* Sự cần thiết của việc sửa đổi, bổ sung
Bộ luật Hình sự năm 2015, với các sửa đổi,
bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS 2015), đã được thi hành trong
hơn 8 năm qua, đóng vai trò nền tảng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm tại Việt Nam. Bộ luật này đã có những bước tiến đáng kể trong việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật hình sự, góp phần bảo vệ các quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá
nhân. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội của đất nước có nhiều
thay đổi lớn, kéo theo sự phức tạp và đa dạng của các loại hình tội phạm, Bộ luật
hiện hành đã bộc lộ một số vướng mắc và bất cập. Việc ban hành dự án Bộ luật sửa
đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 2015 là cần thiết dựa trên các cơ sở chính trị,
pháp lý và thực tiễn.
Cơ sở chính trị, pháp lý:
- Cụ thể hóa Hiến pháp 2013 về quyền con
người và thể chế hóa các chủ trương của Đảng về phòng, chống tội phạm, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
- Đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng về sắp
xếp, tinh gọn bộ máy hành chính của đất nước, sự phát triển khoa học, công nghệ,
đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và hội nhập quốc tế;
- Thực hiện các chỉ đạo của Đảng về đấu
tranh phòng, chống tội phạm (kinh tế, tham nhũng, công nghệ cao), cải cách tư
pháp, hoàn thiện pháp luật, và đặc biệt là chủ trương tiếp tục thu hẹp hình phạt
tử hình.
Cơ sở thực tiễn:
- Sau hơn 8 năm thi hành, BLHS 2015 bộc lộ
nhiều vướng mắc, bất cập do tình hình kinh tế - xã hội thay đổi và diễn biến phức
tạp của tội phạm;
- Các quy định về định lượng tiền, phạm vi
chịu trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và pháp nhân thương mại
chưa phù hợp;
- Các quy định về hình phạt tử hình còn
nhiều bất cập (khung hình phạt rộng, khó áp dụng, một số tội danh không cần thiết
duy trì, vấn đề về không áp dụng và thời hiệu thi hành án tử hình);
- Một số quy định khác còn quá nghiêm khắc,
chưa có cơ chế loại trừ trách nhiệm hình sự cho rủi ro trong thử nghiệm công
nghệ mới, hoặc chưa quy định tội danh cho một số hành vi nguy hiểm mới nổi.
Do đó, việc sửa đổi Bộ luật Hình sự là cấp
thiết để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật, giải quyết vướng mắc
thực tiễn, và nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm, phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội.
* Một số điểm mới nổi bật
Thứ nhất, bãi bỏ hình phạt tử hình đối
với 08 tội danh
Luật số 86/2025/QH15 đã bãi bỏ hình phạt tử
hình đối với 08 tội danh. Cụ thể: Điều 109. Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền
nhân dân; Điều 110. Tội gián điệp; Điều 114. Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ
thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Điều 194. Tội sản xuất, buôn
bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; Điều 250. Tội vận chuyển
trái phép chất ma tuý; Điều 353. Tội tham ô tài sản; Điều 354. Tội nhận hối lộ;
Điều 421. Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược. Điều này đã làm giảm
tổng số tội danh có hình phạt tử hình từ 18 (theo Bộ luật Hình sự
năm 2015) xuống còn 10 tội danh.
Về điều khoản chuyển tiếp, Luật quy
định rõ ràng đối với các bản án tử hình đã tuyên trước ngày 01/7/2025 mà liên
quan đến 08 tội danh nêu trên nhưng chưa thi hành án, hình phạt tử hình sẽ
không được thi hành. Thay vào đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sẽ có thẩm
quyền quyết định chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.
