viên phù hợp.

2. Triển khai thi hành luật

Để đảm bảo các nội dung của Luật được triển khai thực hiện có hiệu quả, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 717/QĐ-TTg ngày 27/7/2024 Ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết các luật, nghị quyết được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp 7 và Quyết định số 936/QĐ-TTg ngày 07/9/2024 Ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Theo đó, các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức, cá nhân liên quan sẽ triển khai các nội dung gồm:

a) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tập huấn chuyên sâu về Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp.

b) Rà soát các luật hiện hành liên quan đến công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp để đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp.

c) Rà soát các các văn bản dưới luật liên quan đến công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp để đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, ban hành mới văn bản phù hợp với Luật.

d) Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Luật

Bộ Quốc phòng với trách nhiệm là Cơ quan Chủ trì xây dựng Luật đã đề xuất xây dựng 12 văn bản quy định chi tiết Luật: 05 nghị định của Chính phủ, 03 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 03 thông tư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và 01 thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an, gồm:

- Xây dựng 05 nghị định của Chính phủ gồm: (1) Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp (ngày 06/5/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2025/NĐ-CP quy định chi tiết các nội dung: Điều kiện, hình thức tham gia hoạt động công nghiệp quốc phòng, an ninh của cơ sở huy động; Chức năng, nhiệm vụ, thành phần của tổ hợp công nghiệp quốc phòng; Hạt nhân tổ hợp công nghiệp quốc phòng; Chính sách của Nhà nước đối với tổ hợp công nghiệp quốc phòng; Xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh); (2) Nghị định quy định về hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh; (3) Nghị định quy định một số chính sách đối với cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt và chế độ, chính sách đối với người lao động trong cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt; (4) Nghị định quy định chi tiết một số điều về quản lý nguồn lực tài chính cho công nghiệp quốc phòng, an ninh và Quỹ công nghiệp quốc phòng, an ninh; (5) Nghị định quy định về quản lý, sử dụng ngân sách bảo đảm cho động viên công nghiệp; chế độ, chính sách đối với người lao động trực tiếp thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp.

- Xây dựng 03 quyết định của Thủ tướng Chính phủ gồm: (1) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định tiêu chí đối với chức danh chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, an ninh; (2) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định tiêu chí, danh mục nhóm sản phẩm vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược; (3) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về tiêu chí, danh mục nhóm sản phẩm phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt.

- Xây dựng 03 thông tư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng: (1) Thông tư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về quản lý hoạt động sản xuất quốc phòng; (2) Thông tư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về khảo sát, lựa chọn, đăng ký, quản lý, theo dõi năng lực doanh nghiệp đủ điều kiện động viên công nghiệp; hoàn chỉnh, quản lý, duy trì năng lực dây chuyền động viên công nghiệp; (3) Thông tư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về xây dựng, thẩm định, phê duyệt kế hoạch động viên công nghiệp các cấp; thông báo quyết định động viên công nghiệp.

- Xây dựng 01 thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an: Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an về quản lý hoạt động sản xuất an ninh.

Ngoài ra, đề xuất xây dựng 10 quyết định của Thủ tướng Chính phủ để triển khai thi hành Luật: (1) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về thành lập và quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Ban chỉ đạo Nhà nước về công nghiệp quốc phòng, an ninh; (2) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục dự trữ vật tư kỹ thuật phục vụ sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật cho huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và năm đầu chiến tranh; (3) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục dự trữ vật tư kỹ thuật phục vụ sản xuất phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ cho nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm hoặc trong tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; (4) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục công nghệ lưỡng dụng được ưu tiên đầu tư phát triển; (5) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt; (6) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt; (7) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục doanh nghiệp đủ điều kiện động viên công nghiệp; (8) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục dự trữ vật tư phục vụ động viên công nghiệp; (9) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục sản phẩm, dịch vụ nhập khẩu phục vụ công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh; (10) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục vũ khí quân dụng, vật liệu nổ quân dụng do Bộ Công an đặt hàng cơ sở công nghiệp quốc phòng nghiên cứu, sản xuất.

đ) Trách nhiệm của cấp ủy, người chỉ huy, tổ chức đoàn thể các cơ quan, đơn vị

Quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các văn bản chỉ đạo, chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước, quy định của Quân đội liên quan đến công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao nhận thức cho cơ quan, đơn vị, tổ chức, cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng và người lao động về những nội dung cơ bản của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp và các văn bản quy định chi tiết. Qua đó, nâng cao ý thức trách nhiệm về vị trí, vai trò quan trọng của lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp đối với việc triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Tăng cường công tác kiểm tra, nắm tình hình, kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp theo thẩm quyền. Định kỳ, triển khai thực hiện nghiêm túc việc sơ kết, tổng kết, đánh giá, báo cáo kết quả, rút kinh nghiệm trong công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp theo đúng quy định.

e) Trách nhiệm của quân nhân, công nhân, viên chức quốc phòng

Tự giác học tập, nghiên cứu, quán triệt và thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Phát huy vai trò gương mẫu của người cán bộ, đảng viên và quân nhân cách mạng trong tuyên truyền, phổ biến và thực hiện Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được phân công trong thực hiện nhiệm vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Kịp thời ngăn chặn, tố giác các hành vi vi phạm pháp luật về công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp.

KẾT LUẬN

Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp ra đời mang một ý nghĩa rất quan trọng, giúp phát huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành công nghiệp quốc phòng.  Thứ nhất, luật ra đời nhằm mục đích hoàn thiện các cơ chế, chính sách đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp trước mắt và lâu dài, bao gồm cả đảm bảo cơ chế, chính sách đặc thù cho những lĩnh vực đặc biệt quan trọng của công nghiệp quốc phòng, an ninh. Tập trung vào các nội dung: Nguồn vốn cho đầu tư; nghiên cứu phát triển vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, công nghệ lưỡng dụng; thu hút, gìn giữ nguồn nhân lực chất lượng cao, khuyến khích nhân tài phục vụ xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; triển khai các dự án đầu tư, nghiên cứu phát triển sản phẩm mũi nhọn; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ sở công nghiệp quốc phòng, an ninh, cơ sở công nghiệp động viên.... Thứ hai, phát huy vai trò chức năng, nhiệm vụ của công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp trong đảm bảo vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ cho lực lượng vũ trang nhân dân; tổ chức đổi mới, sắp xếp hệ thống cơ sở công nghiệp quốc phòng, an ninh phù hợp đặc thù công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh và gắn với phương thức tác chiến của Quân đội, nhiệm vụ của Công an, đáp ứng với kinh tế thị trường, hội nhập toàn cầu; bảo đảm tập trung, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Thứ ba, huy động các thành phần kinh tế, doanh nghiệp ngoài lực lượng vũ trang nhân dân có tiềm lực về tài chính, khoa học công nghệ tham gia đầu tư phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh và thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp, tham gia sản xuất, sửa chữa vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ cho lực lượng vũ trang nhân dân; đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế./.