Thứ hai, quy định mới về giảm án đối
với tội tham ô tài sản và nhận hối lộ
Luật số 86/2025/QH15 đã bổ sung quy định
quan trọng liên quan đến việc giảm án đối với các tội danh tham ô tài sản và nhận
hối lộ. Cụ thể, đối với những người bị kết án tù chung thân về tội tham ô tài sản
(Điều 353) hoặc nhận hối lộ (Điều 354), họ chỉ có thể được xem xét giảm thời hạn
chấp hành hình phạt khi đã tự nguyện nộp lại ít nhất ba phần tư (¾) tài sản
tham ô hoặc nhận hối lộ. Ngoài ra, điều kiện bắt buộc là họ phải tích cực
hợp tác với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc
lập công lớn. Quy định này được đưa ra với mục đích rõ ràng là đảm bảo thu hồi
tối đa tài sản do phạm tội mà có, đồng thời khuyến khích người phạm tội tích cực
khai báo, hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án.
Thứ ba, nâng mức phạt tù tại 8 điều
luật, tập trung vào các nhóm tội về môi trường, ma túy, an toàn thực phẩm
Nâng mức phạt tù tại 8 điều luật, tập
trung vào các nhóm tội về môi trường, ma túy, an toàn thực phẩm, cụ thể là: Điều
235. Tội gây ô nhiễm môi trường; Điều 236. Tội vi phạm quy định về quản lý chất
thải nguy hại; Điều 248. Tội sản xuất trái phép chất ma túy; Điều 249. Tội tàng
trữ trái phép chất ma túy; Điều 250. Tội vận chuyển trái phép chất ma túy; Điều
251. Tội mua bán trái phép chất ma túy; Điều 255. Tội tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy; Điều 317. Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm.
Thứ tư, nâng mức hình phạt tiền đối với một
số tội danh
Nâng gấp 2 lần hình phạt tiền tại 24 điều
luật, tập trung vào nhóm tội về hàng giả, môi trường, an toàn thực phẩm, tham
nhũng, cụ thể là: Điều 192. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả; Điều 193. Tội sản
xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm; Điều 194.
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; Điều 195.
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc
thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi; Điều 235. Tội
gây ô nhiễm môi trường; Điều 236. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải
nguy hại; Điều 237. Tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố
môi trường; Điều 238. Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi,
đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông; Điều
239. Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam; Điều 240. Tội làm lây lan dịch bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm cho người; Điều 241. Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm
cho động vật, thực vật; Điều 242. Tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản; Điều 243. Tội
hủy hoại rừng; Điều 244. Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý,
hiếm; Điều 245. Tội vi phạm quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên; Điều
246. Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại; Điều 317. Tội vi phạm
quy định về an toàn thực phẩm; Điều 353. Tội tham ô tài sản; Điều 354. Tội nhận
hối lộ; Điều 355. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Điều 356.
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Điều 357. Tội lạm
quyền trong khi thi hành công vụ; Điều 358. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây
ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; Điều 359. Tội giả mạo trong công tác.
Thứ năm, bổ sung tội sử dụng trái phép chất
ma túy (Điều 256a)
Điều 256a hướng vào những cá nhân sử dụng
trái phép chất ma túy trong các trường hợp cụ thể, nhằm giảm việc sử dụng ma
túy và tăng cường hiệu quả quản lý. Cụ thể, người nào sử dụng trái phép chất ma
túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 03
năm: (1) Đang trong thời hạn cai nghiện ma túy hoặc điều trị nghiện các chất
ma túy bằng thuốc thay thế theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy; (2) Đang
trong thời hạn quản lý sau cai nghiện ma túy theo quy định của Luật Phòng, chống
ma túy; (3) Đang trong thời hạn 02 năm kể từ ngày hết thời hạn quản lý sau cai
nghiện ma túy và trong thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy; (4) Đang trong thời hạn 02 năm kể từ
khi tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện hoặc điều trị nghiện các chất ma
túy bằng thuốc thay thế theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy 2021. Đối
với trường hợp tái phạm tội này, hình phạt sẽ là tù từ 03 năm đến 05 năm.
Thứ sáu, không thi hành án tử hình đối với người mắc bệnh
ung thư giai đoạn cuối
Luật số 86/2025/QH15
đã sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Hình sự 2015, bổ sung một quy định
mang tính nhân đạo mới. Theo đó, không thi hành án tử hình đối với người bị kết
án nếu họ mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối. Quy định mới này bổ sung cho
các trường hợp đã có trong luật hiện hành, bao gồm: (1) Phụ nữ có thai hoặc
phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; (2) Người đủ 75 tuổi trở lên.
Thứ bảy, sửa đổi 2 điều luật để phù hợp với
cơ cấu, tổ chức bộ máy mới sau khi không tổ chức Công an cấp huyện
Sửa đổi 2 điều luật để phù hợp với cơ cấu,
tổ chức bộ máy mới sau khi không tổ chức Công an cấp huyện và tên gọi của các bộ
sau khi thực hiện phương án sáp nhập gồm: Thay thế cụm từ “cơ quan thi hành án
hình sự cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt” thành cụm từ “cơ quan có thẩm
quyền” tại Điều 62 của Bộ luật Hình sự; thay cụm từ “Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn” thành cụm từ “Bộ Nông nghiệp và Môi trường”, bỏ cụm từ “Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện” tại Điều 241 của Bộ luật Hình sự.
Thứ tám, sửa đổi, bổ sung một số điều của
các luật có liên quan
- Đối với Luật Thi hành án hình sự: Sửa đổi,
bổ sung 3 điều luật (Điều 68, Điều 82 và Điều 115), thay thế cụm từ “Tòa án
nhân dân cấp tỉnh” bằng cụm từ “Tòa án nhân dân khu vực” tại khoản 3 Điều 36,
khoản 3 Điều 55, khoản 1 Điều 136; thay thế cụm từ “Ủy ban nhân dân cấp huyện”
bằng cụm từ “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh” tại điểm d khoản 1 Điều 192; thay thế cụm
từ “Tòa án nhân dân cấp huyện” bằng cụm từ “Tòa án nhân dân khu vực” tại khoản
4 Điều 90, các khoản 1, 3 và 5 Điều 93, khoản 1 Điều 102, khoản 4 Điều 103; bãi
bỏ điểm d khoản 1 Điều 80, điểm c khoản 1 Điều 192 và Điều 205.
- Đối với Luật Đặc xá, sửa đổi, bổ sung 9
điều luật, gồm: Điều 9, Điều 11, Điều 15, Điều 18, Điều 27, Điều 29, Điều 31.
- Đối với Luật Phòng, chống mua bán người:
Sửa đổi, bổ sung 7 điều luật (Điều 27, Điều 28, Điều 30, Điều 31, Điều 33, Điều
46, Điều 53); thay thế cụm từ “xã, phường, thị trấn” bằng cụm từ “xã, phường, đặc
khu” tại khoản 1 Điều 22; bãi bỏ Điều 52; bỏ cụm từ “thanh tra” tại khoản 2 Điều
55.
- Đối với Luật CAND: Sửa đổi, bổ sung
06 điều luật gồm: Điều 16, Điều 17, Điều 18, Điều 24, Điều 33, Điều 38;
thay thế cụm từ “Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” bằng cụm từ
“Công an tỉnh, thành phố” tại điểm c khoản 1 Điều 24; thay thế cụm từ “Ủy ban
Quốc phòng và An ninh” thành cụm từ “Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại” tại
điểm b khoản 1 Điều 25; bãi bỏ khoản 2 Điều 17.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật Hình sự năm 2025 (Luật số 86/2025/QH15) đánh dấu một bước tiến quan trọng
trong hệ thống tư pháp hình sự của Việt Nam. Luật này không chỉ phản ánh sự
thích ứng của pháp luật với tình hình tội phạm và điều kiện kinh tế - xã hội mới
mà còn thể hiện định hướng hội nhập quốc tế và cam kết bảo vệ quyền con người
trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm. Những thay đổi này dự kiến sẽ
có tác động sâu rộng đến công tác thực thi pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả
phòng ngừa và trấn áp tội phạm, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào
công lý./.
0 Nhận xét